Ba là, tăng cường quản lý bị can, bị cáo
bị tạm giam.
Trong thời gian tới, các cơ sở giam giữ
nên tăng cường lực lượng canh giữ, giám
sát phòng giam, đồng thời trang bị phương
tiện hiện đại, tân tiến để phục vụ công tác
quản lý giam giữ. Bên cạnh đó, thiết nghĩ
việc nghiên cứu cách thức và phương pháp
kiểm tra tâm lý của tất cả bị can, bị cáo bị
tạm giam để có thể phân loại đối tượng có
khả năng và mong muốn tự sát hoặc có
biểu hiện bất thường để có các biện pháp
theo dõi, ngăn chặn một cách kịp thời là
rất quan trọng và cần được triển khai sớm.
Bốn là, mở rộng quy mô giam giữ.
Hiện nay, số lượng người tạm giam
khá đông, diện tích ở của người bị tạm
giam trong một số nhà tạm giữ, trại tạm
giam chưa bảo đảm đủ 2m2 một người.
Số lượng người tạm giam vượt quá quy
mô giam giữ dẫn đến nguy cơ mất vệ sinh
môi trường, đồng thời ảnh hưởng đến
quyền lợi của người bị tạm giam. Do đó,
cần thiết phải cải tạo, mở rộng diện tích
giam giữ cho các trại tạm giam, nâng cấp
cơ sở vật chất, đổi mới các thiết bị trong
các buồng tạm giam. Có như vậy, quyền
con người của người bị tạm giam mới
được tôn trọng và bảo đảm.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đề xuất nhằm bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
28 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
Mọi người có quyền tự do về thân thể, được pháp luật ghi nhận và bảo đảm quyền đó. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, việc giới hạn tự do
thân thể của một người là cần thiết để bảo
đảm công lý, tạo điều kiện để xử lý nghiêm
minh hành vi phạm tội, bảo đảm trật tự, an
toàn trong xã hội. Áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự là một trong
những trường hợp đó. Việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn này là cần thiết và khách
quan nhưng có thể có nguy cơ xâm hại đến
quyền và lợi ích của bị can, bị cáo. Trong
phạm vi bài viết này, chúng tôi nghiên cứu
đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015
về biện pháp ngăn chặn tạm giam, khảo sát
thực tiễn áp dụng quy định này trong năm
năm gần đây, từ đó đưa ra một số đề xuất
nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người
của bị can, bị cáo trong áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam.
1. Quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 về biện pháp ngăn
chặn tạm giam.
BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa sâu sắc
yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 về dân
chủ, pháp quyền, tôn trọng và bảo đảm
quyền con người trong các quy định của
mình, đặc biệt là quy định về biện pháp
ngăn chặn. Các biện pháp ngăn chặn nói
* Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CAN,
BỊ CÁO KHI ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM
TRẦN THỊ THU HIỀN *
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã có những thay đổi cơ bản
trong quy định về các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp ngăn chặn
tạm giam nói riêng theo hướng tôn trọng và đề cao quyền con người trong
tố tụng hình sự so với BLTTHS năm 2003 trước đây. Tuy nhiên, bên cạnh
điểm tiến bộ, quy định của BLTTHS năm 2015 về tạm giam vẫn còn hạn chế,
thực tiễn áp dụng các quy định còn nhiều bất cập, vướng mắc, xâm phạm đến
quyền con người của bị can, bị cáo. Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định và đề
ra những giải pháp trên thực tiễn áp dụng tạm giam cần được nghiên cứu một
cách thấu đáo để bảo đảm tốt hơn nữa quyền con người của bị can, bị cáo.
Từ khóa: Tạm giam, tố tụng hình sự, quyền con người.
In the Criminal Procedures Code (CPC) of 2015, there have been basic
changes on regulations of preventive measures generally and temporary
detention preventive measures particularly in direction of respecting and
giving prominence to human rights in criminal proceedings, by comparison
with the previous one in 2003. However, despite of some progressive
points, both regulations of temporary detention preventive measures in
CPC of 2015 and in reality have witnessed some limitations, inadequacies
violating human rights of suspects and accused. Therfore, perfecting
these regulations and proposing suggestions in applied reality need to be
carefully studied to better ensure human rights of suspects and accused.
Keywords: Temporary detention, criminal proceedings, human rights.
TRẦN THỊ THU HIỀN
29Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
chung và biện pháp ngăn chặn tạm giam
nói riêng với tư cách là những biện pháp
hạn chế quyền con người, quyền công dân
được quy định chặt chẽ, đầy đủ năm yếu
tố: căn cứ, thời hạn áp dụng, thẩm quyền
quyết định, trình tự và thủ tục tiến hành.
Về căn cứ áp dụng: Căn cứ áp dụng biện
pháp tạm giam được quy định tại Điều 119
BLTTHS năm 2015 có sự kết hợp giữa việc
phân loại tội phạm và căn cứ khác chứng
tỏ bị can, bị cáo có khả năng bỏ trốn, tiếp
tục phạm tội, gây khó khăn cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, việc xây
dựng căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
phải xuất phát từ bản chất và mục đích của
biện pháp ngăn chặn. Trong khoa học pháp
lý, phần lớn các học giả cho rằng căn cứ áp
dụng biện pháp ngăn chặn là những tài
liệu chứng cứ dự báo có đầy đủ cơ sở về
khả năng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và
tiếp tục phạm tội(1). Trong khi đó, Khoản 1
Điều 119 BLTTHS năm 2015 quy định “Tạm
giam có thể áp dụng với bị can, bị cáo về
tội đặc biệt nghiêm trọng và rất nghiêm
trọng”. Quy định này không hợp lý bởi lẽ
không phải mọi bị can, bị cáo phạm tội rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đều
có khả năng bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, gây
khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử. Có những bị can, bị cáo phạm tội rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng sau
khi bị phát hiện ra hành vi phạm tội thì ăn
năn hối cải, thành khẩn khai báo, khắc phục
hậu quả để hưởng sự khoan hồng của pháp
luật. Do đó, không thể lấy tính chất, mức độ
nguy hại cho xã hội cao hay thấp của hành
vi phạm tội để suy đoán bị can, bị cáo có khả
năng trốn tránh việc truy cứu trách nhiệm
1 Trần Quang Tiệp (2011), Về tự do cá nhân và biện
pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị
quốc gia, tr 55.
hình sự hay gây khó khăn, trở ngại cho quá
trình giải quyết vụ án. Căn cứ áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam phải là căn cứ
có thật dự báo khả năng thực tế có thể xảy
ra việc bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc cản trở
hoạt động tố tụng hay tiếp tục phạm tội chứ
không phải suy diễn từ tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ bị
cho là đã thực hiện. Việc suy diễn tùy tiện
trong lập pháp tạo ra các kẽ hở pháp lý cho
các hành vi xâm phạm quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân.
Tham khảo pháp luật tố tụng hình sự
Nhật Bản, căn cứ tạm giam là căn cứ thực tế
để thấy bị can trốn, gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố xét xử như bị can không có
chỗ ở cố định, có đầy đủ lý do chính đáng
nghi bị can dấu diếm chứng cứ, bị can bỏ
trốn hoặc có đầy đủ lý do nghi bị can sẽ bỏ
trốn(2). Trung Quốc, Liên bang Nga xác định
căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam trên cơ
sở kết hợp giữa mức hình phạt tù mà Bộ
luật hình sự quy định đối với tội phạm và
các căn cứ thực tế để xác định bị can trốn,
tiêu hủy chứng cứ(3). Nhìn chung, mức phạt
tù mà Bộ luật hình sự quy định không được
coi là căn cứ độc lập và duy nhất để tạm
giam một người mà có các điều kiện chặt
chẽ khác. Do đó, căn cứ áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam trong BLTTHS năm
2015 cần phải được nghiên cứu, xem xét lại
để bảo đảm tính khoa học và hợp lý.
Về thẩm quyền quyết định áp dụng biện
pháp ngăn chặn: Để bảo đảm tính thận
trọng trong quyết định áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam, BLTTHS năm 2015
quy định thẩm quyền thuộc về một số
người tiến hành tố tụng như Viện trưởng,
phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
2 Điều 60 BLTTHS Nhật Bản
3 Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga, Điều 79 BLTTHS
TrungQuốc
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI...
30 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
và Viện trưởng, phó Viện trưởng Viện
kiểm sát quân sự các cấp, Chánh án, phó
Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án,
phó Chánh án Tòa án cấp quân sự các cấp,
Hội đồng xét xử. Như vậy, theo quy định
của BLTTHS năm 2015, có 9 loại chủ thể
có quyền ra lệnh tạm giam. Tuy nhiên,
việc quy định quá nhiều chủ thể được ra
lệnh áp dụng biện pháp tạm giam tiềm ẩn
nguy cơ dẫn tới việc lạm dụng, áp dụng
tràn lan biện pháp này trên thực tế, không
bảo đảm quyền con người của bị can, bị
cáo.
Về thời hạn áp dụng: Thời hạn tạm
giam được quy định khác nhau đối với
từng giai đoạn. Trong giai đoạn điều tra,
thời hạn tạm giam và thời hạn gia hạn tạm
giam được quy định dựa trên sự phân loại
tội phạm. So với BLTTHS năm 2003, thời
hạn gia hạn tạm giam để điều tra trong
BLTTHS năm 2015 được rút ngắn, cụ thể
đối với tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm
trọng (chỉ cho phép gia hạn một lần thay
vì gia hạn hai lần như BLTTHS năm 2003)
và đối với tội đặc biệt nghiêm trọng (chỉ
cho phép gia hạn hai lần thay vì gia hạn ba
lần như BLTTHS năm 2003). Đối với bị can,
bị cáo là người dưới 18 tuổi, BLTTHS năm
2015 rút ngắn thời hạn tạm giam đối với
người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời
hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở
lên; điều này thể hiện sự ưu tiên đặc biệt
đối với đối tượng này và phù hợp với quy
định trong các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên. Việc rút ngắn thời hạn
tạm giam để điều tra sẽ buộc các cơ quan tố
tụng phải cân nhắc kỹ thời điểm bắt giam,
phải tổ chức lực lượng để khẩn trương kết
thúc vụ án, không kéo dài tình trạng pháp
lý căng thẳng của bị can, bị cáo. Do vậy,
BLTTHS năm 2015 giảm số lần gia hạn tạm
giam là bảo vệ tốt hơn quyền con người,
quyền công dân, và phù hợp với xu thế của
các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới.
Về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam: Để bảo đảm quyền con
người của người bị áp dụng biện pháp tạm
giam, BLTTHS năm 2015 quy định chặt
chẽ, chi tiết trình tự, thủ tục áp dụng biện
pháp này. Tạm giam phải có lệnh, quyết
định của người có thẩm quyền. Lệnh tạm
giam phải ghi rõ họ tên, địa chỉ người bị
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, lý
do, thời hạn áp dụng và các nội dung khác
quy định tại Điều 132 BLTTHS năm 2015.
Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước
của người bị tạm giam. Đối với trường hợp
người bị tạm giam có người thân thích là
người tàn tật, già yếu mà không có người
chăm sóc, thì tùy từng trường hợp mà cơ
quan ra lệnh tạm giam giao những người
đó cho người thân thích hoặc chính quyền
sở tại chăm nom, nhà hoặc tài sản của
họ cũng được áp dụng những biện pháp
trông nom, bảo quản thích đáng (Điều 120
BLTTHS năm 2015).
2. Thực trạng áp dụng quy định của
BLTTHS năm 2015 về biện pháp ngăn
chặn tạm giam
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam của các cơ quan
tiến hành tố tụng trong thời gian năm năm
gần đây có thể thấy số bị can, bị cáo bị tạm
giam có xu hướng giảm dần. Cụ thể, năm
2013, số lượng người bị tạm giam là 135.073,
năm 2014 là 142.754, tăng 5,69%, năm 2015
là 129.759, giảm 9,1%, năm 2016 là 116.416
người, giảm 10,3%. Năm 2017 là 106.676
người, giảm 9,2% so với cùng kỳ năm 2016(1).
Số người bị tạm giam sau đó xét xử, tòa án
tuyên hình phạt tù trên tổng số lượng đã
giải quyết chiếm tỉ lệ 73,49% trong giai đoạn
1 Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát tạm giữ, tạm
giam và thi hành án năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.
TRẦN THỊ THU HIỀN
31Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
2013- 2017. Qua số liệu trên có thể thấy phần
lớn các trường hợp áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam đều xuất phát từ nhu cầu
ngăn chặn tội phạm. Tuy nhiên, vẫn còn tồn
tại tình trạng quá hạn tạm giam. Năm 2013,
số lượng tạm giam quá hạn là 1051 lượt, năm
2014 là 1361 lượt, năm 2015 là 1273, năm 2016
là 719 lượt, năm 2017 số lượng này giảm
xuống chỉ còn 34 lượt. Trong các cơ sở giam
giữ, công tác quản lý còn lỏng lẻo dẫn đến
tình trạng người bị tạm giam tự sát, bị đối
tượng cùng buồng giam đánh hoặc phạm
tội mới. Năm 2013, xảy ra 22 trường hợp
đối tượng tạm giam tự sát, năm 2014 là 13
trường hợp, năm 2015 là 13 trường hợp, năm
2016 là 10 trường hợp, năm 2017 là 14 trường
hợp. Trong trại giam tình trạng bắt nạt các
đối tượng cùng phòng, thậm chí đánh chết
đối tượng cùng phòng còn tiếp diễn, hầu
như năm nào cũng xảy ra 2 đến 5 vụ. Việc
người bị tạm giam phạm tội mới cũng là một
vấn đề đáng quan tâm. Phần lớn đối tượng
phạm tội trốn khỏi nơi giam, còn lại là các
tội giết người; cố ý gây thương tích, chống
người thi hành công vụ, tàng trữ trái phép
chất ma túy... Bên cạnh đó, trong quản lý và
bố trí giam giữ còn nhiều bất cập như giam
giữ chung buồng người cùng vụ án, người
thành niên với người chưa thành niên; phạm
nhân với người bị tạm giữ, tạm giam; người
Việt Nam với người nước ngoài(1); Có trường
hợp công tác quản lý và bố trí nơi giam giữ
người bị kết án tử hình còn sơ hở, không
đúng quy định dẫn đến đối tượng người bị
kết án tử hình(2) có thai và đã sinh con trong
thời gian đang tạm giam..
1 Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát tạm giữ, tạm
giam và thi hành án năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.
3 (Nguyễn Thị Huệ, sinh ngày 29/01/1974, trú tại Đồng
Đăng, Cao Lộc, Lạng Sơn, bị bắt ngày 19/4/2012, xét xử
phúc thẩm ngày 19/6/2014, hình phạt tử hình về tội:
“Mua bán trái phép chất ma túy”), xảy ra tại Trại tạm
giam Công an tỉnh Quảng Ninh (bị án Huệ đã được
chuyển từ hình phạt tử hình xuống chung thân).
Mặt khác, các trình tự, thủ tục tạm
giam chưa được các cơ quan tiến hành
tố tụng và cơ sở giam giữ tuân thủ chặt
chẽ như việc tiếp nhận đối tượng bị tạm
giam còn thiếu thủ tục (thiếu lý lịch bị can,
thiếu quyết định truy nã, lệnh bắt khẩn
cấp, quyết định gia hạn tạm giữ, lệnh trích
xuất, danh bản, phiếu khám sức khỏe, biên
bản bắt, biên bản bàn giao hồ sơ )(3), trích
xuất bị can không đúng thủ tục, đưa người
bị tạm giam, người đang chờ đưa đi chấp
hành án ra ngoài lao động phục vụ. Những
sai phạm trên đã và đang ảnh hưởng không
nhỏ đến quyền con người của bị can.
Những vi phạm, tồn tại trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Đó là các quy định của BLTTHS năm 2015
còn bất cập; các cơ sở giam giữ, cơ quan
tiến hành tố tụng chưa nhận thức và áp
dụng đúng pháp luật; công tác quản lý còn
sơ hở; cơ chế phối hợp chưa đồng bộ; quy
mô, điều kiện của các cơ sở giam giữ chưa
đáp ứng yêu cầu.
3. Một số kiến nghị, đề xuất về biện
pháp ngăn chặn tạm giam nhằm bảo đảm
quyền con người của bị can, bị cáo
Một là, hoàn thiện các quy định của BLTTHS
năm 2015 về biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Từ các phân tích trên, chúng tôi kiến
nghị sửa đổi một số vấn đề sau:
Thứ nhất, về căn cứ áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam. Theo ý kiến chúng tôi,
không thể sử dụng kết quả phân loại tội
phạm làm cơ sở độc lập để xây dựng căn
cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
như cách quy định của BLTTHS năm 2015
mà phải coi căn cứ người bị buộc tội tiếp
tục phạm tội hoặc cản trở, gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
3 Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát tạm giữ, tạm
giam và thi hành án năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI...
32 Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2018
án là căn cứ chủ yếu để xem xét, quyết
định áp dụng biện pháp này. Đồng thời,
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam cần sự khẩn trương, nhanh chóng
để đạt được mục đích ngăn chặn, sẽ là
khó khăn khi buộc các cơ quan có thẩm
quyền xác định hành vi phạm tội đó thuộc
loại ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hay rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng khi
quyết định áp dụng biện pháp này. Vì
vậy, chúng tôi cho rằng căn cứ áp dụng
biện pháp tạm giam chỉ nên dựa trên hình
phạt BLHS quy định đối với tội danh đó là
hình phạt tù trên 2 năm và căn cứ thực tế
cho thấy người bị buộc tội tiếp tục phạm
tội hoặc cản trở, gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Theo đó, Điều 119 BLTTHS năm 2015
cần được sửa đổi như sau:
“Tạm giam có thể được áp dụng đối với
bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS quy định
hình phạt tù trên 2 năm khi có căn cứ xác định
người đó thuộc một trong các trường hợp:
a.
b...”
Thứ hai, về thẩm quyền áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam. Nghiên cứu
thông lệ quốc tế và pháp luật một số quốc
gia khác, chỉ một số quốc gia như Trung
Quốc, Việt Nam giao Cơ quan điều tra
thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp
tạm giam(1). Các quốc gia khác như Nga,
Pháp, Đức, Nhật Bản, Tòa án là cơ quan
duy nhất được trao quyền quyết định việc
tạm giam trên cơ sở hồ sơ, tài liệu có liên
quan của cảnh sát và đề nghị của Công tố
viên(2). Quy định như vậy nhằm mục đích
đặt cơ quan điều tra dưới sự kiểm soát
1 Điều 89 BLTTHS TrungQuốc
2 Điều 108 BLTTHS Liên Bang Nga được sửa đổi
bổ sung năm 2012 và Điều 114 BLTTHS Liên bang
Đức, điều 137 BLTTHS Pháp, Điều 60 BLTTHS
Nhật Bản.
của cơ quan xét xử(3). Chúng tôi cho rằng
hoạt động điều tra nói chung và việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn nói riêng phải
đặt dưới sự kiểm soát là vô cùng cần thiết,
đặc biệt đối với giai đoạn điều tra trong
mô hình tố tụng thiên về thẩm vấn đang
tồn tại ở Việt Nam. Bởi lẽ trong mô hình tố
tụng này, giai đoạn điều tra mang các đặc
trưng như bán công khai, tính tranh tụng,
sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ các
bên hạn chế. Do vậy, nếu giao quá nhiều
quyền lực nhà nước cho cơ quan điều tra
việc lạm quyền dễ xảy ra nhưng lại khó bị
phát hiện. Bởi sự lạm quyền là thuộc tính
của những người gắn với quyền lực nhà
nước. Ở đâu có quyền lực, thì ở đó luôn
tiềm ẩn nguy cơ của sự lạm quyền(4). Sự
lạm quyền trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam có khả năng gây hậu
quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền
tự do thân thể của bị can. Với cơ chế
kiểm soát việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam hiện nay trong BLTTHS
năm 2015 là thủ trưởng, phó thủ trưởng
cơ quan điều tra được ra lệnh tạm giam
nhưng lệnh này phải được sự phê chuẩn
của Viện kiểm sát trước khi thi hành theo
chúng tôi chưa đủ mạnh. Cơ chế kiểm soát
này phải được nâng cao theo hướng cơ
quan điều tra chỉ được quyền đề nghị còn
Viện kiểm sát sẽ quyết định việc áp dụng
biện pháp tạm giam. Do đó, chúng tôi đề
nghị cần bỏ thẩm quyền quyết định tạm
giam của Thủ trưởng, phó Thủ trưởng cơ
quan điều tra. Cơ quan điều tra có quyền
đề nghị ra lệnh tạm giam còn thẩm quyền
ra lệnh tạm giam thuộc về Viện trưởng,
phó Viện trưởng Viện kiểm sát. Điều này
3 Tô Văn Hòa (2012), Những mô hình tố tụng hình sự điển
hình trên thế giới, Nxb Hồng Đức, tr 23
4 Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm
của nhà nước, NxbTư pháp, tr 34.
TRẦN THỊ THU HIỀN
33Số 06 - 2018 Khoa học Kiểm sát
không những phù hợp với tinh thần Nghị
quyết số 49- NQ/TW “thu hẹp đối tượng,
người có thẩm quyền quyết định áp dụng
biện pháp tạm giam”, mà còn hợp với xu
hướng chung của các quốc gia trên thế
giới và bảo đảm tốt hơn nữa quyền bất
khả xâm phạm về thân thể của bị can.
Thứ ba, về thời hạn áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam trong trường hợp vụ án
được điều tra bổ sung. Để bảo đảm bị can
không bị tạm giam quá dài, đồng thời nâng
cao tinh thần, trách nhiệm của cơ quan có
thẩm quyền điều tra trong việc xác định sự
thật của vụ án, chúng tôi đề nghị sửa đổi
quy định về thời hạn tạm giam khi điều tra
bổ sung theo hướng không cho phép tạm
giam bị can nếu thời hạn tạm giam trong
điều tra vụ án trước đó đã hết thời hạn tạm
giam tối đa theo luật định. Theo đó, Khoản
4 Điều 174 được sửa đổi như sau:
“4. Khi phục hồi điều tra, điều tra
bổ sung, điều tra lại, Cơ quan điều tra
có quyền thay đổi, áp dụng, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
theo quy định của Bộ luật này.
Trường hợp có căn cứ theo quy định
của Bộ luật này cần tạm giam trong khi
điều tra bổ sung thì tổng thời hạn tạm giam
không được vượt quá thời hạn tạm giam
được quy định tại Điều 173 của Bộ luật này.
Thời hạn tạm giam và gia hạn tạm
giam trong trường hợp vụ án được điều
tra lại được thực hiện theo quy định tại
Điều 173 của Bộ luật này”
Hai là, nâng cao trình độ, năng lực chuyên
môn, nhận thức của người tiến hành tố tụng và
cán bộ ở các cơ sở giam giữ.
Đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tiến
hành tố tụng, cơ sở giam giữ phải được
chuẩn hóa, liên tục được tập huấn, bồi
dưỡng, nâng cao ý thức bảo vệ quyền
con người. Song song với việc bảo đảm
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức
nghề nghiệp, trách nhiệm và lương tâm
của người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng cũng là yếu tố quyết định chất lượng
công việc. Do đó, một mặt cần động viên,
khuyến khích cán bộ vững tâm vượt qua
những cám dỗ vật chất hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ của mình mặt khác cần
thường xuyên thanh lọc đội ngũ cán bộ,
loại bỏ các cá nhân không giữ được phẩm
chất đạo đức trong sạch, vi phạm quy tắc
nghề nghiệp khỏi đội ngũ.
Ba là, tăng cường quản lý bị can, bị cáo
bị tạm giam.
Trong thời gian tới, các cơ sở giam giữ
nên tăng cường lực lượng canh giữ, giám
sát phòng giam, đồng thời trang bị phương
tiện hiện đại, tân tiến để phục vụ công tác
quản lý giam giữ. Bên cạnh đó, thiết nghĩ
việc nghiên cứu cách thức và phương pháp
kiểm tra tâm lý của tất cả bị can, bị cáo bị
tạm giam để có thể phân loại đối tượng có
khả năng và mong muốn tự sát hoặc có
biểu hiện bất thường để có các biện pháp
theo dõi, ngăn chặn một cách kịp thời là
rất quan trọng và cần được triển khai sớm.
Bốn là, mở rộng quy mô giam giữ.
Hiện nay, số lượng người tạm giam
khá đông, diện tích ở của người bị tạm
giam trong một số nhà tạm giữ, trại tạm
giam chưa bảo đảm đủ 2m2 một người.
Số lượng người tạm giam vượt quá quy
mô giam giữ dẫn đến nguy cơ mất vệ sinh
môi trường, đồng thời ảnh hưởng đến
quyền lợi của người bị tạm giam. Do đó,
cần thiết phải cải tạo, mở rộng diện tích
giam giữ cho các trại tạm giam, nâng cấp
cơ sở vật chất, đổi mới các thiết bị trong
các buồng tạm giam. Có như vậy, quyền
con người của người bị tạm giam mới
được tôn trọng và bảo đảm./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_de_xuat_nham_bao_dam_quyen_con_nguoi_cua_bi_can_bi_ca.pdf