Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá ở công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang

Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. + Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. + Phát triển doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu của hội nhập của khu vực và thế giới, tiến tới trở thành đơn vị kinh tế mạnh kinh doanh trong lĩnh vực chế biến tiêu thụ nông sản phẩm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn

doc89 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1206 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá ở công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở các DNNN thì sao quá trình CPH vẫn diễn ra chậm mặc dù CPH đã trở thành mệnh lệnh, chỉ tiêu bắt buộc. Như vậy, là chính sách ưu đãi với người lao động trong các doanh nghiệp CPH là chưa rõ chưa xét đến tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp. Việc bán cổ phần ưu đãi cho người lao động chưa phù hợp với thực tế, bởi lẽ người lao động muốn mua được cổ phiếu phải bỏ ra một khoản tiền nhất định điều này vượt quá khả năng tài chính của nhiều người. Việc quy định mức ưu đãi theo kiểu bình quân chủ nghĩa như hiện nay là chưa phù hợp, chưa công bằng. Còn chính sách ưu đãi dành cho doanh nghiệp CPH thì sao: các văn bản đã ban hành rất rõ ràng là không có sự phân biệt đối xử giữa DNNN và CTCP nhưng thực tế thì lại khác các DNNN vẫn được ưu ái hơn. Đơn cử như trong việc vay vốn ngân hàng Thương mại, các Công ty tài chính, các Tổ chức tín dụng khác. Các văn bản do Chính phủ ban hành đã quy định rất rõ là các CTCP được vay vốn theo cơ chế và lãi suất như DNNN. Thực tế liệu các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng có dễ dãi với các CTCP như vậy không, chắc chắn là không. Nếu như DNNN làm ăn thua lỗ không có khả năng chi trả ngân hàng thì còn có Nhà nước đứng ra trả thay còn nếu các CTCP làm ăn thua lỗ thì ai trả thay? Chính vì vậy mà các CTCP hiện nay đi vay vốn vẫn phải có tài sản thế chấp, không được ưu đãi về lãi suất như các DNNN. Nhà nước phải sớm có biện pháp giải quyết vấn đề này, phải tạo ra môi trường, sân chơi thực sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp có như vậy CTCP mới có thể phát huy hết lợi thế của mình. Các ưu đãi cho doanh nghiệp như hiện nay chưa thực sự đủ liều để các doanh nghiệp tự nguyện chuyển thành CTCP. - Vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp còn nhiều bất cập Mặc dù các văn bản đã ban hành đã quy định rất rõ giá trị doanh nghiệp là giá thị trường để đảm bảo lợi ích của cả doanh nghiệp và Nhà nước theo đó có rất nhiều các cách để xác định giá trị doanh nghiệp nhưng thực tế xung quanh vấn đề này còn nhiều điểm chưa hợp lí kể cả phía Nhà nước lẫn phía phải doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp vẫn theo chủ quan không theo thị trường: Trong các văn bản hướng dân CPH, các phương pháp định giá được đề cập khá nhiều và chi tiết. Nhưng có một vấn đề nảy sinh là chưa xác định rõ ai là người định giá chủ sở hữu đích thực hay người đại diện, người bán hay người mua? Quá trình định giá mang tính chủ quan hay khách quan. Người mua luôn muốn mua giá thấp vì vậy việc định giá doanh nghiệp thấp hơn giá thị trường làm thất thoát tài sản cho Nhà nước. Điều này rất dễ nhận thấy khi đa số các doanh nghiệp CPH không có cổ đông ngoài tham gia. Trị giá cổ phần là 100.000 nhưng khi được niên yết trên thị trường chứng khoán thì giá của nó đã tăng gấp từ 1,5 – 2 lần. Vì vậy cần có những biện pháp làm sáng tỏ vấn đề này để làm giảm thất thoát tài sản của Nhà nước. Việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH gặp nhiều khó khăn liên quan đến việc xác định giá trị còn lại của tài sản, xử lí công nợ, xử lí tài sản không phù hợp với phương hướng sản xuất kinh doanh của CTCP, xử lí hàng hoá khó tiêu thụ… Trong quá trình định giá thường nảy sinh sự khác biệt ý kiến giữa doanh nghiệp với Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp. Đồng thời việc xác định những tồn động mà CTCP kế thừa cũng gặp nhiều khó khăn. Cơ quan tài chính muốn CTCP kế thừa toàn bộ những tồn đọng tài chính chưa giải quyết được trong quá trình CPH trong khi CTCP chỉ muốn kế thừa một số vấn đề có chọn lọc không ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh chẳng hạn như giá trị tài sản xây dựng cơ bản dở dang. Những vướng mắt trên thường dẫn đến hậu quả là kéo dài thời gian xác định giá trị doanh nghiệp cũng như quá trình CPH doanh nghiệp. Theo quy định của Nghị định 64/2002/NĐ-CP, giá trị doanh nghiệp là giá trị thực tế theo thị trường tức là bao gồm cả yếu tố vô hình như uy tín, lợi thế, thương hiệu..của doanh nghiệp. Nhưng các yếu tố này rất khó mà có thể định giá chính xác được nên tình trạng không thống nhất về quan điểm của doanh nghiệp và cơ quan định giá thường xuyên xẩy ra. Việc quy định có nhiều cơ quan có chức năng định giá doanh nghiệp cũng là dào cản trong việc đẩy nhanh tiến độ CPH. Nên chăng Nhà nước chỉ cho công ty kiểm toán là cơ quan duy nhất có chức năng định giá. Như vậy việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ khách quan hơn, nhanh chóng hơn. - Còn có sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và CTCP Bảng 6: So sánh lợi thế và bất lợi thế giữa DNNN và doanh nghiệp CPH Tiêu chí so sánh Doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp cổ phần hoá Vốn - Vốn do Nhà nước cấp, lãi DNNN được chia, lỗ Nhà nước chịu, được Nhà nước bảo hiểm rủi ro - Người lao động phải bỏ tiền ra góp vốn và tự chịu rủi ro, tự bảo hiểm - DNNN chưa cổ phần hoá được tiếp tục cấp bổ sung vốn từ ngân sách hoặc vay ưu đãi - Khi có quyết định cổ phần hoá Nhà nước ngừng cấp vốn nhất là vốn lưu động - Tiền thu từ bán cổ phiếu của doanh nghiệp CPH được đầu tư cho DNNN - Tiền thu từ bán cổ phiếu phải nộp vào tài khoản tập trung Vay ngân hàng thương mại Nhà nước - Không phải thế chấp tài sản -Phải thế chấp tài sản Chế độ kế toán - Công khai tài chính có mức độ - Hoàn toàn phải công khai Cán bộ quản lí doanh nghiệp - Được Nhà nước bổ nhiệm thành viên chức Nhà nước không hạn định về thời gian - Phải thông qua Đại hội đồng cổ đông bầu cử có hạn định theo nhiệm kì Người lao động - Được đảm bảo việc làm, khó cho thôi việc - Không yên tâm làm việc, dễ cho thôi việc, khi doanh nghiệp bị phá sản không chỉ mất việc làm mà còn mất cả vốn Biên pháp xử lí nợ - DNNN được khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ, sát nhập, hợp nhất, ít khi bị áp dụng Luật phá sản Bị xiết nợ, áp dụng Luật phá sản Mục đích hoạt động kinh doanh, động lực phát triển - Mục đích kinh doanh vừa mang tính chất kinh tế vừa mang tính chất xã hội nên khó thống nhất. Mục đích kinh doanh rõ ràng nhằm tối đa hoá lơi nhuận - Có sự khác biệt lợi ích giữa chủ sở hữu, người quản lí, điều hành và người lao động, nên động lực kinh doanh không rõ và khó thống nhất. Lợi ích cá nhân thống nhất với lợi ích doanh nghiệp trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt độnh kinh doanh - Thiếu động lực phát triển do ít bị thúc ép bởi nguy cơ phá sản và vẫn còn sự ưu ái của Nhà nước - Động lực phát triển: sức ép cạnh tranh, nguy cơ phá sản buộc phải giảm giá thành đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm. Quan hệ tổ chức và quản lí doanh nghiệp - Bộ máy quản lí doanh nghiệp cồng kềnh vì phải có bộ phận giám sát tài sản công nếu không sẽ bị thất thoát. - Bộ máy đơn giản, gọn nhẹ, dễ thích ứng với cơ chế thị trường. - Quản lí thông qua người đại diện, có thời hạn, nên rễ nảy sinh tâm lí không yên tâm, không theo đuổi mục tiêu phát triển dài hạn của doanh nghiệp - Chủ sở hữu quản lí trực tiếp hoặc thuê người khác quản lí. Chủ doanh nghiệp có thể làm quản lí suốt đời, nên họ yên tâm gắn bó với nghề quản lí. Quan hệ kinh doanh - Là đối tác chính trong hợp tác đầu tư nước ngoài - Hạn chế tiếp xúc, hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài - Cơ chế quản lí nhà nước chủ động chọn DNNN để kí hợp đồng, tạo ưu thế cho DNNN - Thường làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn. - Được cung cấp thông tin, tư vấn định hướng đầu tư, tổ chức quản lí - Thiếu thông tin, không được tư vấn, định hướng đầu tư, tổ chức quản lí - Ngân hàng cho vay với lãi suất ưu đãi hơn - Vay ngân hàng với lãi suất Thương mại - Thuế nộp theo luật thếu nên phải nộp nghiêm chỉnh hơn - Thuế khoán nên ít hơn và dễ chốn thuế hơn + Vướng mắc từ phía doanh nghiệp - Nhận thức chưa đúng về chủ trương CPH DNNN của đội ngũ lãnh đạo và cán bộ trong công ty Công ty TPXK Bắc Giang nằm trong danh sách các DNNN phải CPH của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn từ năm 2000 nhưng phải đến tận đầu năm 2004 thì quá trình CPH mới triển khai được. Có nhiều nguyên nhân làm chậm quá trình triển khai việc CPH trong đó không thể không kể đến sự nhận thức chưa đúng, đầy đủ ý nghĩa của CPH của một bộ phận cán bộ tạo Công ty TPXK Bắc Giang. Tâm lí của phần lớn các cấn bộ lãnh đạo doanh nghiệp là thích làm việc cho DNNN, thích suốt đời làm công chức. Họ sợ khi chuyển thành CTCP thì quyền lợi cả về vật chất và tinh thần sẽ không còn được như trước. Điều này cũng rễ hiểu khi còn làm cho DNNN thì cán bộ lãnh đạo có quyền lực rất lớn. Họ là người quyết định gần như toàn mọi vấn đề của công ty. Còn khi làm việc cho CTCP họ chỉ là người làm thuê. Quyền lợi lớn trong khi trách nhiệm đối với Công ty và với Nhà nước lại rất ít cộng thêm với làm việc cho DNNN thì còn ỷ lại trông chờ vào người khác được. Tất cả những yếu tố này đủ để giải thích tại sao cán bộ trong Công ty không hào hứng lắm trong việc CPH Công ty. Việc đội ngũ cán bộ lãnh đạo chưa muốn CPH chắc chắn sẽ làm chậm việc CPH khi họ chính là đầu tầu là cầu nối trong việc tuyên truyền chủ trương chính sách CPH của Đảng và Nhà nước đến người lao động. Những người vốn quen với nếp sống dựa vào cơ chế bao cấp, không muốn xáo trộn công ăn việc làm. - Tiềm lực của công ty còn yếu Quá trình CPH diễn ra nhanh hay chậm một phần cũng phụ thuộc vào khả năng phát triển của công ty trong tương lai. Căn cứ quan trọng nhất để nhà đầu tư quyết định bỏ vốn vào một CTCP chính là khả năng sinh lời của vốn đầu tư trong tương lai. Một nhà đâu tư sẵn sàng trả giá cao để mua cổ phần của một công ty có triển vọng hơn là mua cổ phần với giá thấp ở một công ty mà tương lai chưa ai dám chắc. Mà khả năng sinh lời trong tương lai lại phụ thuộc vào tiềm lực hiện tại của công ty, kết quả kinh doanh trong những năm gần đây. Tiềm lực về vốn, thiết bị công nghệ, thị trường đầu ra, đầu vào, lao động của Công ty thực phẩm Bắc Giang hiện nay còn yếu và chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định thêm vào đó là kinh doanh trong nông nghiệp thường lắm rủi ro. Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây tuy có bước chuyển biến làm ăn bắt đầu có lãi song nhìn chung doanh thu và lợi nhuận còn rất nhỏ. Nếu hoạch cả thuế sử dụng vốn, thuế đất và các nghĩa vụ khác với Nhà nước thì chưa chắc đã có lãi thực sự. Những nhân tố này chưa thể làm yên tâm các nhà đầu tư trong việc bỏ vốn ra mua cổ phần của Công ty. Khả năng bán cổ phiếu chậm đồng nghĩa với không thể đẩy nhanh việc CPH lên được. - Nhiều cán bộ công nhân viên không có khả năng mua cổ phiếu Mục tiêu chính của CPH là huy động vốn của toàn xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh trong đó đặc biệt là huy động nguồn vốn của cán bộ công nhân viên trong công ty. Việc huy động vốn của cán bộ công nhân trong công ty nhằm mục đích: đưa người lao động lên làm chủ, tăng mức thu nhập cho người lao động vì ngoài tiền lương còn có cổ tức, thể hiện sự ưu đãi cho người lao động. Nhưng hiện tại việc huy động vốn của cán bộ công nhân viên trong Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang gặp nhiều khó khăn. Do mức thu nhập hiện tại của của người lao động trong công ty còn thấp bình quân 550.000-600.000đ/tháng. Mức thu nhập này chỉ đủ trang trải cho cuộc sống tối thiểu của bản thân người lao động. Như vậy người lao động là sao có tích luỹ, có tiền để mua cổ phần khi Nhà nước đòi hỏi người lao động muốn mua cổ phiếu thì cũng phải bỏ ra một khoản tiền. Như vậy nếu người lao động không mua được cổ phiếu thì mục tiêu cổ phần không đạt được. Nếu như người lao động không có cổ phần trong công ty thì một điều chắc chắn là họ không muốn CPH họ muốn là cho DNNN vì có nhiều chế độ hơn. - Số lao động dư thừa chưa có phương án giải quyết hợp lí Một trong các vấn đề khó cho Công ty khi thực hiện CPH là phương án sắp xếp và giải quyết việc làm cho lao động hiện có tại Công ty. Muốn CPH nhanh thì phải có tác động tích cực đến người lao động tức là ngoài những lợi ích do chính sách cổ phần mang lại họ cũng cần phải có một vị trí chính thức trong CTCP. Nhưng chuyển sang CTCP là thoát khỏi sự bao cấp của Nhà nước là phải làm ăn theo cơ chế thị trường lời ăn lỗ chịu. Vì vậy không thể tồn tại trong Công ty những phần tử “ăn không ngồi rồi” trong bộ máy quản lí của doanh nghiệp. Chuyển sang CTCP là phải triệt để tinh giảm bộ máy quản lí, chỉ giữ lại những người có đủ năng lực, những bộ phận cần thiết. Việc sắp xếp việc làm cho người ở lại đó khó khăn nhưng giải quyết số lao động dôi dư còn khó hơn nhiều. Số lao động dôi dư của công ty khi chuyển thành CTCP là cán bộ phòng ban có thâm niên công tác và có địa vị trong Công ty nên việc xử lí gặp rất nhiều khó khăn khi họ chưa đủ tuổi về hưu, năng lực trình độ có hạn gây khó khăn cho tìm công việc mới, chuyển sang lĩnh vực khác thì không khả khi do họ không còn trẻ nên ngại học hành. Nếu không có phương án xử lí mền dẻo thì thật khó khăn cho việc CPH khi những người này có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả CPH của công ty. Chương III Một số giải pháp thúc đẩy CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang I. Quan điểm, phương hướng mục tiêu CPH của công ty 1. Quan điểm của công ty + CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang được dựa trên chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về sắp xếp và đổi mới hoạt động của các DNNN + CPH là con đường tất yếu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường + CPH ở Công ty là chuyển từ sở hữu của Nhà nước (đơn sở hữu) sang sở hữu tập thể (đa sở hữu). CPH ở Công ty không phải là tư nhân hoá + Lấy hiệu quả kinh tế xã hội là thước đo cho hiệu quả của công tác CPH. Bên cạnh các mục tiêu giảm gánh nặng cho ngân sách, tăng lợi nhuận, tăng thu nhập cho người lao động còn có các mục tiêu khác như nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước, tạo ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động trong nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 2. Phương hướng và mục tiêu CPH của công ty 2.1. Phương hướng CPH của công ty + Nhiệm vụ trước mắt là nhanh chóng hoàn thiện công tác CPH + Giải quyết các vấn đề nảy sinh hậu CPH + Tổ chức thành công Đại hội đồng cổ đông vào quý I năm 2005 + Tổ chức thực hiện sản xuất kinh doanh theo phương án của CTCP 2.2. Mục tiêu CPH ở công ty Đại hội Đảng lần thứ VII đã xác định “triển khai tích cực vững chắc việc CPH DNNN để huy động vốn, tạo thêm động lực để thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng thêm, là sự kết hợp giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế của nhân dân để phát triển đất nước chứ không phải là tư nhân hoá. Bên cạnh những DNNN 100% vốn sẽ có nhiều DNNN nắm đa số hay cổ phần chi phối, gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp và cho các tổ chức cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ từng trường hợp cụ thể. Vốn huy động phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Mục tiêu CPH của Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang + Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. + Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. + Phát triển doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu của hội nhập của khu vực và thế giới, tiến tới trở thành đơn vị kinh tế mạnh kinh doanh trong lĩnh vực chế biến tiêu thụ nông sản phẩm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn II. Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy cổ phần hoá ở Công ty Thực Phẩm xuất khẩu Bắc Giang 1. Nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ công nhân viên trong công ty về chủ trương chính sách CPH CPH là một yếu tố khách quan nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. CPH tạo sức mạnh cho kinh tế Nhà nước trong việc hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới. Tuy vậy cho đến nay vẫn phải thừa nhận việc nhận thức rõ và đầy đủ CPH và loại hình CTCP vẫn còn là vấn đề mới mẻ. Chính vì vậy mặc dù đã trải qua hơn 10 năm thực hiện việc chuyển DNNN thành CTCP, trải qua giai đoạn triển khai và mở rộng CPH nhưng cho đến nay có thể nhận định chủ trương CPH vẫn chưa được nhận thức thông suốt từ Trung ương đến các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp luôn xảy ra tình trạng ngại chuyển sang hình thức CTCP của cán bộ công nhân viên đang làm việc tại công ty. Bởi vì việc duy trì DNNN mang lại cho người đang làm việc tại đó quá nhiều quyền lợi, suốt đời là hợp đồng hoặc biên chế; sự ổn định và cách thức quản lí có tính tình cảm của mọi cấp điều hành và rất nhiều quyền lợi khác không thể có hình thức tự chịu trách nhiệm kinh doanh như tại CTCP. Khi bản thân những người trong cuộc không muốn thì dù có đưa ra nhiều biện pháp thúc đẩy, nhiều hứa hẹn ưu đãi thì sự chậm trễ vẫn cứ xảy ra. Thực tế diễn ra đúng như vậy. Hiện nay còn rất nhiều ý kiến trái ngược nhau trong việc CPH DNNN. Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không muốn CPH hoặc chần chừ trong việc CPH. Vì vậy để đẩy nhanh tiến trình CPH nói chung và ở Công ty TPXK Bắc Giang nói riêng là phải nâng cao nhận thức về chủ trương CPH DNNN cho toàn thể cán bộ lãnh đạo và công nhân trong doanh nghiệp. Để thực hiện tốt công tác này bên cạnh việc Nhà nước phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục và giải thích thì Ban quản lí đổi mới tại doanh nghiệp cũng cần có nhiều biện pháp tuyên truyền sáng tạo rễ hiểu cho người lao động. Việc tuyên truyền phải biết tập trung vào tâm lí của người lao động mà người lao động rất quan tâm đến quyền và nghĩa vụ của họ ở CTCP, vấn đề mua bán và chuyển nhượng cổ phần. Phải có phương thức truyền đạt rễ nhớ rễ hiểu có thể trước khi CPH các doanh nghiệp nên mở một cuộc thi tìm hiểu về chủ trương chính sách của đảng và Nhà nước về CPH DNNN trong toàn thể cán bộ công nhân viên. Qua quá trình nghiên cứu CPH DNNN và CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang thì việc tuyên truyền nên nhằm vào một số luận điểm sau: + Vị trí và vai trò của kinh tế Nhà nước + Thực trạng kinh tế Nhà nước hiện nay + Những vấn đề liên quan đến CTCP và những ưu điểm của CTCP so với các loại hình công ty khác + Quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong CTCP Nếu có điều kiện doanh nghiệp nên mời các chuyên gia có uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh vực CPH đến giảng dạy cho cán bộ công nhân viên giải đáp mọi thắc mắc. Giải quyết tốt công tác tư tưởng hiện nay là rất cần thiết để khắc phục tình trạng chậm trễ trong việc CPH hiện nay. Bên cạnh việc tuyên truyên cũng cần có nhiều chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp và người lao động trong CPH bằng hình thức vật chất chứ chỉ nói thì chưa đủ. 2. Lành mạnh hoá vấn đề tài chính trước khi thực hiện CPH Thực chất của CPH là chuyển đổi một phần tài sản Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và các cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ngoài doanh nghiệp nhằm huy động vốn của toàn xã hội cho phát triển kinh tế. Một trong các vấn đề khó và chiếm rất nhiều thời gian trong quá trình CPH là công tác xác định giá trị các tài sản Nhà nước đem bán. Công việc này không rễ ràng vì các DNNN hiện nay chưa tuân thủ hoàn toàn theo các quy định của Nhà nước về chế độ hoạch toán kế toán vì vậy việc xác định giá trị doanh nghiệp căn cứ vào sổ sách kế toán xem ra rất khó khăn trong khi các căn cứ khác phần nhiều mang tính chủ quan. Chính vì vậy cần phải có giải pháp tháo gỡ những khó khăn về tài chính cho doanh nghiệp trước khi thực hiện CPH. 2.1. Công khai hoá những vấn đề tài chính Công khai hoá tài chính tức là thông báo cho các nhà đầu tư những thông tin quan trọng về tình hình tài chính để các nhà đầu tư quan tâm xem xét đánh giá và đưa ra quyết định liệu có nên đầu tư vào doanh nghiệp, liệu đầu tư vào doanh nghiệp có lợi hơn các cơ hội đầu tư khác không. Việc công khai thông tin tài chính của công ty cũng đảm bảo tính công bằng trong mua bán cổ phần, bảo vệ nhà đầu tư và hình thành giá cổ phiếu. Hiện nay đa số các doanh nghiệp cũng như tại Công ty TPXK Bắc Giang chưa thực hiện việc công khai hoá thông tin tài chính hoặc có công khai nhưng còn hạn chế dẫn đến thường xuyên xác định giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá thực tế là trở ngại lớn cho việc huy động vốn của các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp và làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Về mặt tài chính, công khai hoá thông tin tài chính bao gồm thông tin về cơ cấu vốn, cơ cấu tài sản, hiệu quả kinh doanh, kết quả thu nhập và phân phối thu nhập, dự đoán xu thế vận động của các chi tiêu trong tương lai. Để thực hiện điều này về phía Nhà nước phải đưa ra các quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải công khai tài chính gồm nội dung công khai, hình thức công khai, thời gian công khai và các chế tài xử lí nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp vi phạm; về phía doanh nghiệp phải tuyết đối tuân thủ các quy định của Nhà nước, số liệu công khai phải được cơ quan kiểm toán công nhận. Các doanh nghiệp phải nhận thấy công khai hoá tài chính doanh nghiệp là tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi thực hiện CPH. Bên cạnh đó nên hình thành tạp chí về CPH thuộc Bộ Tài chính. Tạp chí là nơi phản ánh đầy đủ nhất về hoạt động các doanh nghiệp trong việc chuẩn bị cho quá trình CPH cũng như những thông tin chi tiết về tình hình tài chính của doanh nghiệp, là diễn đàn trao đổi kinh doanh và quảng bá kiến thức CPH tới mọi đối tượng quan tâm. 2.2. Cơ cấu lại nợ của doanh nghiệp Công nợ của các DNNN hiện nay rất lớn làm cản trở tiến trình CPH, số nợ của các DNNN hiện nay không ngừng tăng lên. Ước tính các DNNN hiện nay nợ khoảng gần 80 nghìn tỷ đồng chưa kể nợ các ngân hàng Thương mại, riêng Công ty TPXK Bắc Giang số dư nợ lên tới hơn 20 tỷ đồng. Nếu công nợ không được giải quyết được thì không một nhà đầu tư nào lại muốn “ thừa kế” các khoản nợ của doanh nghiệp. Còn nếu dùng giải pháp trừ vào giá trị DNNN thì sẽ làm thiệt hại cho Nhà nước vì trong cơ cấu nợ đó có có nợ do nguyên nhân chủ quan và nợ do nguyên nhân khách quan. Như vậy là cần phải phân loại các khoản nợ của doanh nghiệp để có các biện pháp xử lí. 2.2.1. Đối với các khoản nợ phải thu khó đòi: Do nguyên nhân khách quan: doanh nghiệp phải có đầy đủ giấy từ chứng minh rằng số nợ đó không còn khả năng thu hồi do con nợ đã bị giải thể, bị phá sản, con nợ đã bỏ chốn…đối với các khoản nợ này doanh nghiệp được phép dùng quỹ dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi để bù đắp, nếu không đủ thì dùng lợi nhuận trước thuế để bù đắp hoặc giảm giá trị doanh nghiệp trước khi CPH. Các doanh nghiệp sau khi CPH vẫn có trách nhiệm theo dõi và thu hồi các khoản nợ này nộp về quỹ hỗ trợ CPH DNNN. Đối với các khoản nợ do nguyên nhân chủ quan: doanh nghiệp phải xác định được trách nhiệm bồi thường thuộc về cá nhân, tổ chức nào, mức độ bồi thường là bao nhiêu. Nếu như phần bồi thường của cá nhân tổ chức không đủ thì số còn lại được xử lí như nợ khó đòi do nguyên nhân khách quan. 2.2.2. Nợ ngân sách Nhà nước Doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán toàn bộ số nợ đọng ngân sách Nhà nước trước khi tiến hành CPH Nếu DNNN hoạt động có hiệu quả nhưng khó khăn trong vấn đề tài chính do đầu tư quá lớn vào tài sản cố định thì doanh nghiệp có trách nhiệm lập phương án trả nợ, phải huy động hết các nguồn vốn hiện có (qũy đầu tư phát triển, nguồn vốn khấu hao, thu hồi công nợ…) để bù đắp các khoản chiếm dụng của ngân sách Nhà nước. Trong trường hợp nếu đã huy động hết mà vẫn không đủ để thanh toán hết nợ thì phải báo cáo nên cấp trên có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh làm ăn thua lỗ không còn khả năng thanh toán nợ thì phải báo cho cơ quan có thẩm quyền xem xét cho giãn nợ, xoá nợ. 2.2.3. Đối với các khoản nợ ngân hàng thương mại Doanh nghiệp có thể thoả thuận với các ngân hàng thương mại để được giãn nợ, khoanh nợ, giảm lãi suất hoặc chuyển số nợ thành cổ phần của công ty. 2.3. Tiến hành thị trường hoá các khoản nợ Chúng ta đang trong tình trạng công nợ “lòng vòng” vì công cụ thương phiếu và hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu chưa phát triển. Vì vậy phải tiến hành pháp chế hoá chi tiết và hướng dẫn cho các doanh nghiệp sử dụng các công cụ thương phiếu để họ thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính và lành mạnh về tài chính khi CTCP đi vào hoạt động. Bên cạnh đó việc hình thành các công ty mua bán nợ là giải pháp quan trọng để xử lí triệt để các khoản công nợ. Thực tế CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang cho thấy việc thu và trả nợ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy khi có công ty mua bán nợ đứng ra làm trung gian mua lại những khoản nợ phải thu còn dây dưa của doanh nghiệp rồi tìm cách thu xếp thanh toán với các con nợ (là doanh nghiệp có nợ phải trả). Việc làm như vậy vừa có lợi cho doanh nghiệp vừa có lợi cho công ty mua bán nợ bởi vì doanh nghiệp sẽ không phải mất thời gian đi thu các khoản nợ tập trung vào giải quyết các vấn đề khác còn các công ty mua bán nợ sẽ có khoản thu nhập từ phần trăm số nợ thu hồi được của các doanh nghiệp bán nợ. 3. Xác định đúng giá trị doanh nghiệp khi CPH Xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay là khâu khó khăn và chiếm nhiều thời gian nhất trong thực hiện CPH. Thực tế cho thấy thời gian xác định giá trị doanh nghiệp ở Công ty TPXK Bắc Giang chiếm hơn nửa trong toàn bộ quá trình CPH. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao để xác định đúng giá trị doanh nghiệp trong thời gian ngắn nhất để đảm bảo lợi ích cho cả Nhà nước (người bán) và các nhà đầu tư (người mua). Việc xác định đúng giá trị doanh nghiệp đồng nghĩa với việc xác định đúng giá trị cổ phần tức là mở đường cho sự hoạt động của thị trường chứng khoán. Theo điều 15,16,17 của Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ban hành ngày 19/6/2002 “về chuyển DNNN thành CTCP” quy định “giá trị thực tế của doanh nghiệp là toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm CPH có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua và người bán đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải trả và số dư Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi”. Các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp: + Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm CPH + Số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại tài sản thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm CPH + Tính năng kĩ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá cả thị trường tại thời điểm thực hiện CPH + Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lí, uy tín của doanh nghiệp, tính chất độc quyền về sản phẩm, về mẫu mã, thương hiệu nếu có. + Khả năng sinh lời của doanh nghiệp xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Việc xác định tài sản căn cứ vào khả năng đảm bảo an toàn trong vận hành và sử dụng tài sản; đảm bảo chất lượng sản phẩm và môi trường. Giá trị quyền sử dụng đất vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giao đất theo quy định hiện hành. Giá trị lợi thế kinh doanh được xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế thu nhập của doanh nghiệp trên vốn Nhà nước tại doanh nghiệp bình quân ba năm liền kề trước khi cổ phần hóa so với lãi suất của vốn Nhà nước tại doanh nghiệp tại thời điểm định giá. Nếu doanh nghiệp có giá trị thương hiệu được thị trường chấp nhận thì xác định căn cứ vào thị trường. Theo những quy định trên đối chiếu vào trong quá trình CPH của doanh nghiệp làm nảy sinh các vấn đề sau: - Thứ nhất, giá trị doanh nghiệp bao gồm cả các yếu tố vô hình như uy tín, thương hiệu, vị trí địa lí…đây là nhưng yếu tố rất khó xác định giá trị. Hơn thế việc quy định tất cả những lợi thế kinh doanh đều tính vào giá trị doanh nghiệp là chưa phù hợp gây thiệt thòi cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Nên chăng nếu được thì chỉ nên tính giá trị lợi thế kinh doanh mang yếu tố khách quan vào giá trị doanh nghiệp như vị trí địa lí, độc quyền…còn các yếu tố lợi thế mang yếu tố chủ quan do doanh nghiệp xây dựng lên như do trình độ quản lí giỏi, khả năng và ý thức của người lao động cao, dịch vụ và phong cách hoạt tốt nên có khách hàng truyền thống làm tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp … thì không tính vào giá trị doanh nghiệp. - Thứ hai, các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp khó mà áp dụng được khi các tài sản của các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay đã rất lạc hậu không còn lưu thông trên thị trường nên không có căn cứ để xác định. Bên cạnh đó việc quy định tất cả các tài sản của doanh nghiệp hiện có vào thời điểm CPH là chưa phù hợp nên chăng chỉ tính vào giá trị doanh nghiệp những tài sản phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh của CTCP còn các tài sản không phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh thì thanh lí hoặc điều chuyển cho các doanh nghiệp khác - Thứ ba, người định giá doanh nghiệp không xác định được là người mua hay người bán nên thường xuyên nảy sinh việc xác định giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá trị thực tế vì tâm lí cho rằng tài sản đem bán là tài sản Nhà nước nên đánh giá thấp một ít cũng không sao. Từ thực tế trên cho thấy việc xác định đúng giá trị doanh nghiệp là không hề đơn giản. Vì vậy trong thời gian tới muốn đẩy nhanh tốc độ CPH thì cũng cần xây dựng nhiều phương pháp định giá doanh nghiệp làm cho công tác định giá doanh nghiệp linh hoạt hơn và khách quan hơn phù hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp. Việc có ít phương pháp định giá tuy tạo nên sự thống nhất cao nhưng khó áp dụng cho nhiều doanh nghiệp nếu có sai sót thì công việc kiểm tra cũng khó. Khi có nhiều phương pháp các doanh nghiệp có thể lấy một phương pháp phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp mình nhất để xác định giá trị doanh nghiệp, đồng thời sử dụng thêm một số phương pháp khác để kiểm tra xem việc định giá như vậy đã phù hợp chưa, mức chênh lệch có nhiều không. Tiến tới sử dụng phương pháp đấu thầu vì phần lớn các doanh nghiệp CPH hiện nay chưa đủ tiêu chuẩn để niêm yết trên thị trường chứng khoán trong khi đó chương trình CPH trong thời gian tới sẽ được tiến hành khẩn trương hơn sẽ có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cơ chế định giá phức tạp như hiện nay sẽ gây tốn chi phí và mất nhiều thời gian. Vì vậy việc áp dụng phương pháp đấu thầu để định giá doanh nghiệp sẽ thúc đẩy quá trình CPH do cơ chế định giá khách quan hơn, chính xác hơn và đơn giản hơn. 4. Giải quyết tốt lợi ích cho người lao động Người lao động trong doanh nghiệp là người phải chịu tác động trực tiếp nhất từ chính sách CPH. Họ cũng là lực lượng quyết định việc CPH diễn ra nhanh hay chậm. Thực tế đã chứng minh muốn CPH nhanh thì phải giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến lợi ích của doanh nghiệp. Lợi ích của người lao động khi thực hiện CPH thể hiện chủ yếu ở những mặt sau: quyền được mua cổ phiếu ưu đãi, quyền được mua cổ phần ưu đãi trả chậm với lao động nghèo trong doanh nghiệp, quyền được hưởng từ quỹ phúc lợi, vấn đề mua bán chuyển nhượng cổ phiếu. Được mua cổ phần ưu đãi là nhu cầu chính đáng của người lao động do cống hiến đóng góp của họ trong những năm trước đó và thể hiện sự ưu việt chế độ của ta. Sự ưu đãi này đã được quy định rất rõ trong Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ban hành ngày 19/6/2002 “người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp CPH tại thời điểm quyết định CPH được Nhà nước bán tối đa 10 cổ phần cho mỗi năm đã làm việc thực tế tại khu vực Nhà nước với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Trị giá một cổ phần là 100.000 nghìn đồng”. Làm một phép tính đơn giản cũng thấy được quy định như vậy là gây khó khăn cho người lao động để mua được hết cổ phần ưu đãi mà Nhà nước dành cho người lao động trong doanh nghiệp. Cứ một năm công tác một người lao động phải bỏ ra số tiền là: 10*70.000 =700.000đ giả sử một người lao động có thâm niên làm việc trong khu vực kinh tế Nhà nước trong 20 năm thì số tiền phải bỏ ra để mua hết số cổ phần ưu đãi là: 700.000*20 = 14.000.000đ. Việc bỏ ra số tiền 14 triệu đồng cùng một lúc để mua cổ phần ưu đãi là quá khó cho người lao động trong khi mức thu nhập chỉ 550.000-600.000đ/tháng. Như vậy là đánh đố người lao động có ưu đãi mà thực sự trả ưu đãi tí nào. Một điều không hợp lí nữa là số cổ phần mua ưu đãi trả dần dành cho người lao động nghèo không quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi dành cho người lao động trong doanh nghiệp. Điều này thật khó cho Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp ở các doanh nghiệp nông nghiệp khi lên danh sách những người nghèo vì khó có thể nhặt ra trong số toàn thể cán bộ công nhân viên ra số lao động nghèo hơn để được mua ưu đãi 20% số cổ phần ưu đãi trả chậm. Nếu được thì Nhà nước cần có chính sách riêng cho các doanh nghiệp nông nghiệp, Nhà nước đưa ra quy định như thế nào là nghèo sau đó các doanh nghiệp theo đó mà xem ai thuộc diện nghèo thì cũng được mua cổ phần ưu đãi trả chậm không hạn chế số cổ phần loại này. Mua bán cổ phần là nhu cầu chính đáng của các cổ đông song cũng cần phải lưu ý vấn đề này tránh tình trạng số cổ phần tập trung quá lớn vào một người hoặc một nhóm người dẫn đến thay đổi bản chất của CTCP. CTCP phải theo dõi kiểm tra việc mua bán cổ phần khuyến khích những người có nhu cầu bán cổ phần bán cho những cổ đông trong Công ty. Xung quanh vấn đề ưu đãi dành cho người lao động còn nhiều vấn đề đáng bàn và cần có giải pháp tháo gỡ để người lao động yên tâm khi chuyển sang làm việc cho CTCP. Trước mắt Nhà nước cùng doanh nghiệp tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Nhà nước nên có quy định riêng mức ưu đãi dành cho lao động trong nông nghiệp. Chúng ta luôn xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, là lĩnh vực cần ưu tiên phát triển vậy tại sao trong vấn đề này chúng ta lại không thể có những chính sách ưu ái hơn cho các doanh nghiệp nông nghiệp. Việc ưu tiên hơn cho các doanh nghiệp nông nghiệp là tạo điều kiện cho các DNNN trong nông nghiệp sang CTCP tức là chuyển sang loại hình doanh nghiệp làm ăn có hiêu quả hơn điều đó tác động tích cực đến nông nghiệp nông thôn góp phần vào phát triển kinh tế xã hội. Bỏ cái lợi nhỏ trước mắt nhưng lại thu được lợi ích lớn hơn nhiều về lâu dài điều đó cũng đáng làm lắm chứ. Do trong doanh nghiệp nông nghiệp có một bộ phận đáng kể người lao động không có khả năng mua cổ phần hoặc mua không hết số cổ phần ưu đãi, nguy cơ đứng ngoài tiến trình CPH của doanh nghiệp là rất rõ. Vì vậy Nhà nước cùng với doanh nghiệp phải có biện pháp tạo vốn ban đầu cho người lao động để họ mua cổ phần. Doanh nghiệp có thể đứng ra vay hoặc bảo lãnh cho người lao động vay hình thức này đã áp dụng rất thành công ở một số doanh nghiệp CPH trước đó. 5. Tổ chức thực hiện đúng quy trình CPH theo các văn bản hiện hành Việc tuân thủ đúng quy trình CPH sẽ tạo nên những thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc đẩy nhanh tiến độ CPH vì các khó khăn trong quá trình CPH sẽ được tháo gỡ dần, kế hoạch đề ra sẽ được thực hiện, đảm bảo được sự chỉ đạo của cấp trên. Theo quy định hiện hành thì quá trình CPH được chia làm 4 bước: B1. Chuẩn bị CPH B2. Xây dựng phương án CPH B3. Phê duyệt và triển khai phương án CPH B4. Ra mắt CTCP, đăng kí kinh doanh 6. Hoàn thiện cơ chế chính sách Tuy đã có nhiều văn bản được ban hành để hướng dẫn và khắc phục những tồn tại nảy sinh trong quá trình CPH. Nhưng thực tế cho thấy là khi các văn bản mới được ban hành khắc phục được những tồn tại trước đó lại nảy sinh những vấn đề khó khăn khác. Nội dung của các văn bản chỉ đạo tổ chức thực hiện triển khai, thiếu tính đồng bộ nhiều vấn đề chưa khẳng định được như CPH là tự nguyện hay bắt buộc, chưa có các quy định về tránh nhiệm của cán bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp trong triển khai CPH: cho đến nay sau khi có Nghị định số 64/2002/NĐ-CP và hàng loạt các văn bản hướng dẫn kèm theo. Thực tế đã nảy sinh những tồn tại như: xác định giá trị doanh nghiệp vẫn còn nhiều vướng mắc, chậm và còn nhiều lúng túng kết quả còn mang tính chủ quan chưa phản ánh đúng quan hệ cung cầu và khả năng sản xuất của tài sản trong tương lai; quy trình CPH phức tạp nhiều thủ tục phiền phức, tốn kém, chậm được triển khai; ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động còn chung chung và chưa đủ lực…vì vậy việc hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến CPH là cần thiết để tạo ra một văn bản có hiệu lực cao thúc đẩy quá trình CPH đang chậm chạm hiện nay. 6.1. Cần làm rõ hơn những ưu đãi với doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp CPH. Một trong những mục tiêu của quá trình CPH là tạo động lực huy động vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc thực hiện mục tiêu này phụ thuộc vào nhiều nhân tố trong đó những ưu đãi về kinh tế được coi là động lực hàng đầu. Song một thực tế hiện nay là các ưu đãi dành cho doanh nghiệp và người lao động luôn thay đổi theo hướng ngày càng có nhiều ưu đãi hơn tạo nên tâm lý chờ đợi. Mặt khác hiện nay các quy định về mức ưu đãi là như nhau cho mọi doanh nghiệp tạo nên những thiệt thòi cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy, nên chăng có các văn bản quy định phân biệt mức độ ưu đãi khác nhau cho người lao động và doanh nghiệp theo ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. 6.2. Là thay đổi cơ cấu cổ phần trong các doanh nghiệp CPH hiện nay Hiện nay các doanh nghiệp nông nghiệp nói chung và Công ty TPXK Bắc Giang nói riêng khi thực hiện CPH thì cổ phần của Nhà nước là 51% tức Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Như vậy xuất hiện tâm lý không phân biệt doanh nghiệp mới là DNNN hay CTCP. Việc nhà nước nắm 51% cổ phần làm cho công tác bán cổ phiếu gặp nhiều khó khăn do nhà đầu tư cảm thấy thứ họ mua không phải là cổ phần mà là “trái phiếu” nhiều rủi ro. Một CTCP Nhà nước lại giữ 51% vốn điều lệ thì Nhà nước hoàn toàn có thể duy trì sự quản lý như cũ, yếu tố đổi mới là không thể hay rất khó xẩy ra. Đối với các CTCP Nhà nước giữ cổ phần chi phối chức danh lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp này như giám đốc điều hành hầu như vẫn được giữ nguyên… Nhiều giám đốc điều hành đã điều hành CTCP không khác gì giám đốc DNNN trước đây, cơ quan chủ quản cấp trên vẫn tiếp tục can thiệp vào công việc sản xuất kinh doanh của CTCP với một lý do đơn giản là CTCP Nhà nước giữ cổ phần chi phối vẫn được coi là DNNN. Việc Nhà nước giữ 51% cổ phần làm cho việc CPH mang nặng tính hình thức lãnh đạo nhiều doanh nghiệp trong danh sách CPH đã lợi dụng quy định này để tiếp tục giữ doanh nghiệp. Tóm lại, việc xoá bỏ tình trạng “vô chủ” đối với DNNN, tăng cường sự giám sát của các nhà đầu tư, tạo động lực mới cho sự phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ cổ phần mà các cổ đông nắm giữ, nếu tiếp tục CPH kiểu như hiện nay thì mục tiêu tạo động lực mới cho doanh nghiệp khó mà đạt được. 6.3. Đơn giản hoá quy trrình thực hiện CPH Hiện nay thủ tục tiến hành CPH còn phức tạp nên không tránh khỏi việc gây khó khăn cho Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp. Bởi vì thành phần chỉ đạo đổi mới DNNN là các cán bộ lãnh đạo hoạt động có tính chất kiêm nghiệm chưa thực sự dành nhiều thời gian thoả đáng cho công tác cổ phần. Ban đổi mới của doanh nghiệp cùng một lúc phải lo hai nhiệm vụ lớn: Đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện công việc của quá trình CPH. Sự phối hợp với các cơ quan cấp trên có liên quan chưa được thường xuyên chặt chẽ. Vì vậy việc đơn giản hoá quy trình thực hiện CPH là cần thiết. - Xây dựng kế hoạch triển khai quá trình CPH trong đó xác định các bước chuyển DNNN thành CTCP, các công việc cụ thể trong mỗi bước, tiến độ thời gian và lực lượng thực hiện. Về hình thức kế hoạch này nên xây dựng thành sơ đồ hoặc biểu đồ tiến độ. - Xác định những công việc phải thường xuyên quán xuyến trong toàn bộ quá trình CPH, những công việc trọng tâm của từng giai đoạn. Từ đó bố trí công việc cho hợp lí. - Phân chia trách nhiệm trong Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp thành ba nhóm dưới sự điều hành chung của Giám đốc trưởng ban: Nhóm phụ trách các vấn đề tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp; Nhóm phụ trách việc xác định phương án CPH; Nhóm phụ trách các vấn đề liên quan đến người lao động trong doanh nghiệp CPH. Từ kế hoạch chung Giám đốc trưởng ban sẽ điều hoà phối hợp chung bảo đảm sự đồng điệu trong thực hiện các công việc của quá trình CPH. - Đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến cấp đăng kí kinh doanh cho CTCP thành lập từ chuyển hoá DNNN. Trong hồ sơ xin đăng kí kinh doanh cần tôn trọng những điểm mà CTCP kế thừa hợp lệ từ DNNN như giấy phép sử dụng đất, đăng kí trụ sở. 6.4. Chọn hình thức CPH phù hợp: Một thực tế hiện nay là các DNNN thường CPH theo hình thức bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Nhưng thực tế đã chứng minh hình thức này chưa phù hợp với đặc điểm riêng có của các doanh nghiệp nông nghiệp. Bởi vì các doanh nghiệp nông nghiệp hầu hết làm ăn không hiệu quả, thu nhập của người lao động thấp, hoạt động kinh doanh mang tính chất rủi ro cao cho nên việc bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp gặp khó khăn. Khi không bán hết cổ phần thì số cổ phần đó lại được chuyển vào vốn Nhà nước như vậy thì khó mà đạt được mục tiêu CPH. Theo kiến nghị của nhiều doanh nghiệp nông nghiệp thì nên cổ phần doanh nghiệp nông nghiệp theo hình thức thứ nhất tức là: Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. Việc phát hành cổ phiếu không chỉ một đợt mà được tiến hành thành nhiều đợt để tăng vốn sản xuất kinh doanh và giảm dần cổ phần của Nhà nước tại doanh nghiệp. Hy vọng hình thức này sẽ sớm được áp dụng để thúc đẩy quá trình CPH trong các DNNN trong nông nghiệp hiện nay. 6.5.Tạo môi trường thức đẩy CPH - Hình thành thị trường chứng khoán để thúc đẩy việc mua bán chuyển nhượng cổ phần của các doanh nghiệp. -Thành lập một số trung tâm tư vấn về CPH DNNN để trợ giúp cho việc triển khai CPH DNNN. 7. Coi trọng phát triển doanh nghiệp hậu CPH CPH chậm trễ do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan, bản chất của vấn đề lại nằm ở chỗ trong quá trình CPH có nhiều cản trở mà chủ yếu lại ở chỗ, bản thân doanh nghiệp chưa nhìn thấy rõ tương lai triển vọng khi chuyển thành CTCP. Mặc dù cả lí thuyết và thực tế đều chứng minh CPH là giải pháp hữu hiệu nhất để DNNN tự cải tổ lại chính mình và nâng cao hiệu quả kinh doanh nhưng không mấy doanh nghiệp lại tin vào điều này. Thực tế đã giải thích khá rõ tại sao CPH có lợi như vậy mà rất ít DNNN tự nguyện xin CPH, Chính phủ hàng năm phải giao chỉ tiêu cho các Bộ, ngành, địa phương nhưng năm nào cũng không hoàn thành kế hoạch. Mặc dù ít được nhắc đến nhưng vấn đề giải quyết hậu CPH ở doanh nghiệp lại gặp rất nhiều khó khăn, còn tồn tại nhiều bất cập do cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan. + Bài toán đầu tiên doanh nghiệp đã CPH phải đối mặt là vấn đề tiếp cận nguồn vốn. Giải quyết song vấn đề vốn tự có để sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp lại gặp khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng. Quy chế cho vay hiện nay dành cho các DNNN quyền vay tín dụng không cần thế chấp tại các ngân hàng quốc doanh (lực lượng kiểm soát gần 80% thị trường tín dụng Việt Nam hiện nay). Chuyển sang CTCP, Nghị định số 64/2002/NĐ-CP đã quy định rất rõ các CTCP vẫn được tiếp tục vay vốn theo cơ chế trước đó vẫn áp dụng cho các DNNN. Cách đánh giá của các ngân hàng thương mại quốc doanh với các CTCP không thể thân thiện như họ vẫn làm với các DNNN. Đơn giản là vì trước đó các DNNN có nợ thì theo quy định hiện hành các ngân hàng có thể đưa vào diện khoanh nợ thậm chí xoá nợ. Với các CTCP thì không thể làm như thế. Và do đó dù muốn hay không muốn họ không thể tiếp cận nguồn vốn rễ ràng như trước. + Về mặt tổ chức quản lí còn nhiều bất cập chuyển sang CTCP mà hoạt động chẳng khác gì một DNNN. Theo quy định hiện nay các CTCP Nhà nước nắm giữ 51% cổ phần thì vẫn được coi là thành viên của tổng công ty như vậy thì không khác mấy so với trước khi CPH. + Một bài toán đau đầu nữa mà khi hoàn thành song CPH công ty phải đối mặt đó là vấn đề giải quyết số lao động dôi dư hậu CPH. Trong quá trình CPH, để mọi sự được diễn ra một cách êm đẹp, công ty đã không tiến hành việc tinh giảm triệt để bộ máy để chuyển sang CTCP, trừ những trường hợp không thể còn phần lớn số nhân sự trước đây ở DNNN đều được chuyển sang CTCP để mọi người “hài lòng”. Việc làm bất chấp thực tế này dẫn dến sự dôi dư không tránh khỏi của lực lượng lao động khi công ty chính thức đi vào hoạt động. Khi đã là CTCP thì công ty không thể khắc phục khiếm khuyết này. Điều đó đương nhiên là phức tạp, tốn thời gian, tốn chi phí và quan trọng hơn nữa là nó ảnh hưởng trực tiếp đến công việc kinh doanh hàng ngày của công ty. + Cũng không thể không nhắc đến nguy cơ làm chủ hình thức của người lao động trong Công ty. Do đặc điểm của Công ty sản xuất thủ công vẫn là chính công việc rất nặng nhọc, lao động chủ yếu là lao động hợp đồng có thời hạn nên lực lượng lao động chủ yếu là lao động trẻ khi cổ phần với số năm công tác ít họ sẽ trở thành cổ đông nhỏ tại Công ty. Biểu hiện của tình trạng là chủ hình thức trước hết là ở chỗ quyền thông tin của các cổ đông hầu như không được tôn trọng. Theo nguyên tắc đồng sở hữu tài sản, các chủ sở hữu vốn của CTCP được quyền tham gia quản lí công ty, được công ty cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, tình hình tài chính, cổ phần, tình hình lao động, đầu tư, tình hình sản xuất kinh doanh…nhưng có lẽ các cổ đông nhỏ phải yên vị với những thông tin hết sức sơ sài được trình bầy trước Đại hội đồng cổ đông hằng năm. Do không được cung cấp đầy đủ thông tin, hầu hết là các cổ đông nhỏ (chủ yếu là các công nhân trực tiếp sản xuất) không hiểu được CTCP, họ cảm thấy mình là cổ đông thực thụ mà phải đứng ngoài Công ty. Như vậy dễ nảy sinh tâm lí cho rằng họ không phải là chủ Công ty, họ không phải là cổ đông mà là người bị vay vốn. Mặc dù những tồn tại trên không thuộc về bản chất của CTCP, nhưng điều này rất rễ xẩy ra nên dù muốn hay không muốn nó cũng tạo tâm lí tiêu cực cho cán bộ lãnh đạo và cả người lao động trong công ty. Lẽ đương nhiên khi tâm lí bị bi quan thì đương nhiên CPH không thể suôn sẻ được. Vậy thì giải pháp nào là hữu hiệu để phát triển doanh nghiệp hậu CPH. + Cơ chế tín dụng cho các doanh nghiệp CPH cần được thực hiện đúng với sự hỗ trợ khuyến khích mà các quy định của Nhà nước dành cho họ. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cần có biện pháp huy động vốn từ các nguồn khác chứ không nên chỉ trông chờ vào vốn của các ngân hàng. + Cần có những quy định về quyền thông tin cho các cổ đông dù nhỏ tại CTCP để khắc phục tâm lí bị đứng ngoài công ty của những cổ đông này. Doanh nghiệp cũng cần thực hiện đúng nghĩa vụ thông tin cho các cổ đông. + Trong quá trình CPH công ty cần phải triệt để tinh giảm bộ máy, chỉ giữ lại những người cần cho CTCP, CTCP cần “chất” chứ không phải là “lượng” CTCP phải có một bộ máy thực sự tinh gọn khi bước vào hoạt động sau CPH. Tuy nhiên cũng phải quan tâm đến lợi ích cho người lao động phải có chế độ thoả đáng cho những lao động dôi dư trong CPH để họ có thể tìm công việc mới. Nếu như do mở rộng quy mô sản xuất sau này cần tuyển thêm lao động thì cũng cần ưu tiên những người đã từng làm việc cho công ty. + Nhà nước cùng các bộ ngành có liên quan cần có biện pháp hỗ trợ công ty về mặt tổ chức quản lí (thông qua việc tổ chức các chương trình tập huấn, hoặc cử chuyên gia hỗ trợ) để Công ty sau CPH có thể nhanh chóng có một cơ chế quản lí thích ứng với mô hình tổ chức mới. + Quy định mức khởi điểm tối thiểu được mua cổ phần ưu đãi để khuyến khích, thu hút vốn. Tạo điều kiện cho người lao động trẻ, nhất là lao động đã qua đào tạo (lực lượng quan trọng của doanh nghiệp), có cơ hội được hưởng chế độ ưu đãi nhất định có lợi hơn so với các cổ đông khác. Nguồn chi này lấy từ quỹ hỗ trợ và sắp sếp DNNN + Các cơ quan hữu trách cần quan tâm chỉ đạo sâu sát, cụ thể, nắm chắc tình hình các doanh nghiệp, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc của từng doanh nghiệp bằng các hình thức hỗ trợ cần thiết nhằm giúp doanh nghiệp CPH được thuận lợi, ngăn chặn việc gây phiền hà, sách nhiễu, phân biệt đối xử với doanh nghiệp CPH, thực hiện đầy đủ những ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động theo quy định tại Nghị định số 64/2002/NĐ-CP . Kết luận CPH DNNN là giải pháp hữu hiệu để đổi mới hoạt động của các DNNN nói chung DNNN trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. CPH là một yêu cầu khách quan phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay và yêu cầu hội nhập của nền kinh tế. Trong nông nghiệp, do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và của các hoạt động kinh tế gắn liền với sản xuất nông nghiệp mà CPH doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước mang những đặc điểm riêng, đòi hỏi có phương pháp thực hiện phù hợp. Từ đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, kinh nghiệm chuyển hoá sở hữu và CPH DNNN ở các nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách liên quan đến CPH nhằm tạo ra động lực mới cho các doanh nghiệp nhà nước. Trải qua hơn 10 năm thực hiện CPH tuy còn nhiều vướng mắc khó khăn song về cơ bản chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước đã đem lại kết quả tốt đẹp tạo được niềm tim từ phía người lao động và các DNNN. Qua nghiên cứu quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang thấy nổi nên những khó khăn trong khi thực hiện CPH do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan như: ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động chưa thoả đáng, xác định giá trị doanh nghiệp còn nhiều bất cập, còn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và CTCP, tâm lí ngại chuyển sang CTCP của người lao động, đặc lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích của tập thể…Từ thực tế đó để thúc đẩy CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang Em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau: + Nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ công nhân viên + Lành mạnh vấn đề tài chính trước khi CPH + Xác định đúng giá trị doanh nghiệp + Giải quyết tốt vấn đề lợi ích cho người lao động + Tổ chức thực hiện đúng quy trình CPH + Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh + Coi trọng phát triển doanh nghiệp hậu CPH Danh mục tài liệu tham khảo Phần sách: 1. PGS.TS. Đỗ Hoài Nam CPH DNNN cơ sở lí luận và kinh nghiệm thực tiễn. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2. PGS.TS. Nguyễn Kế Tuấn. Thực trạng và giải pháp sắp xếp lại các DNNN thuộc thành phố Hà Nội. Nhà xuất bản chính trị quốc gia 3. Các văn bản pháp luật về CPH DNNN. Nhà xuất bản chính trị quốc gia 4. PGS.TS . Ngô Quang Minh. Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới DNNN. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Phần tạp chí: 1.Tạp chí Kinh tế và phát triển số 4/2004 2.Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 3/2004 3.Tạp chí lí luận chính trị năm 3/2001 4.Tạp chí Cộng sản số 1/2002 5.Tạp chí Ngân hàng số 1/2001 6.Tạp chí Thị trường chứng khoán số 2/1999 7.Tạp chí Tài chính số 18 năm 2000 Cùng nhiều loại sách báo và tạp chí khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0460.Doc
Tài liệu liên quan