Việc cải cách, đổi mới và hoàn thiện bộ máy quản lý của Nhà nước phải được
hiểu là quá trình đổi mới để cải cách chính bản thân Nhà nước nhằm hướng tới mục
tiêu tối thượng là củng cố, nâng cao và phát triển năng lực của Nhà nước. Theo
chúng tôi, năng lực của bộ máy quản lý Nhà nước chính là năng lực thể chế, năng
lực hành chính của nó. Năng lực này được xác định như là khả năng thực hiện, theo
dõi, kiểm tra, giám sát và thúc đẩy các hoạt động chung của tập thể và cá nhân một
cách hiệu quả. Còn hiệu quả được hiểu là kết quả sử dụng và phát huy các năng lực
đó để đáp ứng nhu cầu kinh tế, xã hội về những hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước có
thể cung cấp với chất lượng tốt và chi phí thấp nhất theo các mục tiêu và định
hướng phát triển kinh tế, xã hội đã được vạch ra. Với yêu cầu đó, Nhà nước ta phải
tiến tới gồm những người có “cái đầu”, có tầm, có tâm, có tính quyết đoán và dám
chịu trách nhiệm, luôn sẵn sàng lắng nghe, tiếp thu có chọn lọc các ý kiến của các
tham vấn, chuyên gia phản biện khoa học của các doanh nghiệp và người dân để từ
đó đưa ra các quyết định khách quan, đúng và trúng về chính sách và quản lý. Bên
cạnh đó, cần có cơ chế thuận lợi cho việc kiểm soát, giám sát từ hai phía (cơ quan
quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, các tổ chức và người dân và ngược lại).
Đây là thể chế, cơ chế hết sức quan trọng để thực hiện tốt phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, sớm đảm bảo có được một Nhà nước mạnh, trong
sạch, tránh những hành động độc đoán chuyên quyền, lạm dụng để tham nhũng, gây
sách nhiễu và tạo ra hàng loạt tiêu cực khác. Tiếp đến, để có Nhà nước mạnh, cần
thực hiện tốt hơn công việc bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh lãnh đạo mà còn phải
có cơ chế tuyển chọn công khai thông qua thi tuyển các chức vụ lãnh đạo, kể cả các
nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước nhằm tạo ra đội ngũ lãnh đạo thực sự có tầm, có
tâm đưa đất nước bứt phá tiến lên ngang tầm với nhiều quốc gia trong khu vực và
thế giới.
15 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 253 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp đột phá về đổi mới tư duy để phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2030, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
58
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỘT PHÁ VỀ ĐỔI MỚI TƢ DUY ĐỂ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030
GS.TS Đỗ Đức Bình
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Tóm tắt: Trong thời đại ngày nay, hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập kinh
tế quốc tế nói riêng đang trở thành một u hướng tất yếu không thể đảo ngư c.
Chính hội nhập đ đưa lại cho mỗi quốc gia những cơ hội và thách thức không
giống nhau. Điều đó tùy thuộc vàotư duy, tiềm năng và khả năng tận dụng của mỗi
quốc gia. Thực tiễn thế giới đ chứng minh không có quốc gia nào luôn luôn thất
bại, thua thiệt trong hội nhập. Nếu quốc gia có tư duy tích cực cải cách, năng động
và luôn luôn nâng cao năng lực và nội lực của mình, thì cơ hội luôn luôn lớn hơn,
tận dụng tốt hơn, hiệu quả hơn và do đó, giảm thiểu thách thức và rủi ro trong các
cuộc chơi trong khu vực và toàn cầu. Nhờ tận dụng có hiệu quả các cơ hội do hội
nhập mang lại đ tạo đà và động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia trong phân công lao động và h p tác quốc tế.
T khóa: Hội nhập KTQT; Hạn chế, bất cập; giải pháp đột phá về tư duy.
1. Đặt vấn đề:
Trong hơn 30 năm đổi mới, phát triển nền kinh tế theo định hướng thị trường
và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển
kinh tế - xã hội, không ngừng mở rộng hợp tác về các mặt với các quốc gia trong
khu vực và thế giới nói chung. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng bên cạnh việc tận
dụng các cơ hội, do hội nhập mang lại, trong hơn 30 năm qua, Việt Nam cũng bỏ lỡ
nhiều cơ hội và chính các cơ hội này lại chuyển hóa thành các thách thức mới làm
cho nền kinh tế và đất nước gặp phải không ít rủi ro, tổn thất. Từ đây đặt ra các yêu
cầu cần phải nhận diện, đánh giá trúng và xác thực những thành công, kết quả chủ
yếu đã đạt được, đặc biệt là chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân dẫn đến
những hạn chế bất cập về hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập KTQT nói riêng của
Việt Nam trong hơn 30 năm qua. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp có tính đột
phá về tư duy đối với hội nhập KTQT của Việt Nam trong bối cảnh mới của quốc
tế, khu vực và trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội, giảm thiểu các thách thức
nhằm phát triển kinh tế-xã hội một cách hiệu quả và bền vững,
59
2. Những thành tựu, hạn chế chủ yếu về tƣ duy phát triển và hội nhập kinh tế
quốc tế trong hơn 30 năm đổi mới và nguyên nhân
2.1.Một số thành tựu chủ yếu
Trong hơn 30 năm đổi mới, dưới ánh sáng và thưc hiện tư tưởng đổi mới nền
kinh tế theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI và các đại hội tiếp theo sau của
Đảng cộng sản Việt Nam, nền kinh tế và đất nước Việt Nam đã có nhiều thay đổi và
đạt được nhiều thành tích đáng kinh ngạc, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Việt
Nam đã cán đích sớm so với kế hoạch để trở thành quốc gia có mức thu nhập trung
bình( mặc dù ở mức thu nhập trung bình thấp); Là một trong số ít quốc gia trong khu
vực và thế giới có thành tích tốt trong công tác xóa đói, giảm nghèo; Là quốc gia có
độ mở nền kinh tế cao, kim ngạch xuất khẩu luôn luôn có xu hướng gia tăng và trong
một vài năm gần đây đã trở thành quốc gia từ chỗ luôn nhập siêu đã trở thành quốc
gia có xuất siêu; Đầu tư nước ngoài( kể cả thu hút và thực hiện đầu tư ra nước ngoài)
đã và đang có đóng góp lớn và ngày càng tăng vào thành tích chung của sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Về mặt đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế, cho đến
nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với trên 180 quốc gia, vùng lãnh thổ. Theo
đó, Việt Nam đã từng bước mở rộng và nâng mức hợp tác với một số đối tác lên đối
tác hợp tác toàn diện( trong số đó có Hoa Kỳ), đối tác chiến lược, ví dụ như Nhật
Bản, Liên Bang Nga, Trung Quốc,...;Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 220
quốc gia, vùng lãnh thổ; Hơn 100 quốc gia , vùng lãnh thổ đã có đầu tư trục tiếp vào
Việt Nam; Cho đến nay, Việt Nam đã và đang tham gia 12FTA và còn 01 số FTA
đang tiếp tục đàm phán, đã chính thức gia nhập WTO được hơn 11 năm , tham gia
cộng đồng ASEAN, trong đó có AEC đã được gần ba năm; ngoài ra , Việt Nam còn
tích cưc tham gia các diễn đàn cấp khu vực , liên khu vực và quốc tế như APEC,
ASEM,Chính nhờ tích cực, chủ động tham gia vào sân chơi chung của khu vực và
toàn cầu và vai trò, tiếng nói và uy tín của Việt Nam đang lên và do đó, Việt Nam
đang và sẽ đứng trước nhiều cơ hội mới để phát triển. Điều quan trọng hàn toàn phụ
thuộc vào chính Việt Nam có thể tận dụng tốt cơ hội để phát triểnhay không.
2.2. Những hạn chế, bất cập chủ yếu và nguyên nhân về tư duy phát triển và
hội nhập
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam đang nổi lên một số điểm sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam hội nhập với bên ngoài được đẩy mạnh và thực hiên rất
tốt, hội nhập bên trong rất chậm, thậm chí rất yếu. Thực tế đã chỉ ra rằng trong hơn
30 năm qua, Việt Nam tích cực và chủ động hội nhập bên ngoài. Cụ thể là tích cực
60
đổi mới, mở rộng hợp tác quốc tế với hầu hết các quốc gia không phân biệt chế độ
chính trị khác nhau. Theo đó, Việt Nam đã tham gia vào nhiều định chế kinh tế
quốc tế, tích cực ký kết tham gia các hiệp định song phương và đa phương với
nhiều quốc gia trên thế giới. Cho đến nay, Việt Nam đã ký và tham gia 12FTA, hiện
nay đang tiếp tục đàm phán và sẽ ký thêm 01 số FTA nữa; Tham gia vào WTO và
cộng đồng ASEAN; Tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực; Trong
khi đó, hội nhập bên trong chưa thực sự được chú ý, cụ thể là chưa tích cực cải cách
bên trong theo hướng kinh tế thị trường và hội nhập, vẫn còn không ít Bộ, ngành,
địa phương, doanh nghiệp và người dân tỏ ra thờ ơ với hội nhập, không tích cực tìm
hiểu các thông tin về đàm phán và cam kết hội nhập, đặc biệt là chưa tích cực cải
cách theo các cam kết đã ký và theo các quy định của quốc tế. Điều này được thể
hiện ở chỗ việc điều chỉnh, bổ sung hệ thống luật pháp, các quy định, chính sách về
quản lý hoạt động kinh tế, cũng như đổi mới và tái cơ cấu kinh tế của đất nước diễn
ra chậm, chưa kịp thời, còn tạo ra nhiều rào cản gây ách tắc đối với sự phát triển
kinh tế -xã hội; việc cải cách hành chính, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà
nước(trong đó có cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước) diễn ra quá chậm chưa
phù hợp với nền kinh tế thị trường, chưa theo kịp với tiến trình hội nhập quốc tế.
Hầu hết các doanh nghiệp và người dân không sẵn sàng với hội nhập nên rủi ro lớn
và do đó làm chậm bước đi của quá trình hội nhập.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã triển khai khá đồng
loạt trên nhiều lĩnh vực (tức là trên diện rộng) và do đó, trên thực tế nhiều khi chỉ
quan tâm, chú trọng mặt lượng và coi nhẹ mặt chất của hội nhập trong phát triển.
Điều này đã góp phần làm phá vỡ sự phát triển bền vững của quốc gia ngay cả trong
hiện tại và tương lai. Chẳng hạn, về xuất khẩu hàng hoá, vẫn say mê với thành tích
đạt số lượng và kim ngạch xuất khẩu, trong khi đó kim ngạch xuất khẩu đối với các
mặt hàng gia công, lắp ráp và khai thác tài nguyên vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. Các
mặt hàng chế biến sâu, chế tác và các mặt hàng do công nghiệp hỗ trợ tạo ra, mặc
dù trong mấy năm gần đây đã có xu hướng tăng, nhưng về tỷ trọng vẫn còn chiếm
rất khiêm tốn. Điều này, trên một mức độ nhất định đã phản ánh rằng xuất khẩu của
Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nguyên nhiên vật liệu, phụ liệu nhập khẩu và
khai thác tài nguyên, khoáng sản trong nước. Hơn nữa, xuất nhập khẩu một số
ngành hàng, mặt hàng lại phụ thuộc quá lớn vào một số ít thị trường và chủ yếu là
Trung Quốc. Do đó, mỗi khi thị trường thế giới biến động, khủng hoảng thì Việt
Nam gặp không ít khó khăn, gánh chiu không ít rủi ro và hạn chế tính độc lập tự
chủ trong lĩnh vực kinh tế.
Thứ hai, tư duy, nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề độc lập tự
chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá. (Đỗ Đức Bình, 2011, 2016)
61
Trên thực tế, do chưa thực sự nhận thức đúng và khách quan về phát huy nội
lực và ngoại lực nên đã coi hội nhập luôn chỉ là cơ hội, yếu tố bên ngoài, chứ không
phải là động lực, là yếu tố quyết định quá trình phát triển. Khi đánh giá, xem xét
nguồn lực vẫn thể hiện cách hiểu tách biệt “nội lực và ngoại lực”, nên khó kết hợp
chúng thành sức mạnh tổng hợp, thống nhất trong phát triển và do đó dẫn đến làm
giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực, làm giảm sức thu hút đối với nguồn lực bên
ngoài. Điều này thể hiện rất rõ ở sự tách biệt, thiếu gắn kết của khu vực kinh tế
trong nước với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Chính do sự thiếu gắn kết nên đã
làm kém tính hấp dẫn của môi trường đầu tư và hấp dẫn đối với các công ty đa quốc
gia tại Việt Nam. Bên cạnh việc coi hội nhập chỉ là cơ hội, yếu tố bên ngoài, chúng
ta mới chỉ dừng lại ở việc coi hội nhập chỉ là yếu tố góp phần vào tăng trưởng, phát
triển kinh tế ở từng thời điểm, chứ chưa thấy rõ nó đóng vai trò to lớn để phát triển
lâu dài đối với nền kinh tế nước ta. Nhận thức như vậy dẫn đến quan niệm về hội
nhập là tranh thủ cơ hội, chớp lấy thời cơ, chứ chưa phải chủ động để thu hút, tạo
điều kiện và tăng lòng tin và sự yên tâm cho các công ty nước ngoài kinh doanh lâu
dài ở Việt Nam.
Gắn liền với hội nhập quốc tế, Việt Nam cũng chưa có cách hiểu mới và đầy
đủ mang tính đột phá về nội hàm khái niệm độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu
hoá. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, cách hiểu độc lập tự chủ (trong đó có kinh tế) của
ta hiện nay vẫn thiên về phòng thủ, đối phó, chưa tạo thuận lợi hoá các hoạt động
sản xuất kinh doanh và đầu tư, chưa tôn trọng nguyên tắc tự do cạnh tranh trong nền
kinh tế thị trường và hội nhập. Điều đó dẫn đến tâm lý chung (kể cả ở cấp lãnh đạo
và doanh nghiệp) là do dự, chần chừ, thậm chí lo sợ cải cách mạnh thể chế chính trị,
kinh tế, và do đó thường ở vào thế bị động, lúng túng.
Tư tưởng cục bộ, ngắn hạn, chỉ quan tâm lợi ích nhóm, coi nhẹ lợi ích dân
tộc và cộng đồng, nặng về xử lý tình huống trong hội nhập là một trong số các
nguyên nhân chủ yếu làm trì trệ trong tư duy, do dự trong hành động của các cấp
lãnh đạo, các Bộ, ngành địa phương và doanh nghiệp. Tư tưởng cục bộ, cơ hội, đề
cao lợi ích nhóm, ngắn hạn đã dẫn đến níu kéo cơ chế bao cấp, bảo hộ, tạo ra sự
không bình đẳng, công bằng, thiếu minh bạch trong điều hành, quản lý đất nước nói
chung, nền kinh tế nói riêng. Đây chính là rào cản, lực cản lớn đối với hội nhập và
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Thứ ba, nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế chưa thật đầy đủ và vẫn có sự gò
bó “về tư duy, quan điểm”. Đổi mới tư duy vẫn chưa mang tính hệ thống, còn mang
tính chắp vá. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, doanh nghiệp và người dân thể
hiện sự “do dự”, “chậm trễ” trong đổi mới, hội nhập và do đó đã gây cản trở đối với sự
62
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập của đất nước, địa phương. Gắn liền với tình
trạng này hoặc là việc quá đề cao yếu tố bên trong, coi nhẹ yếu tố bên ngoài, hoặc là
việc quá đề cao yếu tố bên ngoài, coi nhẹ yếu tố bên trong. Cả hai trường hợp này đều
làm giảm khả năng tận dụng cơ hội, gia tăng thách thức và do đó tạo ra sự phát triển
thiếu bền vững và nguy cơ đưa đất nước khó thoát ra khỏi bẫy thu nhập trung bình.
Thứ tư, bất cập trong tư duy, nhận thức về nâng cao năng lực cạnh tranh của
quốc gia, doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam. Năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế quyết định hiệu quả của tiến trình hội nhập. Trong hơn 30 năm đổi mới, mặc
dù đã có nhiều tiến bộ, thành công nhưng so với các nước trong khu vực và thế giới,
nhìn chung năng lực cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp của Việt Nam còn thấp
và chậm được cải thiện. Hai nhóm yếu tố quan trọng nhất quyết định cạnh tranh
quốc tế là năng lực thể chế và năng lực công nghệ chậm được cải thiện. Điều này đã
thể hiện một thực tế là cải cách thể chế mặc dù vài năm gần đây đã được chú trọng,
nhưng vẫn còn nhiều bất cập như: nạn tham nhũng đang gây nhức nhối, bức xúc
trong xã hội; sự gây phiền hà của các cơ quan hành chính Nhà nước cùng với thực
thi pháp luật không triệt để, chưa tạo môi trường thuận lợi để phát triển các ý tưởng
sáng tạo công nghệ và thu hút công nghệ hiện đại. Sự yếu kém của năng lực cạnh
tranh quốc gia thể hiện cụ thể ở một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tăng trưởng GDP
khá cao so với nhiều nước, nhưng chất lượng tăng trưởng không bền vững và không
hiệu quả. Hiện tại, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hóa nhìn
chung còn yếu, thậm chí có một số doanh nghiệp và hàng hóa cạnh tranh rất yếu.
Nguyên nhân của tình trạng này thì nhiều nhưng nguyên nhân chủ yếu là do một
mặt, đa số các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ, ít vốn, trình độ cộng nghệ
thấp, trong khi đó phần lớn các doanh nghiệp chưa thật quan tâm, chủ động, tích
cực trong hội nhập, do đó không tích cực cải cách, đổi mới, không mở rộng liên kết,
hợp tác trong sản xuất, kinh doanh, chưa thực sự coi trọng nâng cao năng lực cạnh
tranh để đứng vững và phát triển trên thương trường so với đối thủ, để hướng tới
phát triển bền vững, thích nghi tốt với điều kiện quốc tế luôn thay đổi; mặt khác, cơ
chế, chính sách đối với các loại hình doanh nghiệp mặc dù đã có nhiều đổi mới,
nhưng cả về nội dung chính sách và thực thi chính sách trên thực tế vẫn chưa thực
sự bình đẳng, minh bạch, gần đây vẫn có xu hướng quay trở lại áp dụng cơ chế cũ
(cơ chế xin – cho), hiện tượng “ưu ái”, “nâng đỡ” vẫn dành cho các DNNN (đặc
biệt là các tập đoàn kinh tế), khó khăn vẫn dồn vào các doanh nghiệp tư nhân. Thêm
vào đó, năng lực cạnh tranh quốc gia luôn luôn bị giảm thứ bậc do yếu kém và
chậm cải thiện đối với một số tiêu chí, trong số đó có chỉ tiêu về thể chế, thủ tục
hành chính, uy tín của giới lãnh đạo, về hiệu quả quản trị hành chính công. Thực tế
này đang làm giảm lòng tin của các doanh nghiệp, người dân vào các chính sách mà
63
Nhà nước ban hành, vào năng lực thực thi chính sách của các cơ quan công quyền
và do đó đã gây khó khăn, cản trở cho việc huy động nguồn lực và phát huy các lợi
thế so sánh và cạnh tranh của quốc gia và do đó khó có thể đảm bảo sự phát triển
hài hòa, bền vững trên địa bàn quốc gia, vùng lãnh thổ và mỗi địa phương.
Thứ năm, tư duy về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế cũng đang là trở ngại không nhỏ đối với sự phát triển.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn đang tiếp tục chuyển sang nền kinh tế thị trường và
hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Điều đó đòi hỏi sự can thiệp,
quản lý của Nhà nước phải tiếp đổi mới mạnh mẽ để thực sự là Nhà nước kiến tạo
và minh bạch, phải tuân thủ các nguyên tắc của thị trường và các cam kết kinh tế
quốc tế đã ký. Nhưng trên thực tế, cả về thể chế và hành động vẫn còn mang nặng
dấu ấn của cơ chế cũ, chưa thực sự tôn trọng nguyên tắc tự do cạnh tranh, quyền tự
do kinh doanh của doanh nghiệp và người dân trong nền kinh tế thị trường. Nhà
nước chưa thực sự là Nhà nước pháp quyền. Không ít cơ chế chính sách chậm thay
đổi hoặc thay đổi thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán, thậm chí còn tồn tại tư tưởng
không muốn thay đổi, vì ảnh hưởng đến lợi ích cục bộ - lợi ích nhóm. Rốt cuộc là
trên thực tế, hệ thống luật pháp, chính sách vẫn thiếu, chưa đồng bộ, chưa minh
bạch. Nhiều luật pháp, chính sách đã có hiệu lực, nhưng thiếu các văn bản hướng
dẫn hoặc các văn bản thiếu nhất quán, không kịp thời, gây khó khăn cho việc thực
thi và tốn kém chi phí không chính thức cho doanh nghiệp và người dân. Thêm vào
đó, sự can thiệp, quản lý nhiều khi chỉ mang tính tình thế, không bài bản, sự thiếu
phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan, ban ngành, nhiều khi thiên về nhóm lợi ích,
thậm chí bị nhóm lợi ích chi phối, xem nhẹ lợi ích của cộng đồng. Công tác chỉ đạo
còn mang tính chung chung, thiếu cụ thể. Tình trạng trên nóng, dưới lạnh, cấp trên
thì quyết liệt hành động, nhưng cấp dưới- cấp thực thi vẫn đủng đỉnh, thờ ơ.
Nguyên nhân chủ yếu của các bất cập trên một phần do nhận thức vận dụng các
học thuyết kinh tế, các kinh nghiệm thành công của các quốc gia trên thế giới chưa
thực sự mang tính khách quan, khoa học, còn có biểu hiện áp đặt chủ quan không tuân
thủ các quy luật, nguyên tắc của kinh tế thị trường và hội nhập. Việc đánh giá những
kết quả, những việc đã làm được vẫn thiên về bệnh thành tích. Trên thực tế, mình chỉ
so với mình, ít khi so sánh với nước khác để thấy mình đang đứng ở đâu, mặc dù thực
sự có thành tích, nhưng vẫn thụt lùi so với nhiều quốc gia khác, đặc biệt là phải thừa
nhận nhiều chính sách của ta còn bấp bênh, hay thay đổi, khó dự đoán.
Tư duy nhận thức về vấn đề độc lập tự chủ chưa đầy đủ và toàn diện, giải
quyết không tốt mối quan hệ giữa hội nhập và độc lập tự chủ, trong đó có độc lập tự
chủ về kinh tế.
64
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như do công tác tuyên truyền,
phổ biến các thông tin về đàm phán hội nhập và nâng cao năng lực, kỹ năng về hội
nhập, v,.v.chưa hiệu quả. Chúng ta chưa thật tích cực “cải cách chính mình” về
mọi mặt, trong đó có thể chế kinh tế thị trường cho tương thích với thông lệ và cam
kết quốc tế và chậm triển khai chiến lược bài bản, tổng thể về hội nhập kinh tế quốc
tế với mục tiêu và lộ trình thích ứng với từng địa phương, đơn vị và cho từng giai
đoạn, trước mắt là đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược này phải gắn
kết với yêu cầu phát triển bền vững và phòng ngừa, ứng phó tốt với biến đổi khí
hậu. Mặt khác, đội ngũ nguồn nhân lực về hoạch định và thực thi chính sách hội
nhập quốc tế ở nước ta vẫn đang thiếu những người “có tầm”, “có tâm”, lắng nghe
nghiêm túc và tiếp thu có hiệu quả các ý kiến phản biện khoa học của các chuyên
gia, người dân và doanh nghiệp (Đỗ Đức Bình, 2016).
3. Bối cảnh mới của quốc tế, khu vực và trong nƣớc ảnh hƣởng đến sự
phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam. (Lƣơng Xuân
Quỳ, 2015).
3.1 Bối cảnh mới của quốc tế, khu vực
3.1.1 Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển nhanh như vũ
b o đang và s tác động đến tất cả các quốc gia,trong đó có Việt Nam
Chính sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trước đây và
nay là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư( cách mạng 4.0) được dựa trên nền
tảng internet và công nghệ số đã và đang tác động mạnh và tạo ra sức ép đối với
từng quốc gia trong quá trình phát triển. Thực tế đã minh chứng rằng quốc gia nào
chủ động, tích cực tận dụng tốt mặt tích cực của các cuộc cách mạng này, thì quốc
gia đó sẽ có sự thay đổi đột biến, đáng kinh ngạc về tốc độ tăng trưởng, phát triển
kinh tế; Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tối ưu và hiệu quả hơn. Điều này
đặt ra vấn đề nếu quốc gia nào không thay đổi tư duy, mở rộng hợp tác quốc tế,
không có những giải pháp hữu hiệu để nắm bắt và tận dụng tốt các thành tựu của
cuộc cách mạng này nhằm đưa đất nước bứt lên, thì rất khó khăn trong phát triển và
khó vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Trái lại, quốc gia nào có tư duy mới, đột phá
sớm và đúng đối với nền kinh tế tri thức, quốc gia đó càng ít phải trả giá trong quá
trình phát triển.
3.1.2 Những vấn đề mang tính toàn cầu, đặc biệt là biến đổi khí hậu.
Hội nhập kinh tế quốc tế tức là chấp nhận cuộc chơi trong sân chơi chung của khu
vực và toàn cầu (tức là phải tuân thủ luật chơi chung, kiểu chơi, chủ thể tham gia cuộc
chơi,). Hội nhập, vừa tạo ra cơ hội, vừa đặt mỗi quốc gia trước những thách thức
65
không nhỏ. Điều đó đang vừa tạo điều kiện cho mỗi quốc gia giải quyết những vấn đề
toàn cầu đang đối mặt gây không ít khó khăn, đồng thời cũng đòi hỏi từng quốc gia
phải có nghĩa vụ, trách nhiệm và nhiệm vụ tham gia cùng các nước khác trong khu vực
và quốc tế để giải quyết các vấn đề toàn cầu, cũng như ở mỗi quốc gia đang nổi lên.
Chính sự biến đổi khí hậu toàn cầu và khủng bố ở mỗi quốc gia nói riêng trong
những năm gần đây đã gây bất ổn và tổn thất quá lớn đối với mỗi quốc gia. Ví dụ
như thảm hoạ kép ở Nhật Bản năm 2010; mưa thiện thạch ở LB Nga; khí bụi ở
thành phố Thượng Hải, Bắc Kinh Trung Quốc; lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn ở một
số tỉnh, thành của Việt nam; nắng nóng ở Hoa kỳ và một số nước châu Âu ; các
cuộc khủng bố ở Pháp, Đức v.vĐiều này đang buộc các quốc gia phải có tư duy
mới trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu, phảimở rộng hợp tác với nhau trong
cuộc chơi về hội nhập để cùng chung sức phòng ngừa, giảm thiểu và giải quyết các
vấn đề toàn cầu, trong đó có vấn đề khủng bố và biến đổi khí hậu gây ra.
3.1.3 Sự phát triển kinh tế, chính trị của một số nước
Sự trỗi dậy nổi bật của Trung Quốc” trong mấy thập kỷ vừa qua; Sự xoay
trục chiến lược “hướng Đông” của các nước lớn, trong đó có Mỹ hướng vào châu
Á; Vai trò của Liên Bang Nga đối với Việt Nam ngày càng tăng;Vai trò của Nhật
Bản và quan hệ hợp tác toàn diện giữa các nước ASEAN ngày càng phát triển, và
hiện nay cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra hết sức căng thẳng
chưa có dấu hiệu kết thúc;
Chính sự phát triển và điều chỉnh chiến lược phát triển về kinh tế, chính trị của
một số nước, nhóm nước trong khu vực và thế giới buộc một số nước lớn đang có
nhiều động thái mới trong hợp tác và phát triển. Trong số các nước lớn trên thế giới,
Mỹ, EU, Nga và Trung Quốc – là những cường quốc lớn đang có nhiều điều chỉnh
chiến lược và các hoạt động để mở rộng hợp tác và tăng cường liên kết, cũng như
phát huy ảnh hưởng của mình đối với nền kinh tế thế giới và khu vực, trong đó có
khu vực Đông Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Điều này có tác động không
nhỏ đối với Việt Nam trong việc xây dựng và điều chỉnh chiến lược phát triển và
hợp tác cho thích ứng với điều kiện, bối cảnh mới.
3.2 Bối cảnh trong nước
3.2.1 Thực tiễn công cuộc đổi mới của Việt nam trong hơn 30 năm đổi mới
Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới của Đại hội VI của Đảng CSVN và các
Đại hội Đảng tiếp theo sau, nền kinh tế Việt nam đã có nhiều thành công, như nhất
quán thực hiện mở rộng hợp tác quốc tế theo phương châm đa dạng hoá và đa
phương hoá các đối tác và các hình thức kinh tế đối ngoại. Theo đó, Việt nam đã
66
mở rộng quan hệ ngoại giao, buôn bán, đầu tư,. Với hầu hết các quốc gia, vùng,
lãnh thổ trên thế giới; Thể chế kinh tế thị trường đang hình thành và từng bước dần
hoàn thiện; Kết cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội từng bước được cải thiện; Đời
sống của dân cư ngày càng được nâng cao ; Đặc biệt là Việt nam đã sớm cán
đích so với mục tiêu đặt ra để được xếp vào tốp nhóm nước có mức thu nhập trung
bình thấp (1000-3000USD/người). Các thành tích này thể hiện sự cố gắng của Việt
Nam năm sau cải thiện hơn năm trước. Tuy nhiên, nếu so sánh với một số nước
trong khu vực, thì có nhiều vấn đề đặt ra phải suy nghĩ và phải có những thay đổi
mạnh mẽ. Ví dụ, chỉ xét thu nhập quốc dân trên đầu người thì năm 2014 ta đạt gần
2.000 USD/người và phấn đấu năm 2015 đạt 2.200 USD/người. Trong khi đó, năm
2012, Thái Lan gần 5.000USD/người, Malaysia gần 10.000USD/người. Theo chiến
lược phát triển đến năm 2020, Việt nam sẽ đạt mức 3.500USD/người, tức không
bằng mức của Thái Lan năm 2012. Điều này phản ánh rằng sự phát triển kinh tế xã
hội của Việt nam vẫn rất chậm, còn nhiều lực cản phải tháo dỡ.
Thêm vào đó, trong một số năm gần đây, lòng tin của người dân đối với một
số nhà lãnh đạo, công chức trong bộ máy Nhà nước bị suy giảm mạnh so với những
năm đầu của đổi mới. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có tư duy mới, thực hiện
quyết liệt cải cách để tạo đà mới cho phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ khi đó, lòng tin
của dân đối với giới lãnh đạo mới trở lại và có xu hướng tăng lên – Đây là một
trong những yếu tố quyết định thành công của mọi chủ trương quyết sách.
3.2.2 Tiến trình, lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam (t năm 2015
và các năm tiếp theo)
- 31/12/2015, Việt nam chính thức tham gia vào cộng đồng ASEAN, trong đó
có cộng đồng kinh tế ASEAN. Đồng thời, bắt đầu từ 1/1/2015, Việt nam hoàn toàn
mở cửa thị trường bán lẻ theo cam kết WTO.
- Với quyết tâm của 11 nước thành viên, Việt Nam đã ký Hiệp định đối tác
toàn diện và tiến bộ xuyên thái bình dương và vào đầu năm 2019, Hiệp định
này sẽ có hiệu lực và thực thi. Theo đó, một loạt các Hiệp định về xuất xứ hàng
hoá, mua sắm Chính phủ, lao động và công đoàn, sẽ tác động không nhỏ đến
Việt nam. Điều này buộc Việt nam phải có tư duy mới về lãnh đạo, điều
hành, nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, khác. Với triển vọng hợp
tác và cơ hội thuận lợi do CPTPP mang lại, hiện tại Thái Lan, Hàn Quốc và
Vương Quốc Anh đã có lời đề nghị với Thủ tướng Nhật muốn xin gia nhập.
- Năm 2018,Việt nam sẽ phải thực hiện nền kinh tế thị trường đầy đủ (không
phải là phi thị trường như hiện nay để giảm thiểu thua thiệt trong cuộc chơi khi phải
đối mặt với các vụ kiện thương mại.
67
- Việt nam tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH để sớm trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
- Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- Hàn Quốc có hiệu lực từ ngày
20/12/2015. Theo dự báo, FTA Việt Nam – EU sẽ sớm có hiệu lực.
Tất cả các định hướng hoạt động này đang tiếp tục tác động đến Việt nam và
nếu Việt Nam không thay đổi tư duy, không tích cực cải cách mạnh mẽ, hiệu quả
hơn thì khó, thậm chí không tận dụng tốt các cơ hội do hội nhập mang lại và do đó
sẽ bị thua thiệt lớn trong các cuộc chơi khu vực và toàn cầu và như vậy sẽ không chỉ
mất cơ hội, mà thách thức đối mặt ngày càng lớn hơn.
4. Một số giải pháp đột phá về tƣ duy để phát triển kinh tế-xã hội của Việt
Nam đến năm 2030
Đón đầu những bối cảnh, điều kiện mới để thúc đẩy hội nhập có hiệu quả, góp
phần đảm bảo sự phát triển bền vững ở nước ta từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn
đến năm 2030, theo chúng tôi cần thực hiện tốt một số giải pháp đột phá gắn với tư
duy mới như sau:
4.1 Tiếp tục đổi mới về tư duy nhận thức và quan điểm về hội nhập kinh tế
quốc tế
Để phát triển kinh tế-xã hội một cách bền vững và hiệu quả, bên cạnh việc
mở rộng hợp tác, tiếp thu và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nước ngoài, cần
có cơ chế, chính sách động viên, thu hút và khuyến khích tốt các nguồn lực trong
nước cho sự phát triển, cho khởi nghiệp và đổi mới, sáng tạo. Muốn thu hút và sử
dụng tốt nguồn lực của nước ngoài, để nguồn lực nước ngoài kết hợp với nguồn lực
trong nước, cùng với nguồn lực trong nước và trở thành một bộ phận không thể
thiếu, thậm chí có vai trò ngày càng tăng trong giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội
của đất nước, trong các chính sách kinh tế, không nên tách bạch rạch ròi nguồn lực
trong và ngoài nước, không nên quá nhấn mạnh yếu tố bên trong, xem nhẹ yếu tố
bên ngoài, hoặc phải có chính sách riêng không thích ứng với xu thế của thời
đại;Tất cả những tư duy, nhận thức như vậy đều đã và đang tạo ra rào cản lớn đối
với sự hợp tác và phát triển, cần sớm được dỡ bỏ. Bên cạnh tích cực hội nhập với
bên ngoài, phải tích cực hội nhập bên trong- tức là cải cách chính mình theo luật
pháp, thông lệ quốc tế và các cam kết đã ký. Hội nhập từ dưới lên, từ bên trong ra
bên ngoài và thực sự coi trọng hiệu quả của hội nhập và phát triển.
68
4.2 Phải thực sự coi trọng và làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các
kiến thức và nâng cao kỹ năng về hội nhập kinh tế quốc tế gắn với yêu cầu phát
triển bền vững, phát triển xanh
Điều có ý nghĩa quyết định là phải làm cho mọi cấp, mọi ngành, mọi người
dân phải thấu hiểu rằng hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của toàn dân
tộc. Vì vậy, việc phổ biến các kiến thức này phải được tiến hành đối với cả cấp lãnh
đạo, quản lý và những người tham gia trực tiếp vào quá trình này như các nhà hoạch
định chính sách, các nhà quản lý doanh nghiệp và người dân, phải làm cho mọi
người hiểu rõ hội nhập có nhiều cơ hội hơn thách thức, và trên thực tế chưa có quốc
gia nào hội nhập là chết, là đổ vỡ. Tuy nhiên, cũng đừng quá lạc quan với cơ hội mà
phải tận dụng tốt cơ hội, tìm cách tạo ra cơ hội để phát triển kinh tế, xã hội,
nhưng cũng đừng quá lo sợ trước thách thức, tiêu cực mà phải có những ứng xử tốt,
phải tăng cường liên kết hợp tác, tuân thủ các quy định và thực hiện đúng các cam
kết để vượt qua. Bên cạnh việc phổ biến các kiến thức hội nhập, cần chú trọng hơn
đến việc nâng cao năng lực, kỹ năng hội nhập cho các cán bộ làm chính sách, cán
bộ quản lý kinh doanh,.... Chỉ có như vậy, Việt nam mới tận dụng tốt cơ hội, vượt
qua thách thức do tiếp tục mở cửa, mở rộng hợp tác đưa lại nhằm góp phần phát
triển nền kinh tế theo định hướng thị trường một cách hiệu quả và bền vững.
4.3 Tiếp tục đổi mới “có bước đột phá mới” trong tư duy nhận thức và hành
động về hội nhập KTQT với vấn đề độc lập tự chủ nhằm tạo đà, động lực mới
cho phát triển( Đỗ Đức Bình, 2016)
Đổi mới tư duy về phát triển trong điều kiện mới, về hội nhập KTQT vừa là
động lực, vừa trở thành phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước. Hội nhập không phải là mục tiêu, mà là một trong những phương tiện, cách
thức để phát triển nhanh hơn, tốt hơn. Hội nhập là để phát triển và phát triển là để
hội nhập tốt hơn, hiệu quả hơn. Hội nhập không chỉ tạo điều kiện cho quốc gia phát
triển, mà còn tạo điều kiện cho quốc gia có điều kiện, có tư cách pháp nhân tham
gia vào cùng xây dựng luật chơi, kiểu chơi, cuộc chơi, sân chơi,.... chung. Đồng
thời, cũng tạo điều kiện cho các quốc gia liên kết với nhau để cùng đấu tranh, đàm
phán với các quốc gia khác vì lợi ích chung và bình đẳng. Trong điều kiện toàn cầu
hoá và hội nhập KTQT, cần nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa yếu tố bên
trong và yếu tố bên ngoài. Kể cả trong tư duy, nhận thức và chính sách, không nên
nhấn mạnh yếu tố này, xem nhẹ yếu tố kia. Tuỳ thời điểm và điều kiện cụ thể, yếu tố
này nổi trội, ưu thế hơn yếu tố kia. Trong đó, yếu tố bên ngoài “ngoại lực” là một bộ
phận hữu cơ hợp thành nguồn lực của quốc gia trong quá trình phát triển. Nói một
cách khác, không nên tách biệt nội lực và ngoại lực, mà phải kết hợp chúng thành
69
một sức mạnh tổng thể và sử dụng có hiệu quả chúng để phát triển kinh tế, xã hội,
của đất nước. Nếu quan niệm phải tách biệt, thì việc tách bạch chúng sẽ dẫn đến
quan niệm kế tiếp về hội nhập chỉ là tranh thủ cơ hội, chớp lấy thời cơ, chứ chưa
phải là chủ động để vừa tranh thủ, vừa tạo ra cơ hội để phát triển bền vững, cũng
như phát triển kinh tế xanh.
Về vấn đề độc lập tự chủ, thực tế thế giới đã chỉ ra rằng những nước có nền
kinh tế mở cửa, hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới, không chỉ thực
hiện tự do hoá thương mại, đầu tư và nhiều lĩnh vực khác mà còn hội nhập ở những
mức độ cao như thị trường chung, cộng đồng kinh tế, liên minh kinh tế, nhưng lợi
ích kinh tế, lợi ích quốc gia của họ không bị vi phạm, nền kinh tế của họ vẫn đảm
bảo độc lập tự chủ vững chắc. Chính phủ các nước này vẫn theo đuổi chính sách
kinh tế do mình lựa chọn, phúc lợi của nhân dân vẫn được nâng cao.
Mặc dù toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đụng chạm đến vấn đề độc lập tự
chủ của mỗi quốc gia, nhưng độc lập tự chủ về kinh tế trong giai đoạn hoà bình phát
triển kinh tế, phải có những tư duy mới, nhận thức mới. Đó là thực hiện đa dạng
hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, trên nguyên tắc hợp tác bình đẳng cùng có
lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, Xét cho cùng, độc lập tự chủ
kinh tế trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách phát triển kinh tế, là
quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc về vấn đề này, là bảo vệ được lợi ích kinh tế
của quốc gia, của doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập,
lợi ích của mỗi quốc gia đều có quan hệ gắn bó với lợi ích chung của cộng đồng,
cũng như của các đối tác hợp tác. Vì vậy, việc giữ gìn, bảo vệ lợi ích của mình mà
không gây ảnh hưởng, xâm phạm đến lợi ích của đối tác hoặc các thành viên khác.
Cũng như vậy, đường lối, chính sách độc lập tự chủ không được phép vi phạm
những nguyên tắc, quy chế chung đã thoả thuận, đã cam kết.
Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh hội nhập phải là nền kinh tế có
nội lực mạnh, có tăng trưởng và phát triển bền vững, hiệu quả; Là nền kinh tế không
bị lệ thuộc vào một nước hoặc số ít nước hay tổ chức quốc tế nào về đường lối,
chính sách phát triển; Là nền kinh tế có khả năng đứng vững khi gặp những biến
động bất thường của thế giới và khu vực. Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền tảng vật
chất quan trọng để đảm bảo độc lập tự chủ về chính trị. Không có độc lập tự chủ về
chính trị nếu như có sự lệ thuộc về kinh tế.
Như vậy, đường lối độc lập tự chủ về kinh tế phải thể hiện ở kết quả cuối
cùng là làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, là xây dựng một nền kinh tế
tiên tiến, hiện đại, có cơ cấu kinh tế tối ưu, đảm bảo phát triển bền vững, hiệu quả,
70
là nâng cao thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống cho người dân
(Nguyễn Văn Nam, 2006).
Để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập ngày càng sâu rộng và hiệu
quả hơn với nền kinh tế các quốc gia trong khu vực và thế giới, đòi hỏi phải phối
hợp tốt và hài hoà giữa hội nhập và phát triển, giữa độc lập tự chủ và phát triển kinh
tế thị trường. Chính KTTT phát triển cao mới đẻ ra xã hội mới và xã hội mới có
điều kiện phát triển tốt hơn. Hội nhập là để phát triển và phát triển để hội nhập tốt
hơn, hiệu quả hơn. Độc lập tự chủ cũng để phát triển, càng phát triển càng có điều
kiện nâng cao vị thế độc lập tự chủ.
4.4 Xúc tiến triển khai chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế
Xây dựng quy hoạch tổng thể trên cơ sở chiến lược phát triển tổng thể của
đất nước và chính sách phát triển ngành, vùng và lĩnh vực một cách khoa học nhằm
phát huy có hiệu quả nguồn nội lực, kết hợp với ngoại lực; sớm tạo ra những “đầu
tàu” về công nghệ và tốc độ phát triển và lan toả tốt về công nghệ nhằm nâng cao
mạnh mẽ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam trên
thương trường; sớm tạo dựng được các ngành vừa tạo ra giá trị gia tăng cao, vừa tạo
ra những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ thay thế nhập khẩu và hướng đến thị trường
xuất khẩu và có sức cạnh tranh mạnh. Điều có ý nghĩa quyết định đến tính hiệu quả
của đầu tư là cần phải có quy định rõ ràng, chi tiết về công nghệ sử dụng trên cơ sở
đánh giá toàn diện những tác động về môi trường, kinh tế và xã hội; cần xây dựng
các căn cứ pháp lý thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ; đưa ra các biện pháp
khuyến khích cụ thể cho các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ vào Việt
Nam. Chỉ khuyến khích đối với các công nghệ tiên tiến, hiện đại ít tiêu tốn năng
lượng, nguyên liệu, ít phế thải, “công nghệ xanh”; hạn chế tiến tới sớm và triệt để
loại bỏ công nghệ lạc hậu, bậc trung gây ô nhiễm môi trường;
Xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao cho lập, xây dựng và đánh giá các
dự án đầu tư, cũng như hoạt động trong khu vực FDI. Đây là điều kiện tiên quyết để
Việt Nam có thể tiếp thu được công nghệ tiên tiến, hiện đại, trình độ quản lý của
các TNC thuộc top 500 TNC mẹ trên thế giới. Đi đôi với việc bồi dưỡng, đào tạo để
có đội ngũ nguồn nhân lực có tính chuyên biệt, là những chuyên gia, những “nhân
tài”, cần phải có cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ tương xứng với
trình độ năng lực, hiệu quả công việc đã thực thi. Phải có những điều kiện đảm bảo
này thì mới có thể thực thi tốt các mục tiêu đề ra;
Điều chỉnh và quy định chi tiết, cụ thể những lĩnh vực khuyến khích thu hút
FDI và các ưu đãi đầu tư. Theo đó cần thực hiện chính sách ưu đãi đặc biệt dành
cho các đối tác đầu tư chiến lược (các TNC của các quốc gia có trình độ phát
71
triển cao-top 500 TNC mẹ để có công nghệ nguồn) với sự cam kết thực sự của
Nhà nước. Không ưu đãi đối vơi tất cả các nhà đầu tư mà phải tập trung nhiều
hơn vào những đối tác có công nghệ hiện đại, có trình độ quản lý tiên tiến. Đón
bắt tốt các cơ hội do các Hiệp định mà Việt nam tham gia và có hiệu lực để thu
hút đầu tư và công nghệ từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển, nhằm hướng
vào thực hiện mục tiêu, Việt nam sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, không tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực và thế giới.
Đổi mới, sáng tạo, nâng cao chất lượng quản trị Nhà nước và quản trị doanh
nghiệp, đẩy mạnh xây dựng các chương trình xúc tiến đầu tư có hiệu quả và có tầm
nhìn tổng thể và dài hạn. Đi đôi với việc phân cấp đầu tư, cần phải nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước, Trung
ương. Thực hiện mạnh mẽ việc “thổi còi” đối với các dự án thu hút FDI (nói riêng)
không tuân thủ quy hoạch và chiến lược tổng thể về thu hút FDI đã đề ra.
Bên cạnh tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài một cách hiệu
quả, cần chú trọng tăng trưởng dựa vào tiêu dùng trong nước, ưu tiên tập trung đầu
tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến, chế tạo thông qua
thu hút sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách tối ưu, hiệu quả, đề cao chất
lượng, hiệu quả tăng trưởng.
4.5 Nâng cao hiệu lực, hiệu quả và năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát của
Nhà nước trong nền KTTT và hội nhập KTQT của Việt Nam
Thực tế trong những năm qua đã chỉ ra rằng năng lực quản lý của Nhà nước
nhìn chung còn yếu, nhiều chính sách còn bấp bênh. Sự phối kết hợp giữa các cơ
quan chức năng trong quản lý điều hành đất nước, điều hành nền kinh tế còn thiếu
nhịp nhàng, gây nhiều bất cập.
Vì vậy, trong bối cảnh mới của hội nhập càng đòi hỏi Việt Nam phải sớm xây
dựng cho được một Nhà nước thực sự là Nhà nước Pháp quyền. Tức là, Nhà nước
thực hiện việc quản lý, điều hành đất nước và nền kinh tế thị trường chủ yếu bằng
luật pháp và các chính sách vĩ mô. Sự can thiệp của Nhà nước phải tuân thủ các
nguyên tắc thị trường. Chính phủ phải thực sự là Chính phủ “kiến tạo”, “ phục vụ”
đất nước và người dân. Mọi sự kiểm tra, giám sát không gây ảnh hưởng, cản trở,
ách tắc và sách nhiễu đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp sớm thoát khỏi tình trạng
khó khăn như hiện nay, sớm tiến tới phát triển ổn định và bền vững trong môi
trường quốc tế có nhiều biến động khó dự đoán. Muốn thực hiện các điều nêu trên,
việc cải cách tổ chức bộ máy Nhà Nước, nhân lực trong bộ máy, cơ chế hoạt động
và thủ tục hành chính và cơ chế kiểm tra, giám sát có vai trò quyết định.
72
Việc cải cách, đổi mới và hoàn thiện bộ máy quản lý của Nhà nước phải được
hiểu là quá trình đổi mới để cải cách chính bản thân Nhà nước nhằm hướng tới mục
tiêu tối thượng là củng cố, nâng cao và phát triển năng lực của Nhà nước. Theo
chúng tôi, năng lực của bộ máy quản lý Nhà nước chính là năng lực thể chế, năng
lực hành chính của nó. Năng lực này được xác định như là khả năng thực hiện, theo
dõi, kiểm tra, giám sát và thúc đẩy các hoạt động chung của tập thể và cá nhân một
cách hiệu quả. Còn hiệu quả được hiểu là kết quả sử dụng và phát huy các năng lực
đó để đáp ứng nhu cầu kinh tế, xã hội về những hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước có
thể cung cấp với chất lượng tốt và chi phí thấp nhất theo các mục tiêu và định
hướng phát triển kinh tế, xã hội đã được vạch ra. Với yêu cầu đó, Nhà nước ta phải
tiến tới gồm những người có “cái đầu”, có tầm, có tâm, có tính quyết đoán và dám
chịu trách nhiệm, luôn sẵn sàng lắng nghe, tiếp thu có chọn lọc các ý kiến của các
tham vấn, chuyên gia phản biện khoa học của các doanh nghiệp và người dân để từ
đó đưa ra các quyết định khách quan, đúng và trúng về chính sách và quản lý. Bên
cạnh đó, cần có cơ chế thuận lợi cho việc kiểm soát, giám sát từ hai phía (cơ quan
quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, các tổ chức và người dân và ngược lại).
Đây là thể chế, cơ chế hết sức quan trọng để thực hiện tốt phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, sớm đảm bảo có được một Nhà nước mạnh, trong
sạch, tránh những hành động độc đoán chuyên quyền, lạm dụng để tham nhũng, gây
sách nhiễu và tạo ra hàng loạt tiêu cực khác. Tiếp đến, để có Nhà nước mạnh, cần
thực hiện tốt hơn công việc bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh lãnh đạo mà còn phải
có cơ chế tuyển chọn công khai thông qua thi tuyển các chức vụ lãnh đạo, kể cả các
nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước nhằm tạo ra đội ngũ lãnh đạo thực sự có tầm, có
tâm đưa đất nước bứt phá tiến lên ngang tầm với nhiều quốc gia trong khu vực và
thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Nam (2006), Phát triển KTTT ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
KTQT, NXB Chính trị quốc gia.
2. Đỗ Đức Bình (2011), Hội nhập KTQT với phát triển bền vững ở Việt Nam giai
đoạn 2011-2020, tạp chí kinh tế và phát triển số tháng 11.
3. Lương Xuân Quỳ (2015), Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam
trong bối cảnh mới. NXB CTQG –sự thật.
4. Đỗ Đức Bình (2016), Quan điểm và giải pháp đột phả về hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam trong bối cảnh mới, tạp chí kinh tế và phát triển số tháng 10.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_giai_phap_dot_pha_ve_doi_moi_tu_duy_de_phat_trien_kin.pdf