Thứ hai, cần tạo thêm các điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
giai đoạn thực hiện các FTA thế hệ mới:
Mặc dù số lượng doanh nghiệp tại Việt
Nam hiện nay tương đối nhiều, thế nhưng,
trên thực tế, chủ yếu chỉ là các doanh nghiệp
với quy mô hoạt động vừa và nhỏ. Nghiên
cứu cho thấy: “doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm 95% tổng số doanh nghiệp ở Việt
Nam, được đánh giá là lực lượng năng động,
có đóng góp nhiều cho tăng trưởng GDP”.28
Hoặc theo Phòng thương mại và công nghiệp
Việt Nam (VCCI) thì: “càng ngày các doanh
nghiệp Việt càng trở nên li ti chứ không gọi
là siêu nhỏ nữa”.29 Hay nghiên cứu của Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương cho
thấy: “Nhiều nghiên cứu và thực tế đã chỉ ra
rằng chính các doanh nghiệp nhỏ và vừa là
một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển
và đổi mới kinh tế - xã hội Doanh nghiệp
nhỏ và vừa đã thực sự định nghĩa lại những
thị trường hoàn toàn mới, khởi đầu làn sóng
sáng tạo - đổi mới không chỉ cho quốc gia
mà cả thế giới”.30 Từ đó, có thể thấy rằng,
trong giai đoạn hiện tại và có thể trong tương
lai lâu dài, các mô hình kinh doanh nhỏ và
vừa vẫn sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ tại
Việt Nam. Bởi lẽ, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa có khá nhiều lợi thế và rất phù hợp với
môi trường thương mại của Việt Nam. Sở dĩ
như vậy là vì đã từng có nghiên cứu cho
rằng: “cơ sở để một loại hình doanh nghiệp
có thể phát triển tốt tại Việt Nam thì loại hình
doanh nghiệp đó phải thỏa mãn các điều kiện
như: (i) quy mô của doanh nghiệp không quá
lớn nhưng lại có thể dễ dàng mở rộng quy
mô trong dài hạn; (ii) Giữa các thành viên
của doanh nghiệp phải luôn tồn tại sự tin
tưởng lẫn nhau; (iii) Doanh nghiệp phải đảm
bảo sự an toàn về mặt pháp lý trước pháp
luật, tạo niềm tin cho các khách hàng và cơ
cấu tổ chức, quản trị điều hành không quá
phức tạp.”.31 Chính vì vậy, tác giả cho rằng,
Nhà nước cần có những chính sách thuận lợi
để tạo lợi thế phát triển cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng quản lý kinh tế trong giai đoạn tham gia các FTA thế hệ mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
1
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG
QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG GIAI ĐOẠN THAM GIA CÁC FTA
THẾ HỆ MỚI
SOLUTIONS TO PROMOTE EFFICIENT IMPLEMENTATION FUNCTION OF
ECONOMIC MANAGEMENT IN PARTICIPATING IN NEW GENERATION FTAS
Ngày nhận bài: 07/07/2020
Ngày chấp nhận đăng: 07/09/2020
Nguyễn Vinh Hưng
TÓM TẮT
Trong một số năm gần đây, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các Hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới (FTA). Có thể nói, việc tham gia các FTA giúp cho kinh tế Việt Nam mở ra rất nhiều
cơ hội thuận lợi để phát triển. Tuy nhiên, để nền kinh tế hoạt động ổn định trước sự tác động, ảnh
hưởng từ các FTA thì chức năng quản lý kinh tế đã liên tục phải có sự điều chỉnh phù hợp. Do
vậy, bài viết nghiên cứu về sự tác động của các FTA đến chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
Việt Nam, để từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng quan
trọng này.
Từ khóa: chức năng quản lý kinh tế, quản lý kinh tế, Nhà nước, pháp luật, hiệp định thương mại.
ABSTRACT
In recent years, Viet Nam has been actively participating in new generation Free Trade
Agreements (FTA). Joining FTA which helps the economy of Viet Nam gives many favorable
opportunities for development. However, in order that the economy can operate stably under the
impacts and influences from FTA, the economic management function have to continously adjust
accrordingly. Therefore, this article researches the influence of FTA on the economic management
function of the State of Vietnam, from which the article proposes a couple of recommendations to
improve the effectiveness of the implementation of this critical function.
Keywords: economic management function, economic management, State, law, trade
agreement..
1. Đặt vấn đề
Có thể khẳng định, chức năng quản lý
kinh tế là chức năng rất quan trọng của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bởi lẽ, chức năng quản lý kinh tế có tác
động, ảnh hưởng đến mọi tầng lớp nhân dân
trong xã hội và liên quan rất lớn đến sự tồn
tại và phát triển của Nhà nước. Tuy nhiên,
trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay,
dưới sự tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của
các FTA đã làm cho chức năng quản lý kinh
tế phải liên tục có sự điều chỉnh để kịp thời
thích ứng, phù hợp với yêu cầu và hoàn cảnh
mới. Từ đó, bài viết nghiên cứu về sự tác
động của các FTA thế hệ mới đến chức năng
quản lý kinh tế, nhằm đề xuất một số giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chức năng quan trọng này.
2. Phương pháp nghiên cứu
Để xem xét sự tác động của các FTA thế
hệ mới đến Phương pháp nghiên cứu
Để xem xét sự tác động của các FTA thế
hệ mới đến nền kinh tế Việt Nam, tác giả lựa
chọn kết hợp đồng thời phương pháp thu thập
thông tin (thu thập số liệu) và phương pháp
phân tích thông tin. Trong đó, tác giả sử dụng
phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương
Nguyễn Vinh Hưng, Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
2
pháp thu thập dữ liệu thứ cấp từ các số liệu
thu thập được. Về cơ bản, bài viết này sử
dụng tổng hợp dữ liệu từ nhiều nguồn thông
tin thu nhận được và có sự phân tích, kiểm
tra, so sánh, đánh giá để tìm ra điểm mới.
Ngoài ra, bài viết còn sử dụng phương
pháp thống kê tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp phân tích hiệu quả kinh tế
và phương pháp mô tả để nhằm mục đích
phân tích, đánh giá, dự báo về sự tác động,
ảnh hưởng của các FTA thế hệ mới đến nền
kinh tế Việt Nam trong giai đoạn phát triển
hiện nay và từ đó, có cơ sở để có thể đề xuất
một số giải pháp phù hợp. Các phương pháp
nghiên cứu trên được tác giả sử dụng và kết
hợp chặt chẽ với nhau để nhằm đạt được mục
tiêu nghiên cứu của bài viết.
3. Sự tác động của các FTA thế hệ mới đến
nền kinh tế Việt Nam
Nghiên cứu cho thấy, “hầu hết các nước
trên thế giới đều có nền kinh tế mở. Nền kinh
tế thế giới hiện đại ngày càng gắn kết chặt
chẽ các quốc gia với nhau”. Vì vậy, có thể
thấy rằng, “mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa
kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới ngày
càng tăng”. Bên cạnh đó, sau nhiều năm hội
nhập, Việt Nam đã và đang là thành viên của
khá nhiều tổ chức và diễn đàn kinh tế lớn
trên thế giới điển hình như ASEAN, APEC,
ASEM, WTO hay gần đây là CPTPP,
EVFTA và cũng đã tham gia khá nhiều FTA
với một số quốc gia khác. Hơn nữa, “Chính
phủ đang đàm phán một loạt FTA thế hệ mới
và đang được kỳ vọng sẽ tạo ra làn sóng hội
nhập lần thứ hai mạnh mẽ hơn đối với Việt
Nam”. Do vậy, tính đến thời điểm hiện nay,
“Việt Nam đã đàm phán, ký kết và thực thi
16 FTA với gần 60 đối tác; trong đó đã thực
thi 12 FTA, ký và chuẩn bị phê chuẩn 1 FTA,
đang đàm phán 3 FTA”. Trong đó, “có thể kể
đến các FTA “thế hệ mới” như: FTA Việt
Nam - EU (EVFTA); Hiệp định Đối tác
thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương
(TTIP); các FTA ASEAN + 1; FTA Australia
- Hoa Kỳ (AUSFTA)...”. Ngoài ra, cần kể
đến rất nhiều FTA quan trọng khác như:
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam
- Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định thương mại
tự do Việt Nam - Chile. Mặt khác, Việt Nam
đã cùng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) ký kết và triển khai thực hiện khá
nhiều FTA rất quan trọng như: Hiệp định khu
vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp
định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc
(ACFTA), Hiệp định thương mại tự do
ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA), Hiệp định
đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản
(AJCEP), khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Ấn Độ (AIFTA), khu vực thương mại tự do
giữa các nước ASEAN, Australia và New
Zealand (AANZFTA).
Không những vậy, ngày 02/12/2015, tại
Brussel Vương quốc Bỉ, Việt Nam chính
thức kết thúc đàm phán Hiệp định thương
mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA).
Ngày 30/6/2019, “Việt Nam và EU đã chính
thức ký kết Hiệp định Thương mại tự do và
Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và
Liên minh châu Âu (EVFTA và EVIPA).
Hiệp định EVFTA là một trong những FTA
lớn nhất Việt Nam từng tham gia, được kỳ
vọng sẽ làm thay đổi thể chế chính sách và
phát triển nền kinh tế Việt Nam lên một tầm
cao mới khi chính thức được thực thi. Hiệp
định sẽ tạo cho nền kinh tế Việt Nam không
gian về mặt thị trường rộng lớn hơn, chất
lượng cao hơn, đó là thị trường EU”. Và kể
từ 01/8/2020, sau nhiều thời gian chờ đợi,
cuối cùng EVFTA đã chính thức có hiệu lực.
Có thể nói, EVFTA có hiệu lực đã góp phần
quan trọng tạo “động lực trong việc thúc đẩy
dòng vốn FDI từ EU vào Việt Nam”. Những
triển vọng tươi sáng của EVFTA đối với kinh
tế Việt Nam được thể hiện qua những số liệu
dự báo ấn tượng. Cụ thể, theo số liệu dự báo
gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: nền
kinh tế Việt Nam, tác giả lựa chọn kết hợp
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
3
đồng thời phương pháp thu thập thông tin
(thu thập số liệu) và phương pháp phân tích
thông tin. Trong đó, tác giả sử dụng phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp thu
thập dữ liệu thứ cấp từ các số liệu thu thập
được. Về cơ bản, bài viết này sử dụng tổng
hợp dữ liệu từ nhiều nguồn thông tin thu
nhận được và có sự phân tích, kiểm tra, so
sánh, đánh giá để tìm ra điểm mới.
Ngoài ra, bài viết còn sử dụng phương
pháp thống kê tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp phân tích hiệu quả kinh tế
và phương pháp mô tả để nhằm mục đích
phân tích, đánh giá, dự báo về sự tác động,
ảnh hưởng của các FTA thế hệ mới đến nền
kinh tế Việt Nam trong giai đoạn phát triển
hiện nay và từ đó, có cơ sở để có thể đề xuất
một số giải pháp phù hợp. Các phương pháp
nghiên cứu trên được tác giả sử dụng và kết
hợp chặt chẽ với nhau để nhằm đạt được mục
tiêu nghiên cứu của bài viết.
3. Sự tác động của các FTA thế hệ mới
đến nền kinh tế Việt Nam
Nghiên cứu cho thấy, “hầu hết các nước
trên thế giới đều có nền kinh tế mở. Nền kinh
tế thế giới hiện đại ngày càng gắn kết chặt
chẽ các quốc gia với nhau”.1 Vì vậy, có thể
thấy rằng, “mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa
kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới ngày
càng tăng”.2 Bên cạnh đó, sau nhiều năm hội
nhập, Việt Nam đã và đang là thành viên của
khá nhiều tổ chức và diễn đàn kinh tế lớn
trên thế giới điển hình như ASEAN, APEC,
ASEM, WTO hay gần đây là CPTPP,
EVFTA và cũng đã tham gia khá nhiều FTA
với một số quốc gia khác. Hơn nữa, “Chính
1 Phạm Quang Vinh (2011), Giáo trình Kinh tế
học Vĩ mô, trường Đại học kinh tế - ĐHQGHN,
tr. 135.
2 Lê Danh Vĩnh (2009), Hoàn thiện thể chế về
môi trường kinh doanh của Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, tr. 186
phủ đang đàm phán một loạt FTA thế hệ mới
và đang được kỳ vọng sẽ tạo ra làn sóng hội
nhập lần thứ hai mạnh mẽ hơn đối với Việt
Nam”.3 Do vậy, tính đến thời điểm hiện nay,
“Việt Nam đã đàm phán, ký kết và thực thi
16 FTA với gần 60 đối tác; trong đó đã thực
thi 12 FTA, ký và chuẩn bị phê chuẩn 1 FTA,
đang đàm phán 3 FTA”.4 Trong đó, “có thể
kể đến các FTA “thế hệ mới” như: FTA Việt
Nam - EU (EVFTA); Hiệp định Đối tác
thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương
(TTIP); các FTA ASEAN + 1; FTA Australia
- Hoa Kỳ (AUSFTA)...”.5 Ngoài ra, cần kể
đến rất nhiều FTA quan trọng khác
như: Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt
Nam - Nhật Bản (VJEPA),6 Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam - Chile.7 Mặt
3 Báo điện tử Diễn đàn Doanh nghiệp (2019), Các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: cơ hội và
thách thức của nền kinh tế Việt Nam, nguồn truy cập:
tu-do-the-he-moi-co-hoi-va-thach-thuc-cua-nen-
kinh-te-viet-nam-90312.html, ngày truy cập
17/8/2020.
4 Bùi Thanh Sơn (2020), Triển khai các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới trong giai đoạn hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng và toàn diện, nguồn truy cập:
te/-/2018/815809/trien-khai-cac-hiep-dinh-thuong-
mai-tu-do-the-he-moi-trong-giai-doan-hoi-nhap-
kinh-te-quoc-te-sau-rong-va-toan-dien.aspx#,
ngày truy cập: 17/8/2020.
5 Trung tâm WTO (2020), Tác động của các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới với kinh tế Việt
Nam, nguồn truy cập:
tuc/12360-tac-dong-cua-cac-hiep-dinh-thuong-
mai-tu-do-the-he-moi-voi-kinh-te-viet-nam, ngày
truy cập: 17/8/2020.
6 Báo điện tử Công thương, Hiệp định đối tác
kinh tế Việt Nam - Nhật Bản: nhiều cơ hội cho
hàng Việt, nguồn: https://congthuong.vn/hiep-
dinh-doi-tac-kinh-te-viet-nam-nhat-ban-nhieu-co-
hoi-cho-hang-viet-54721.html, ngày truy cập:
17/8/2020.
7 Báo điện tử Đầu tư tài chính Sài Gòn giải phóng
(2018), Đón cơ hội FTA Việt Nam - Chi lê, nguồn
truy cập
thi-truong/don-co-hoi-fta-viet-nam-chile-33081.html,
ngày: 17/8/2020.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
4
khác, Việt Nam đã cùng Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) ký kết và triển
khai thực hiện khá nhiều FTA rất quan trọng
như: Hiệp định khu vực thương mại tự do
ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại tự
do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), Hiệp
định thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc
(AKFTA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn
diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP), khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Ấn Độ (AIFTA),
khu vực thương mại tự do giữa các nước
ASEAN, Australia và New Zealand
(AANZFTA).
8
Không những vậy, ngày 02/12/2015, tại
Brussel Vương quốc Bỉ, Việt Nam chính
thức kết thúc đàm phán Hiệp định thương
mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA).
Ngày 30/6/2019, “Việt Nam và EU đã chính
thức ký kết Hiệp định Thương mại tự do và
Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và
Liên minh châu Âu (EVFTA và EVIPA).
Hiệp định EVFTA là một trong những FTA
lớn nhất Việt Nam từng tham gia, được kỳ
vọng sẽ làm thay đổi thể chế chính sách và
phát triển nền kinh tế Việt Nam lên một tầm
cao mới khi chính thức được thực thi. Hiệp
định sẽ tạo cho nền kinh tế Việt Nam không
gian về mặt thị trường rộng lớn hơn, chất
lượng cao hơn, đó là thị trường EU”.9 Và kể
từ 01/8/2020, sau nhiều thời gian chờ đợi,
cuối cùng EVFTA đã chính thức có hiệu lực.
Có thể nói, EVFTA có hiệu lực đã góp phần
quan trọng tạo “động lực trong việc thúc đẩy
8 Bộ Tài chính (2019), hợp tác quốc tế\hội nhập
và hợp tác tài chính\FTA, nguồn truy cập:
/htqt/hnvhttc/fta?.... , truy cập ngày 17/8/2020.
9 Báo điện tử Hiệp hội ngân hàng (2019), Việt Nam và các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nguồn truy cập:
https://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_
k2&view=item&id=10959:viet-nam-va-cac-hiep-
dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi&lang=vi, ngày
truy cập: 17/8/2020
dòng vốn FDI từ EU vào Việt Nam”.10
Những triển vọng tươi sáng của EVFTA đối
với kinh tế Việt Nam được thể hiện qua
những số liệu dự báo ấn tượng. Cụ thể, theo
số liệu dự báo gần đây của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư:11
Bảng 1. Dự báo mức độ tăng trưởng của xuất
khẩu và nhập khẩu giữa Việt Nam và Liên
minh các quốc gia châu Âu - EU.
EVFTA
(Việt Nam -
Liên minh
các quốc
gia châu
Âu)
Năm
2020
Năm
2025
Năm
2030
Kim ngạch
xuất khẩu
của VN
sang EU
Mức
tăng:
20%
Mức
tăng:
42,7%
Mức
tăng:
44,37%
Kim ngạch
nhập khẩu
từ EU vào
VN
Mức
tăng:
15,28%
Mức
tăng:
33,06%
Mức
tăng:
36,7%
Như vậy, qua phân tích bảng số liệu trên
có thể thấy rằng, kinh tế Việt Nam rõ ràng
được hưởng rất nhiều lợi ích khi Việt Nam
tham gia EVFTA với EU. Trong đó, mặc
dù kim ngạch nhập khẩu từ EU vào Việt
Nam cũng tăng, thế nhưng, so với kim
ngạch xuất khẩu thì tỷ lệ tăng của kim
ngạch nhập khẩu luôn thấp hơn khá nhiều.
Do đó, có thể thấy rằng, đây là cơ hội phát
triển rất tốt cho các doanh nghiệp xuất
khẩu và nền kinh tế Việt Nam.
10 Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam (VOV),
Hiệp định EVFTA - Động lực thúc đẩy dòng vốn
FDI từ EU vào Việt Nam, nguồn:
https://vov.vn/kinh-te/hiep-dinh-evfta-dong-luc-thuc-day-
dong-von-fdi-tu-eu-vao-viet-nam-828743.vov , truy cập
ngày 17/8/2020.
11 Báo điện tử Hiệp hội ngân hàng (2019), Việt
Nam và các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, tlđd, ngày truy cập: 17/8/2020.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
5
Ngoài ra, cùng với sự tăng trưởng mạnh
mẽ của xuất khẩu, cũng theo dự báo của Bộ
kế hoạch và đầu tư,12 GDP của Việt Nam
nhờ đó cũng tăng trưởng rất ấn tượng với các
con số dự báo:
Bảng 2. Dự báo tăng trưởng GDP của Việt
Nam khi tham gia EVFTA.
GDP
Việt
Nam
Từ 2019
- 2023
Từ 2024
- 2028
Từ 2029
- 2033
Mức độ
tăng
trưởng
bình
quân
hằng
năm
Tăng từ
2,18 -
3,25%
Tăng từ
4,57 -
5,30%
Tăng từ
7,07 -
7,72%
Từ các số liệu trên, có thể thấy rằng, trong
khoảng 15 năm, GDP của Việt Nam có thể
tăng trưởng tương đương 2,7 lần. Do đó, rõ
ràng EVFTA đã mở ra rất nhiều cơ hội và
thời cơ thuận lợi để kinh tế Việt Nam bức tốc
nhanh chóng.
Hay theo một nghiên cứu khác, “EVFTA
sẽ mang lại tác động tích cực tới GDP của
Việt Nam Tính trung bình, GDP tăng thêm
mỗi năm 5,3 tỷ USD, tương đương với 0,34
điểm %. Tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ
được cải thiện trong cả ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn. Kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang EU tăng thêm lũy tiến khoảng
20% vào năm 2020 và 42,7% vào năm 2025
và 44,37% vào năm 2030 so với kịch bản
không có Hiệp định EVFTA. Tác động của
Hiệp định tới tổng xuất khẩu của Việt Nam
tăng lần lượt 3,1%; 5,7% và 5,6% tới các
năm 2020, 2025 và 2030. Như vậy, có đến
74-76% xuất khẩu tăng thêm sang EU
12 Báo điện tử Hiệp hội ngân hàng (2019), Việt
Nam và các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, tlđd, ngày truy cập: 17/8/2020.
nhập khẩu của Việt Nam từ EU tăng khoảng
15,28% vào năm 2020, hơn 33,06% vào năm
2025 và 36,7% vào 2030”.13
Đặc biệt sau nhiều nỗ lực và đàm phán
không ngừng, Việt Nam đã tham gia CPTPP
từ ngày 12/11/2018 và đến ngày
14/01/2019,
14
CPTPP đã chính thức có hiệu
lực đối với Việt Nam. Đánh giá chung về sự
tác động của CPTPP và EVFTA đến kinh tế
Việt Nam, đã có nhận định cho rằng, “với
những nội dung cam kết toàn diện và ở mức
cao nhất trong số các FTA trước đây của Việt
Nam, CPTPP và EVFTA được kỳ vọng sẽ có
những tác động sâu rộng đến nền kinh tế Việt
Nam trong thời gian tới Mặt khác, theo các
nghiên cứu đánh giá tác động của EVFTA và
CPTPP đến kinh tế Việt Nam gần đây đều
cho thấy, việc tham gia và ký kết các Hiệp
định FTA, CPTPP và EVFTA sẽ mang lại tác
động tích cực đến nền kinh tế Việt Nam”.15
Đây đều là những thời cơ thuận lợi và là các
tín hiệu rất đáng mừng đối với sự phát triển
kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện tại
và tương lai lâu dài. Tuy nhiên, có thể thấy
rằng, “các FTA thế hệ mới có phạm vi và
mức độ cam kết cao hơn so với các FTA
thông thường”.16 Hơn nữa, “khi một FTA
được ký kết, sẽ có những tác động đến lợi ích
13 Báo điện tử Thông tấn xã Việt Nam (2020), FTA thế
hệ mới và cơ hội đối với Việt Nam, nguồn truy cập:
https://bnews.vn/fta-the-he-moi-va-co-hoi-doi-voi-viet-
nam/146111.html, ngày truy cập: 17/8/2020.
14 Báo điện tử Đầu tư tài chính Sài gòn giải phóng
(2018), Việt Nam chính thức tham gia CPTPP từ hôm
nay 12-11, nguồn truy cập:
chinh-thuc-tham-gia-cptpp-tu-hom-nay-1211-558553.html, truy
cập ngày 17/8/2020.
15 Báo điện tử Thông tấn xã Việt Nam (2020),
FTA thế hệ mới và cơ hội đối với Việt Nam, tlđd,
ngày truy cập: 17/8/2020.
16 Trần Tuấn Anh (2020), Cơ hội của Việt Nam trong
các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nguồn truy
cập: https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/co-hoi-cua-
viet-nam-trong-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-
moi/435860.html, ngày 17/8/2020.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
6
các quốc gia, làm thay đổi chính sách của các
quốc gia là thành viên cũng như những quốc
gia không là thành viên của một FTA nào
đó”.17
Về cơ bản, sự tác động của các FTA thế
hệ mới đến nền kinh tế Việt Nam thể hiện
như sau:
Hiện nay, Việt Nam “được xem là một
trong những nước có nền kinh tế hướng xuất
khẩu mạnh mẽ nhất trong khối các nước
ASEAN. Trong tiến trình này có sự tác động
không nhỏ của các FTA đã được ký kết”.18
Bởi lẽ, để có thể tham gia và thực hiện các
FTA, Việt Nam đã phải mở cửa thị trường
theo hướng tự do hóa thương mại. Hơn nữa,
Việt Nam cũng đã ngày càng cắt giảm các
hàng rào thuế quan (thuế nhập khẩu) để thực
hiện theo cam kết của các FTA. Nói cách
khác, dưới sự tác động của các FTA, Việt
Nam đã và đang tuân thủ và thực hiện đầy đủ
các cam kết với quốc tế. Trong đó, Việt Nam
dần xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa
hay đầu tư trong nước với hàng hóa, đầu tư
đến từ nước ngoài. Mặt khác, Nhà nước đã và
đang chấp nhận mở cửa những lĩnh vực vốn
dĩ luôn được xác định là đặc biệt quan trọng
của nền kinh tế như viễn thông, tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, hàng không... Bởi,
trước đây, những lĩnh vực này luôn được xác
định là vùng “an ninh quốc gia” đặc biệt quan
trọng. Tuy nhiên, dưới sự tác động của các
FTA, Việt Nam đã thay đổi cách thức quản lý
điều hành nền kinh tế để phù hợp với “luật
chơi” của quốc tế. Do đó, khác với các giai
17 Báo điện tử Hiệp hội ngân hàng (2019), Việt
Nam và các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, tlđd, ngày truy cập: 17/8/2020.
18 Tạp chí Tài chính (2016), Những tác động của hiệp
định thương mại tự do đối với kinh tế Việt Nam, nguồn
truy cập:
doi/trao-doi-binh-luan/nhung-tac-dong-cua-hiep-dinh-
thuong-mai-tu-do-doi-voi-kinh-te-viet-nam-104302.html
, truy cập: 15/8/2020.
đoạn phát triển kinh tế trước đây, chức năng
quản lý kinh tế đã liên tục có sự điều chỉnh để
phù hợp, thích ứng với tình hình và đòi hỏi
của các FTA thế hệ mới.
Riêng đối với lĩnh vực pháp luật, đây là
một trong các công cụ rất quan trọng của
Nhà nước để điều tiết mọi vấn đề xã hội và
trong đó có lĩnh vực kinh tế. Trong đó, dưới
sự tác động, ảnh hưởng và đòi hỏi từ các
FTA thế hệ mới, hệ thống pháp luật kinh tế
của Việt Nam cũng đã có rất nhiều thay đổi
quan trọng. Ngày càng có nhiều đạo luật
quan trọng được ban hành hoặc sửa đổi, bổ
sung trên cơ sở tiếp tục mở rộng và đề cao
quyền tự do kinh doanh. Điển hình như Luật
Chứng khoán năm 2019 ngày càng tạo dựng
thêm nhiều loại thị trường khác nhau để cho
các nhà đầu tư thuận tiện tham gia và có
thêm sự lựa chọn đầu tư; Luật Đầu tư năm
2014 tiếp tục mở rộng quyền hạn cho các nhà
đầu tư nước ngoài; các văn bản pháp luật về
thuế hiện hành như Luật Quản lý thuế, Luật
Thuế thu nhập cá nhân, Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp, Luật Thuế xuất khẩu và nhập
khẩu, Luật Thuế Giá trị gia tăng, Luật Thuế
tiêu thụ đặc biệt và Luật Hải quan ngày
càng theo hướng cắt giảm các thủ tục hành
chính phức tạp cho các nhà đầu tư kinh
doanh; hay Luật Doanh nghiệp năm 2020
vừa mới được Quốc hội thông qua, trong đó
luôn dành sự quan tâm rất lớn đến vấn đề mở
rộng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh cho
các nhà đầu tư Ngoài ra, các FTA thế hệ
mới còn có rất nhiều tác động đến hệ thống
pháp luật về các lĩnh vực như “môi trường,
lao động, sở hữu trí tuệ”.19 Bởi lẽ, kinh
doanh thương mại theo cam kết của các FTA
19 Nguyễn Trọng Điệp (2019), Tác động của các Hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới tới pháp luật thương mại Việt
Nam, nguồn truy cập:
trao-doi/tac-dong-cua-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-
he-moi-toi-phap-luat-thuong-mai-viet-nam-309172.html ,
ngày truy cập: 17/8/2020.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
7
đòi hỏi cần tạo điều kiện và cho phép nhà
đầu tư có sự chủ động, sáng tạo và linh hoạt
hơn so với các giai đoạn không tham gia các
FTA. Do đó, hệ thống pháp luật kinh tế của
Việt Nam phải luôn có sự điều chỉnh để kịp
thời phù hợp với các yêu cầu và đòi hỏi từ
các FTA.
Qua đó, có thể thấy rằng, các FTA đã tác
động rất lớn đến chức năng quản lý kinh tế
của Việt Nam. Sở dĩ như vậy là vì nếu so với
các cam kết quốc tế trước đây, sự tác động
của các FTA thế hệ mới có phạm vi ảnh
hưởng và tác động rộng hơn. Nội dung của
các FTA thế hệ mới thường vượt ra ngoài
cam kết về thương mại hay dịch vụ và cả một
phần liên quan đến hoạt động đầu tư. Ngoài
ra, các FTA thế hệ mới cũng thường đề cập
đến nhiều vấn đề về môi trường, việc làm,
lao động hay xóa bỏ sự độc quyền của các
doanh nghiệp nhà nước... Từ đó, việc tham
gia các FTA thế hệ mới sẽ giúp Việt Nam có
thêm các cơ hội để có thể cơ cấu lại hoạt
động xuất khẩu và nhập khẩu. Điều này có
thể giúp cán cân xuất khẩu, nhập khẩu của
Việt Nam trở nên ổn định, cân bằng và có thể
tránh sự phụ thuộc vào một thị trường (bởi
lẽ, từ thực tiễn trong nhiều năm qua cho thấy,
hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của Việt
Nam luôn phụ thuộc rất lớn vào Trung
Quốc). Nói cách khác, hoạt động thương mại
hai chiều giữa Việt Nam và các bên đối tác
sẽ gặp nhiều thuận lợi khi ký kết và thực hiện
các FTA thế hệ mới. Tuy nhiên, để đạt được
những thuận lợi này, đòi hỏi chức năng quản
lý kinh tế cần liên tục có sự điều chỉnh phù
hợp để nền kinh tế Việt Nam kịp thời đáp
ứng, thích nghi với các điều kiện của FTA
thế hệ mới.
Về những thành tựu kinh tế khi Việt Nam
tham gia các FTA, có thể nói, sau một số
năm tham gia các FTA, kinh tế Việt Nam đã
có sự chuyển biến quan trọng. “Việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật, chính sách đã góp
phần cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao
sức hấp dẫn của Việt Nam trong việc thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và
hưởng lợi từ sự tăng trưởng xuất khẩu đáng
kể từ FDI, đóng góp quan trọng vào GDP và
kim ngạch xuất khẩu (65%). Luồng kiều hối
chuyển về cũng ngày càng gia tăng... Tự do
hóa và hội nhập đã tác động tích cực tới tăng
trưởng kinh tế. Với kim ngạch xuất, nhập
khẩu gấp hơn 1,5 lần GDP trong những năm
gần đây, Việt Nam được xem là quốc gia có
nền kinh tế với “độ mở ” khá cao”.20
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt
được, các FTA cũng gây ra khá nhiều khó
khăn, thách thức cho kinh tế Việt Nam.
Nghiên cứu cho thấy, “một trong những
thách thức lớn nhất đối với Việt Nam khi gia
nhập Hiệp định EVFTA chính là phải nhanh
chóng cải thiện quy trình sản xuất và kiểm
định chất lượng trong một loạt ngành nghề để
đáp ứng những yêu cầu nghiêm ngặt về chất
lượng hàng hóa nhập khẩu”.21 Mặt khác,
“khi tham gia EVFTA, Việt Nam cũng vấp
phải những khó khăn trong việc đảm bảo quy
tắc xuất xứ của EVFTA để được hưởng mức
độ xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới 99,2% số
dòng thuế”.22 Ngoài ra, như đã nói, FTA thế
hệ mới tác động rất lớn đến hệ thống pháp
luật kinh tế của Việt Nam. Bởi lẽ, các FTA
luôn đặt ra yêu cầu hành lang pháp lý phải rõ
ràng, chi tiết và không chấp nhận những ưu
đãi riêng biệt đối với bất kỳ loại hình doanh
nghiệp nào. Thậm chí ngay đối với các doanh
nghiệp nhà nước, các FTA thế hệ mới cũng
20 Tạp chí Tài chính (2016), Những tác động của
hiệp định thương mại tự do đối với kinh tế Việt
Nam, sđd, truy cập: 15/8/2020.
21 Báo điện tử Hiệp hội ngân hàng (2019), Việt
Nam và các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, tlđd, ngày truy cập: 17/8/2020.
22 Nguyễn Trọng Điệp (2019), Tác động của các
Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới tới pháp
luật thương mại Việt Nam, tlđd, ngày truy cập:
17/8/2020.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
8
yêu cầu đòi hỏi phải có sự công khai, rõ ràng,
minh bạch và đối xử bình đẳng như với các
doanh nghiệp dân doanh. Nói cách khác, sẽ
không có sự phân biệt đối xử hay đối xử đặc
cách đối với bất kỳ loại hình doanh nghiệp
nào trong bối cảnh tham gia các FTA thế hệ
mới. Vì vậy, những doanh nghiệp non yếu
của Việt Nam rất dễ gục ngã khi không thể tự
đương đầu, cạnh tranh với các doanh nghiệp
lớn hoặc doanh nghiệp đến từ nước ngoài khi
không còn nhận được sự hỗ trợ, nâng đỡ của
Nhà nước.
Tóm lại, “Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế
nhờ vào việc đẩy mạnh mở cửa, hội nhập
kinh tế thế giới, tích cực tham gia mạng lưới
các FTA”.23 Hay có thể nói, dưới sự tác động
của các FTA, kinh tế Việt Nam không ngừng
phát triển. Tuy nhiên, cùng với những thuận
lợi, các FTA cũng mang lại rất nhiều khó
khăn, thách thức cho nền kinh tế của Việt
Nam.
4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện chức năng quản lý kinh tế trong
giai đoạn tham gia các FTA thế hệ mới
“Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng
bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực
của thị trường toàn cầu”24 đang là chủ trương
đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Nhà nước.
Chính vì vậy, “trong những năm qua, hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có
23 Lê Quang Thuận (2019), Các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới và tác động đối với nền kinh
tế Việt Nam, nguồn truy cập:
hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-va-tac-
dong-doi-voi-kinh-te-viet-nam-309171.html ,
ngày truy cập: 17/8/2020.
24 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng, Hà Nội, tr. 40.
bước phát triển mới cả về chiều rộng và
chiều sâu”.25 Bên cạnh đó, “việc tham gia
các FTA thế hệ mới của Việt Nam càng góp
phần nâng cao vị thế của đất nước”.26 Tuy
nhiên, như đã nói, “bên cạnh các tác động
tích cực, việc tham gia và thực thi các cam
kết của EVFTA và CPTPP cũng sẽ đặt kinh
tế Việt Nam trước nhiều thách thức. Những
thách thức lớn nhất xuất phát từ các vấn đề
nội tại của nền kinh tế Việt Nam như hạn chế
về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước; hệ thống các chính sách pháp
luật còn thiếu, yếu và chồng chéo cần sửa
đổi, bổ sung để đảm bảo thực hiện các cam
kết; hạn chế trong hiểu biết và nhận thức của
các doanh nghiệp và cộng đồng”.27 Do đó,
theo tác giả, để nền kinh tế của Việt Nam có
thể phát triển mạnh mẽ nhưng luôn ổn định
và bền vững lâu dài thì chức năng quản lý
kinh tế cần có các điều chỉnh như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật
kinh tế theo hướng phù hợp hơn với các FTA
thế hệ mới:
Khi tham gia các FTA đồng nghĩa chúng
ta phải chấp nhận “luật chơi” và “cách thức
chơi” chung với nhiều quốc gia khác. Tuy
vậy, trên thực tế, môi trường thương mại của
Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều
hạn chế, yếu kém. Điều này gây ảnh hưởng
lớn tới sự tự do hóa thương mại với bên
ngoài và mặt khác, chưa thực sự khuyến
khích cho sự phát triển của các nguồn lực
bên trong của Việt Nam. Ngoài ra, như đã
25 Báo điện tử Thông tấn xã Việt Nam (2020),
FTA thế hệ mới và cơ hội đối với Việt Nam, tlđd,
ngày truy cập: 17/8/2020.
26 Trung tâm WTO (2020), Tác động của các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới với kinh tế Việt
Nam, tlđd, ngày truy cập: 17/8/2020.
27 Báo điện tử Thông tấn xã Việt Nam (2020),
FTA thế hệ mới và cơ hội đối với Việt Nam, tlđd,
ngày truy cập: 17/8/2020.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
9
nói, pháp luật là một trong những công cụ rất
quan trọng để Nhà nước điều tiết và quản lý
môi trường thương mại. Tuy nhiên, hiện nay,
cần phải thừa nhận hệ thống pháp luật kinh tế
của Việt Nam vẫn chưa thật sự phù hợp với
các FTA thế hệ mới. Bởi lẽ, phần lớn các văn
bản pháp luật trong lĩnh vực kinh tế điển hình
như Luật Thương mại đã được ban hành từ
năm 2005 nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự
sửa đổi, bổ sung hoặc khá nhiều đạo luật rất
quan trọng khác như Luật Hợp tác xã năm
2012, Luật Phá năm 2014 cũng đã có hiệu
lực từ khá lâu và hiện nay, môi trường
thương mại trong giai đoạn tham gia các
FTA thế hệ mới đã có rất nhiều thay đổi. Do
đó, khá nhiều quy định trong các đạo luật
quan trọng này cần phải có sự cập nhật, bổ
sung để phù hợp và tương thích với tình hình,
hoàn cảnh của các FTA thế hệ mới. Từ đó,
tác giả cho rằng, về tổng thể, cần nhanh
chóng sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn
bản pháp luật trong lĩnh vực kinh tế và các
văn bản pháp luật liên quan theo đúng với lộ
trình đã quy định của các FTA thế hệ mới.
Mặt khác, cần khẩn trương rà soát, điều
chỉnh hoặc bãi bỏ các quy định không còn
phù hợp với các cam kết trong các FTA mà
Việt Nam tham gia. Cụ thể trong đó:
- Đối với Luật Thương mại năm 2005, các
quy định về “kinh doanh logistics”, “nhượng
quyền thương mại” hay “chế tài thương mại”
đều đã khá cũ nên chưa phù hợp với thực tiễn
giao lưu, buôn bán trong giai đoạn toàn cầu
hóa và thực hiện theo cam kết của các FTA.
Điều này là bởi, Luật Thương mại năm 2005
được xây dựng và ban hành từ rất lâu. Vậy
nên, hoàn cảnh kinh tế của Việt Nam trong
giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO và giai
đoạn tham gia hội nhập sâu rộng với các
FTA thế hệ mới đã thay đổi rất nhiều. Do đó,
Luật Thương mại năm 2005 cần nhanh chóng
có sự đổi mới, để ban hành những quy định
phù hợp với môi trường thương mại tại Việt
Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay.
- Đối với các văn bản pháp luật về thuế và
quản lý thuế cũng rất cần chú ý đến việc phải
có sự tương thích, phù hợp với các cam kết
của các FTA mà Việt Nam đã ký kết.
Mặc dù vậy, việc sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế cần
đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả và phải cố
gắng duy trì sự ổn định của môi trường đầu
tư, kinh doanh để không gây xáo trộn lớn
hoặc ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp đang hoạt động cũng như
các nhà đầu tư mới đến tham gia làm ăn, kinh
doanh tại Việt Nam.
Thứ hai, cần tạo thêm các điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
giai đoạn thực hiện các FTA thế hệ mới:
Mặc dù số lượng doanh nghiệp tại Việt
Nam hiện nay tương đối nhiều, thế nhưng,
trên thực tế, chủ yếu chỉ là các doanh nghiệp
với quy mô hoạt động vừa và nhỏ. Nghiên
cứu cho thấy: “doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm 95% tổng số doanh nghiệp ở Việt
Nam, được đánh giá là lực lượng năng động,
có đóng góp nhiều cho tăng trưởng GDP”.28
Hoặc theo Phòng thương mại và công nghiệp
Việt Nam (VCCI) thì: “càng ngày các doanh
nghiệp Việt càng trở nên li ti chứ không gọi
là siêu nhỏ nữa”.29 Hay nghiên cứu của Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương cho
thấy: “Nhiều nghiên cứu và thực tế đã chỉ ra
rằng chính các doanh nghiệp nhỏ và vừa là
một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển
và đổi mới kinh tế - xã hội Doanh nghiệp
nhỏ và vừa đã thực sự định nghĩa lại những
28 Đỗ Thị Kim Tiên (2013), Hoàn thiện hệ thống
pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng doanh
nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
số 9, tr. 42.
29 Báo điện tử Tuổi trẻ Online, Doanh nghiệp Việt
ngày càng li ti, truy cập ngày 16/8/2020 tại:
nghiep-viet-ngay-cang-li- ti/1130905.html.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
10
thị trường hoàn toàn mới, khởi đầu làn sóng
sáng tạo - đổi mới không chỉ cho quốc gia
mà cả thế giới”.30 Từ đó, có thể thấy rằng,
trong giai đoạn hiện tại và có thể trong tương
lai lâu dài, các mô hình kinh doanh nhỏ và
vừa vẫn sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ tại
Việt Nam. Bởi lẽ, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa có khá nhiều lợi thế và rất phù hợp với
môi trường thương mại của Việt Nam. Sở dĩ
như vậy là vì đã từng có nghiên cứu cho
rằng: “cơ sở để một loại hình doanh nghiệp
có thể phát triển tốt tại Việt Nam thì loại hình
doanh nghiệp đó phải thỏa mãn các điều kiện
như: (i) quy mô của doanh nghiệp không quá
lớn nhưng lại có thể dễ dàng mở rộng quy
mô trong dài hạn; (ii) Giữa các thành viên
của doanh nghiệp phải luôn tồn tại sự tin
tưởng lẫn nhau; (iii) Doanh nghiệp phải đảm
bảo sự an toàn về mặt pháp lý trước pháp
luật, tạo niềm tin cho các khách hàng và cơ
cấu tổ chức, quản trị điều hành không quá
phức tạp.”.31 Chính vì vậy, tác giả cho rằng,
Nhà nước cần có những chính sách thuận lợi
để tạo lợi thế phát triển cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Cụ thể những công việc cần tiến
hành như sau:
- Cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính
để giảm thiểu chi phí giao dịch cho doanh
nghiệp và cần nhanh chóng cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh để doanh nghiệp có
thể yên tâm hoạt động lâu dài. Không những
vậy, Nhà nước cần thực hiện việc rà soát và
sửa đổi các điều kiện kinh doanh hiện nay để
30 Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương,
Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam.
nguồn truy cập:
vn/Cac-loai-hinh-doanh-nghiep/Phat-trien-
Doanh-nghiep-nho-va-vua-o-Viet-Nam.html , truy
cập ngày 15/8/2020
31 Nguyễn Vinh Hưng (2015), Cần xây dựng loại
hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế Việt
Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 08, tr. 33.
tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động đầu tư, sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn đến
các vấn đề như tạo ra các gói cho vay với lãi
suất ưu đãi hoặc việc tạo các điều kiện thuận
lợi để cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa có
thể nhanh chóng, dễ dàng tiếp cận các nguồn
vốn vay. Mặt khác, cần tiếp tục đổi mới, cải
tiến các thủ tục cho vay hoặc vấn đề gia hạn
vốn vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
cũng cần có sự quan tâm hơn trước.
- Cần quan tâm đến vấn đề cải thiện cơ
chế giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại. Bởi lẽ, việc tham gia các FTA dẫn đến
nhiều mối giao lưu hợp tác giữa các doanh
nghiệp trong nước với nước ngoài và cùng
với đó, các mâu thuẫn, tranh chấp cũng sẽ
ngày càng nhiều hơn. Do vậy, cần có cơ chế
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
theo hướng nhanh chóng, đơn giản, hiệu quả,
để từ đó, tạo niềm tin cho các doanh nghiệp
có thể yên tâm hoạt động lâu dài.
Thiết nghĩ, có như vậy, các doanh nghiệp
nhỏ và vừa mới có thể tồn tại và phát triển
mạnh mẽ trong giai đoạn Việt Nam tham gia
sâu rộng các FTA thế hệ mới.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Tuấn Anh (2020), Cơ hội của Việt Nam trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nguồn
truy cập: https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/co-hoi-cua-viet-nam-trong-cac-hiep-dinh-thuong-
mai-tu-do-the-he-moi/435860.html, ngày 17/8/2020.
Bộ Tài chính (2019), hợp tác quốc tế\hội nhập và hợp tác tài chính\FTA, nguồn:
truy cập ngày 17/8/2020.
Báo điện tử Công thương (2019), Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản: nhiều cơ hội cho hàng
Việt, nguồn: https://congthuong.vn/hiep-dinh-doi-tac-kinh-te-viet-nam-nhat-ban-nhieu-co-hoi-cho-
hang-viet-54721.html, ngày truy cập: 17/8/2020.
Báo điện tử Diễn đàn Doanh nghiệp (2019), Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: cơ hội và thách
thức của nền kinh tế Việt Nam, nguồn truy cập:
the-he-moi-co-hoi-va-thach-thuc-cua-nen-kinh-te-viet-nam-90312.html, ngày truy cập 17/8/2020.
Báo điện tử Đầu tư tài chính Sài Gòn giải phóng (2018), Đón cơ hội FTA Việt Nam - Chi lê, nguồn truy
cập
ngày truy cập 17/8/2020.
Báo điện tử Đầu tư tài chính Sài gòn giải phóng (2018), Việt Nam chính thức tham gia CPTPP từ hôm
nay 12-11, nguồn truy cập:
nay-1211-558553.html, truy cập ngày 17/8/2020.
Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam (VOV), Hiệp định EVFTA - Động lực thúc đẩy dòng vốn FDI từ EU
vào Việt Nam, nguồn: https://vov.vn/kinh-te/hiep-dinh-evfta-dong-luc-thuc-day-dong-von-fdi-tu-eu-
vao-viet-nam-828743.vov, truy cập ngày 17/8/2020.
Báo điện tử Hiệp hội ngân hàng (2019), Việt Nam và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nguồn
truy cập: https://www.vnba.org.vn/index.php?option=com_k2&view=item&id=10959:viet-nam-va-
cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi&lang=vi, ngày truy cập: 17/8/2020.
Báo điện tử Thông tấn xã Việt Nam (2020), FTA thế hệ mới và cơ hội đối với Việt Nam, nguồn truy cập:
https://bnews.vn/fta-the-he-moi-va-co-hoi-doi-voi-viet-nam/146111.html, ngày truy cập: 17/8/2020.
Báo điện tử Tuổi trẻ Online, Doanh nghiệp Việt ngày càng li ti, truy cập ngày 16/8/2020 tại
ti/1130905.html.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Nguyễn Trọng Điệp (2019), Tác động của các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới tới pháp luật
thương mại Việt Nam, nguồn truy cập:
cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-toi-phap-luat-thuong-mai-viet-nam-309172.html, ngày
truy cập: 17/8/2020.
Nguyễn Vinh Hưng (2015), Cần xây dựng loại hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế Việt Nam,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 08.
Bùi Thanh Sơn (2020), Triển khai các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong giai đoạn hội nhập kinh
tế quốc tế sâu rộng và toàn diện, nguồn truy cập:
te/-/2018/815809/trien-khai-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-trong-giai-doan-hoi-nhap-
kinh-te-quoc-te-sau-rong-va-toan-dien.aspx#, ngày truy cập: 17/8/2020.
Tạp chí Tài chính (2016), Những tác động của hiệp định thương mại tự do đối với kinh tế Việt Nam,
nguồn truy cập:
cua-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-doi-voi-kinh-te-viet-nam-104302.html, truy cập: 15/8/2020.
Đỗ Thị Kim Tiên (2013), Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng doanh nghiệp ở Việt
Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
12
Lê Quang Thuận (2019), Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với nền kinh tế Việt
Nam, nguồn truy cập:
do-the-he-moi-va-tac-dong-doi-voi-kinh-te-viet-nam-309171.html, ngày truy cập: 17/8/2020.
Phạm Quang Vinh (2011), Giáo trình Kinh tế học Vĩ mô, Trường Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Lê Danh Vĩnh (2009), Hoàn thiện thể chế về môi trường kinh doanh của Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia.
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương, Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. nguồn
truy cập:
va-vua-o-Viet-Nam.html, truy cập ngày 15/8/2020
Trung tâm WTO (2020), Tác động của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với kinh tế Việt Nam,
nguồn truy cập:
do-the-he-moi-voi-kinh-te-viet-nam, ngày truy cập: 17/8/2020.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_giai_phap_nang_cao_hieu_qua_thuc_hien_chuc_nang_quan.pdf