Thứ năm, gắn kết giữa đào tạo với thị
trường lao động và sự tham gia của doanh
nghiệp. Xây dựng các mối quan hệ chặt
chẽ giữa giáo dục và đào tạo với TTLĐ cả
ở cấp độ vĩ mô và cấp cơ sở để đảm bảo
cho các hoạt động của hệ thống giáo dục,
đào tạo hướng vào việc đáp ứng phát triển
KT-XH của từng địa phương, từng ngành;
đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và giải
quyết việc làm cho người học.
Thứ sáu, đẩy mạnh hợp tác quốc tế
về giáo dục, đào tạo. Tăng cường hợp tác
quốc tế về GDNN giữa các nước trong
khu vực ASEAN và thế giới. Tích cực vận
động, thu hút nguồn viện trợ phát triển
chính thức ODA cho phát triển
GDNN. Hợp tác với các nước ASEAN để
tiến tới công nhận kỹ năng nghề giữa các
nước, hướng tới Cộng đồng ASEAN vào
năm 2015. Tích cực tham gia vào các hoạt
động của khu vực và thế giới như tham gia
Hội thi tay nghề ASEAN, Hội thi tay nghề
thế giới
Thứ bảy, cải thiện và tăng cường
thông tin về chất lượng nguồn nhân lực
theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm cho
mọi người thấy được tầm quan trọng của
vấn đề phát triển nguồn nhân lực nói
chung và trong giai đoạn hội nhập AEC
nói riêng. Đồng thời, có nghiên cứu và
tổng kết thường kỳ về nguồn nhân lực
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 396 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực Việt Nam nhằm đáp ứng tốt hơn với nhu cầu của thị trường lao động khi hội nhập AEC, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
24
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC VIỆT NAM
NHẰM ĐÁP ỨNG TỐT HƠN VỚI NHU CẦU CỦA THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
KHI HỘI NHẬP AEC
Ths. Lê Thu Huyền, Ths. Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Tóm tắt: Việt Nam đang trong giai đoạn gấp rút chuẩn bị cho hội nhập cộng đồng kinh
tế ASEAN sẽ chính thức được thành lập vào cuối năm 2015. Bên cạnh việc chuẩn bị và hoàn
thiện các thể chế, chính sách, các điều kiện gia nhập AEC, Việt Nam cũng cần phải chuẩn
bị một nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng với nhu cầu của thị trường khi hội nhập AEC.
Bài viết phân tích thực trạng chất lượng nhân lực Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nâng
cao chất lượng nhân lực Việt Nam nhằm đáp ứng tốt hơn với nhu cầu của thị trường lao động
ASEAN.
Từ khóa: hội nhập AEC, chất lượng nguồn nhân lực, thị trường lao động AEC
Abstract: Viet Nam has been urgently preparing for official establishment of ASEAN
Economic Community (AEC) at the end of 2015. Along with preparation and
accomplishment of mechanism, policies and AEC entry requirements Viet Nam also needs
to prepare high-quality human resources in order to meet the need of market in the era of
AEC integration. The article analyzes the status of Vietnamese human resources and
proposes some solutions for improving the quality of Vietnamese human resources to better
meet the need of ASEAN labor market.
Key words: AEC integration, quality of human resources, AEC labor market.
1. Giới thiệu
Để tăng cường khả năng chống chọi
trước biến động kinh tế toàn cầu, duy trì
khả năng cạnh tranh trước sự trỗi dậy của
Trung Quốc và Ấn Độ, thúc đẩy việc làm
đầy đủ và năng suất, và giảm thiểu bất
bình đẳng quá mức, một cộng đồng Kinh
tế ASEAN (AEC) sẽ được thành lập vào
cuối năm 2015 nhằm tiếp tục duy trì mục
đích chung là xây dựng một khu vực với
“tăng trưởng kinh tế bền vững” kèm theo
“hòa bình, an ninh và ổn định cũng như sự
thịnh vượng chung và tiến bộ xã hội”.
ASEAN là một khu vực kinh tế năng
động với mười quốc gia thành viên có
tổng diện tích gần 4,5 triệu km2, dân số
trên 600 triệu người, tốc độ tăng trưởng
kinh tế tương đối cao so với các khu vực
khác trên thế giới. Theo Asia Matters for
America (2014), năm 2013 GDP của
ASEAN đã tăng 313 USD và GDP bình
quân đầu người của khối đạt 3.852 USD.
Khi AEC thành lập sẽ thúc đẩy tự do hàng
hóa - dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có
kỹ năng. Điều này hứa hẹn mang đến cho
các quốc gia sự thuận lợi trong phát triển
kinh tế và hội nhập, tăng trưởng kinh tế
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
25
nhanh hơn, tạo ra nhiều việc làm, thu hút
đầu tư nước ngoài mạnh mẽ hơn, phân bổ
nguồn lực tốt hơn, đồng thời năng lực sản
xuất, tính cạnh tranh và sự tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu được tăng cường.
Một trong những nội dung cơ bản
nhất của AEC là tự do hóa di chuyển lao
động có kỹ năng giữa các nước ASEAN.
Đây là vấn đề được các quốc gia thành
viên đặc biệt quan tâm do hầu hết các
nước đang ở thời kỳ dồi dào nhất về lực
lượng lao động. Không chỉ đối mặt với
tình trạng việc làm và năng lực, trình độ,
kỹ năng của người lao động, các quốc gia
sẽ phải xác định thị trường lao động cho
nguồn nhân lực của nước mình ở cả hiện
tại và tương lai.
2. Nhu cầu nhân lực của thị trường
lao động trong bối cảnh hội nhập AEC
Chuyển dịch cơ cấu do việc hình
thành Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ làm
tăng nhu cầu kết hợp các kỹ năng quản lý,
kỹ thuật và các kỹ năng làm việc căn bản.
Một nghiên cứu6 về mức độ nhu cầu trong
tương lai của Campuchia, Indonesia, Lào,
Philipines, Thái Lan và Việt Nam cho thấy
nhu cầu đối với nhân công kỹ thuật bậc
cao tại các nền kinh tế này trong giai đoạn
2010-2025 có thể tăng tới 41%, tương
đương với 14 triệu nhân công. Cầu về lao
động kỹ thuật cao của Indonesia chiếm
gần một nửa con số này. Tuy nhiên, nhu
cầu của Philipines cũng sẽ mở rộng hơn
đáng kể với mức tăng 60% (4.4 triệu).
6 Tác động của hội nhập kinh tế ASEAN đối với viễn
cảnh nghề nghiệp và nhu cầu về kỹ năng, S.El
Achkar Hital, Báo cáo đầu vào cho Cộng đồng
Campuchia và Lào cũng sẽ có mức tăng
so với trước là 45% và 53%, mặc dù mức
tăng tuyệt đối của hai nước này ở quy mô
nhỏ hơn.
Đối với nhu cầu về lao động kỹ thuật
bậc trung, tổng mức tăng trưởng thấp hơn
và nằm ở mức 22%, mặc dù về số tuyệt đối
mức tăng này là 38 triệu việc làm trong giai
đoạn 2010 - 2025. Tác động của Cộng
đồng kinh tế ASEAN đối với lao động có
kỹ thuật bậc trung là lớn nhất, đặc biệt ở
Thái Lan, nơi mà tác động này làm tăng
nhu cầu về lao động bậc trung, ngược với
mức giảm theo kịch bản tham chiếu và ở
Việt Nam, nơi số lượng lao động bậc trung
có thể tăng gấp đôi.
Trong giai đoạn 2010 – 2025, đối với
các công việc chỉ yêu cầu kỹ thuật thấp,
cầu lao động tăng 12,4 triệu, tương đương
với 24%, mà một phần là do sự giảm sút
nhu cầu lao động kỹ thuật thấp ở
Indonesia. Tuy nhiên, lao động kỹ thuật
thấp vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng tại
một số quốc gia. Ở Campuchia, nhu cầu
này sẽ tăng lên 71%, ở Lào là 119% và ở
Philippines là 62%. Điều này cho thấy
tầm quan trọng của việc bảo đảm tiêu
chuẩn chất lượng về giáo dục và đào tạo
cơ bản.
Bên cạnh yêu cầu về chuyên môn kỹ
thuật, một số các yêu cầu khác cũng khá
khắt khe đối với lao động khi tham gia vào
thị trường lao động ASEAN như: lao động
phải có thể lực tốt, tác phong làm việc
ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới thịnh
vượng chung và việc làm tốt hơn, ILO, 2015.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
26
công nghiệp, có trình độ ngoại ngữ, phải
hiểu biết pháp luật lao động và quy định
pháp luật nơi đến làm việc
3. Thực trạng chất lượng nhân lực
Việt Nam và khả năng đáp ứng nhu cầu
của thị trường lao động AEC
- Điểm mạnh/Lợi thế
Trình độ CMKT của LLLĐ tiếp tục
được cải thiện. Giai đoạn 2004-2014,
LLLĐ có CMKT tăng bình quân
10,47%/năm (1,6 triệu người/năm), trong
đó lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng
chỉ tăng 7,07%/năm (458 nghìn
người/năm). Do đó, tỷ lệ lao động có
CMKT trong tổng LLLĐ của Việt Nam đã
tăng khá nhanh từ 22,7% năm 2004 lên
49,14% năm 2014.
Lao động Việt Nam khá trẻ và linh
hoạt, có khả năng hội nhập nhanh chóng
vào thị trường lao động. Khi tham gia
AEC, Việt Nam có những lợi thế nhất
định, nhất là về cơ cấu lao động “trẻ” do
đang ở trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng.
Có thể nói, đây là thời điểm tốt nhất để
nguồn nhân lực Việt Nam tham gia vào thị
trường lao động AEC. Hiện nay, Việt
Nam đang xuất khẩu nhiều lao động sang
các nước ASEAN, đặc biệt sang Malaysia
với hàng ngàn chỉ tiêu mỗi năm với thu
nhập trung bình 150-200USD/tháng với
nhiều loại ngành nghề khác nhau, từ đơn
giản như giúp việc gia đình đến làm nghề
xây dựng. Lực lượng lao động này có thể
cạnh tranh trong chuỗi cung ứng lao động
đòi hỏi kỹ năng thấp. Bên cạnh đó, nhiều
ngân hàng, doanh nghiệp (Vietcombank,
Agribank, Sacombank, Tập đoàn Hoàng
Anh Gialai) Việt Nam đã mở chi nhánh
và hoạt động khá hiệu quả tại Lào,
Campuchia cũng cho thấy khả năng hội
nhập nhanh chóng của lao động Việt Nam
trong ASEAN gắn với dòng di chuyển
thương mại, vốn đầu tư, dịch vụ.
Với các đối tác vào đầu tư, hợp tác
trong nước, nhân lực Việt Nam có khả
năng đảm nhận những công việc đòi hỏi
kỹ thuật bậc trung và kể cả vị trí điều hành
khá cao trong doanh nghiệp của các đối
tác đầu tư đến từ ASEAN (cuộc thi tay
nghề ASEAN tổ chức vào cuối năm 2014
tại Hà Nội với kết quả giải nhất thuộc về
đội Việt Nam đã chứng tỏ điều đó). Chưa
kể, một số lượng đáng kể người Việt Nam
di chuyển sang các nước ASEAN bằng
con đường du lịch và tìm việc làm phi
chính thức tại các nước ASEAN cũng là
dấu hiệu cho thấy, khả năng tiếp cận
nhanh chóng và cạnh tranh với lao động
các nước khác trên thị trường lao động
ASEAN. Hầu hết các danh mục ngành
nghề của Việt Nam các nước ASEAN
tương tự nhau, cho nên đây là khía cạnh
không tạo ra sự khác biệt quá lớn trong
đào tạo nghề nghiệp và sự công nhận lẫn
nhau. Đến nay, ASEAN cũng đã có Hiệp
định về di chuyển tự nhiên nhân lực trong
ASEAN và thỏa thuận công nhận lẫn nhau
về chứng chỉ lành nghề của cơ quan chính
thức như: Dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ điều
dưỡng, dịch vụ kiến trúc, chứng chỉ giám
sát, nhân lực nghề y, nha khoa, kế toán, du
lịch. Những dấu hiệu trên cho thấy, tiềm
năng đáng kể của lao động Việt Nam
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
27
trong việc sẵn sàng tham gia cộng đồng
ASEAN.
- Điểm yếu/Hạn chế
Về trình độ CMKT của LLLĐ, mặc dù
đã được cải thiện nhưng tỷ trọng lao động
qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ vẫn
còn thấp, mới chỉ đạt 18,59% đến năm
2014, tương ứng với 9,99 triệu người
(gồm 2,4 triệu lao động đã qua đào tạo
nghề ở trình độ sơ cấp và trung cấp, hơn 2
triệu lao động có trình độ tốt nghiệp trung
học chuyên nghiệp và 5,35 triệu lao động
tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên).
Về chuyển dịch cơ cấu LLLĐ theo
khu vực thành thị - nông thôn đã bị chậm
lại trong giai đoạn suy giảm kinh tế. Đến
năm 2014, gần 70% LLLĐ vẫn tập trung
ở khu vực nông thôn. Đặc biệt, trong giai
đoạn 2010-2014, tăng trưởng LLLĐ thành
thị có xu hướng tăng chậm lại đã làm cho
chuyển dịch cơ cấu LLLĐ theo khu vực
thành thị-nông thôn bị chững lại với tỷ lệ
lao động thành thị chỉ đạt khoảng 31%
trong vòng 5 năm qua. Điều này một lần
nữa cho thấy, mặc dù những nỗ lực của
cải cách kinh tế, quá trình hiện đại hóa và
đô thị hóa dường như vẫn bị “đóng băng”
trong bối cảnh kinh tế khó khăn vừa qua.
Song song với giai đoạn dân số vàng,
Việt Nam cũng đang nằm trong giai đoạn
dân số già với LLLĐ cao tuổi tăng nhanh,
trong khi LLLĐ trẻ (15-29 tuổi) có xu
hướng giảm. Giai đoạn 2004-2014, LLLĐ
trẻ giảm nhẹ 0,08%/năm, LLLĐ trung
niên (30-59 tuổi) tăng với tốc độ
3,12%/năm trong cùng giai đoạn. Đặc
biệt, LLLĐ cao tuổi tăng nhanh với tốc độ
bình quân 6,41%/năm, đưa quy mô LLLĐ
cao tuổi lên hơn 4,7 triệu người vào năm
2014, cao hơn 2 lần so với năm 2004.
Năng suất lao động của lao động Việt
Nam còn thấp. Theo đánh giá của Tổ chức
Lao động thế giới (ILO), năng suất lao
động của Việt Nam thấp hơn 15 lần so với
Singapore, bằng 1/5 năng suất lao động
của Thái Lan và Malaysia. Đó là chưa đề
cập đến so sánh với năng suất lao động
của Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Ấn
Độ, Newzealand mà những đối tác này đã
có các hiệp định quan trọng với ASEAN
và khả năng mở rộng thị trường lao động
sang các nước này là không tránh khỏi.
Đây là yếu tố làm giảm khả năng hấp dẫn
lao động Việt Nam trước các nhà tuyển
dụng nước ngoài, thậm chí là khía cạnh để
các nhà tuyển dụng tăng tính khắt khe
trong yêu cầu đối với lao động Việt Nam.
Về chỉ số phát triển con người, HDI
của Việt Nam khá thấp so với các nước
ASEAN 6 và không cao hơn đáng kể so
với nhóm Campuchia, Lào, Myanmar.
Chỉ số HDI của Việt Nam là 0,638 trong
khi của Singapore là 0,901 và Myanmar là
0,524.
Về một số yếu tố khác như tác phong
công nghiệp, thể lực: một bộ phận người
lao động Việt Nam chưa có tác phong công
nghiệp, còn mang nặng thói quen và tập
quán sản xuất nhỏ, kỷ luật lao động lỏng
lẻo, quan hệ hợp tác trong công việc và
trình độ ngoại ngữ còn yếu. Điều này đã
ảnh hưởng nhất định đến sự tham gia của
lao động Việt Nam trong hợp tác và phân
công của lao động quốc tế.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
28
Thể lực của người lao động Việt Nam
nói chung cũng đã có nhiều cải thiện so
với trước đây nhưng vẫn yếu hơn so với
một số nước khác về chiều cao, cân nặng
và sức bền. Khi hội nhập kinh tế đòi hỏi
người lao động phải làm việc trong môi
trường có sức ép về công việc khá lớn. Họ
không chỉ cần phải có đủ trình độ, kiến
thức, kỹ năng mà còn cần phải có thể lực
và sức khỏe tốt.
Về trình độ ngoại ngữ, theo thống kê
của Tổ chức thực hiện thi IELTS (Hệ
thống kiểm tra sự thành thạo tiếng Anh
quốc tế theo thang điểm 0-9) thì thí sinh
Việt Nam có điểm trung bình là 5,78
thuộc vào nhóm các nước có điểm trung
bình thấp, đứng sau Indonexia (5,97),
Phillippin (6,53), Malaysia (6,64). Những
hạn chế, những yếu kém của nguồn nhân
lực là một trong những nhân tố chủ yếu
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế (năm 2011 xếp thứ 65/141
nước xếp hạng).
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế
giới (WB), nếu lấy thang điểm là 10 thì
chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt
3,79 điểm - xếp thứ 11/12 nước Châu Á
tham gia xếp hạng của WB; trong khi Hàn
Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là
5,59; Thái Lan là 4,94... Chất lượng lao
động thấp nên năng suất lao động của Việt
Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái
Bình Dương, trong đó, thấp hơn
Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản
11 lần và Hàn Quốc 10 lần.
4. Hàm ý chính sách tăng cường
chất lượng nhân lực Việt Nam nhằm
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường
lao động khi hội nhâp AEC
Nguồn nhân lực Việt Nam với chất
lượng còn hạn chế có nhiều nguyên nhân,
trong đó chủ yếu là công tác đào tạo hiện
nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn
hạn chế. Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI)
đã thẳng thắn chỉ ra: “Chất lượng giáo dục
nhìn chung thấp, nhất là ở giáo dục đại
học và giáo dục nghề nghiệp, chưa thực
sự đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và
nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự
chuyển biến của đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế, là một trong những nguyên nhân
làm hạn chế chất lượng nguồn nhân lực
của đất nước Chưa giải quyết tốt mối
quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa
dạy chữ với dạy người, dạy nghề,”. Do
đó, bài viết này xin đề xuất một số giải
pháp tăng cường chất lượng nhân lực Việt
Nam nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
thị trường lao động khi hội nhập AEC.
Thứ nhất, coi nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực là chính sách ưu tiên hàng
đầu trong quá trình chuẩn bị hội nhập. Các
cấp uỷ Đảng, chính quyền phải quán triệt
tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng về
vai trò, vị trí của nguồn nhân lực trong
chiến lược, quy hoạch phát triển nhân lực
của đất nước thời kỳ 2010 - 2020 để chỉ
đạo xây dựng quy hoạch phát triển nhân
lực của Bộ, ngành địa phương và tổ chức
thực hiện. Phải thực sự coi đầu tư nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực là đầu tư
cho phát triển.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
29
Thứ hai, đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục, để từ đó nâng cao về mặt
trình độ và kỹ năng cho nguồn nhân lực
Việt Nam, cụ thể như sau:
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách về
giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo nghề. Có
chính sách đãi ngộ, thu hút giáo viên;
chính sách đối với người lao động qua đào
tạo nghề; chính sách đào tạo liên thông,
hỗ trợ người học nghề. Xây dựng cơ chế
để doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động
tham gia xây dựng, đánh giá, điều chỉnh
chương trình đào tạo, hướng dẫn thực
hành, thực tập và đánh giá năng lực người
học, hướng tới doanh nghiệp phải là một
trong những chủ thể đào tạo nghề nghiệp
không chỉ là “đối tác”, là người thụ hưởng
sản phẩm đào tạo.
- Đẩy mạnh xã hội hoá, đa dạng nguồn
lực cho phát triển đào tạo nghề nghiệp bao
gồm, nhà nước, doanh nghiệp, người học,
các nhà đầu tư trong và ngoài nước, trong
đó nguồn ngân sách nhà nước là quan
trọng; Nhà nước có chính sách hỗ trợ về
vốn, đất đai, thuế đối với các cơ sở giáo
dục ngoài công lập.
- Tăng cường các điều kiện đảm bảo
chất lượng giáo dục, đào tạo, bao gồm phát
triển đội ngũ giáo viên/giảng viên; chuẩn
hóa về trình độ đào tạo, kỹ năng và sư
phạm nghề theo các cấp độ (quốc gia, khu
vực và quốc tế) và theo trình độ đào tạo.
Phát triển chương trình đào tạo phù hợp
với công nghệ sản xuất hiện đại theo
hướng mở, mềm dẻo thích hợp với các cấp
và trình độ đào tạo nghề; áp dụng một số
chương trình đào tạo của các nước tiên tiến
trong khu vực và thế giới phù hợp với yêu
cầu KT-XH của Việt Nam. Chuẩn hóa cơ
sở vật chất và thiết bị đào tạo; ban hành các
tiêu chuẩn về cơ sở vật chất và thiết bị đào
tạo cho từng nghề ở từng cấp độ, trên cơ sở
chuẩn đầu ra.
- Đổi mới hoạt động đào tạo. Chuyển
chương trình đào tạo từ chủ yếu trang bị
kiến thức sang mục tiêu phát triển kỹ năng
và năng lực hành nghề cho người học. Đa
dạng hóa nội dung đào tạo theo hướng tích
hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình
thành năng lực nghề nghiệp cho người
học. Đổi mới quản lý quá trình dạy và học,
nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh
giá kết quả đào tạo trên cơ sở chú trọng
đánh giá việc hiểu, vận dụng kiến thức, kỹ
năng vào việc giải quyết các vấn đề
trong thực tiễn, có sự tham gia của doanh
nghiệp hoặc đại diện sử dụng lao động.
Thứ ba, chú trọng đào tạo cơ bản và
đào tạo nâng cao kỹ năng mềm, rèn luyện
tác phong nghề nghiệp, đặc biệt là đào tạo
kiến thức về ngoại ngữ, đảm bảo nhân lực
Việt Nam có thể giao tiếp tốt và có khả
năng sử dụng ngoại ngữ cơ bản khi tham
gia lao động trên thị trường ASEAN.
Không chỉ các cơ sở đào tạo cần nâng cao
trình độ cho giáo viên, trang bị thêm cơ sở
vật chất mà cần có thông tin để người lao
động biết được tầm quan trọng của các kỹ
năng này khi chính thức hội nhập AEC.
Thứ tư, song song với nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực thông qua giáo dục,
đào tạo, cần nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khỏe cho người dân, đặc biệt là thanh
niên. Tăng cường thể chất, sức dẻo dai
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
30
cho đội ngũ thanh niên. Đại hội XI đã đề
cập tới việc cụ thể hóa những hoạt động
của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả chăm sóc sức khỏe
nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội
nhập, cạnh tranh gay gắt và yêu cầu cường
độ lao động cao.
Thứ năm, gắn kết giữa đào tạo với thị
trường lao động và sự tham gia của doanh
nghiệp. Xây dựng các mối quan hệ chặt
chẽ giữa giáo dục và đào tạo với TTLĐ cả
ở cấp độ vĩ mô và cấp cơ sở để đảm bảo
cho các hoạt động của hệ thống giáo dục,
đào tạo hướng vào việc đáp ứng phát triển
KT-XH của từng địa phương, từng ngành;
đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và giải
quyết việc làm cho người học.
Thứ sáu, đẩy mạnh hợp tác quốc tế
về giáo dục, đào tạo. Tăng cường hợp tác
quốc tế về GDNN giữa các nước trong
khu vực ASEAN và thế giới. Tích cực vận
động, thu hút nguồn viện trợ phát triển
chính thức ODA cho phát triển
GDNN. Hợp tác với các nước ASEAN để
tiến tới công nhận kỹ năng nghề giữa các
nước, hướng tới Cộng đồng ASEAN vào
năm 2015. Tích cực tham gia vào các hoạt
động của khu vực và thế giới như tham gia
Hội thi tay nghề ASEAN, Hội thi tay nghề
thế giới
Thứ bảy, cải thiện và tăng cường
thông tin về chất lượng nguồn nhân lực
theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm cho
mọi người thấy được tầm quan trọng của
vấn đề phát triển nguồn nhân lực nói
chung và trong giai đoạn hội nhập AEC
nói riêng. Đồng thời, có nghiên cứu và
tổng kết thường kỳ về nguồn nhân lực
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
1. ILO, Đẩy mạnh tính cạnh tranh và
sự thịnh vượng của Việt Nam thông qua việc
làm tốt hơn và hội nhập sâu hơn vào khu
vực ASEAN, Báo cáo Tóm lược về Việt
Nam, tháng 8 năm 2014.
2. Năng suất và chất lượng lao động
Việt Nam trước ngưỡng cửa cộng đồng kinh
tế ASEAN, ngày 31/7/2015, website
3. PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng, Ths.
Trần Đức Thắng, Đánh giá nguồn nhân lực
Việt Nam khi tham gia AEC, Tạp chí tài
chính.
4. Ths. Nguyễn Thu Nga, Nâng cao
chất lượng nguồn lao động Việt Nam, Tạp
chí Tài chính vĩ mô, số 04(45) – 2007.
5. Viện Khoa học Lao động và Xã hội,
Xu hướng lao động và xã hội Việt Nam
2014, NXB Lao động.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_nhan_luc_viet_nam_nham.pdf