Thẩm quyền của tòa án nước ngoài
Khoản 3 Điều 7 quy định: “Ngoài
các cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 2
Điều này, tranh chấp giữa các nhà đầu tư
liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh
tại đặc khu, trong đó có ít nhất một bên là
nhà đầu tư nước ngoài còn có thể được giải
quyết tại Tòa án nước ngoài, trừ tranh chấp
thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của
Tòa án Việt Nam theo quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự”.
Quy định này gián tiếp cho phép các
bên lựa chọn tòa án nước ngoài là phù hợp
với xu thế chung của tư pháp quốc tế hiện
đại vốn có xu hướng ghi nhận và mở rộng
quyền tự do định đoạt của các chủ thể. Tuy
nhiên, cách thể hiện của khoản 3 có thể có
thể dẫn đến cách hiểu là luật Việt Nam quy
định về thẩm quyền của Tòa án nước ngoài.
Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị viết lại khoản
3 như sau:
“3. Ngoài các cơ quan, tổ chức quy
định tại khoản 2 Điều này, tranh chấp giữa
các nhà đầu tư liên quan đến hoạt động đầu
tư kinh doanh tại đặc khu, trong đó có ít nhất
một bên là nhà đầu tư nước ngoài, các bên
còn có thể lựa chọn Tòa án nước ngoài giải
quyết, trừ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải
quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số góp ý đối với các quy định về luật áp dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp trong dự thảo luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Dự thảo Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn,
Bắc Vân Phong và Phú Quốc trình cho ý kiến tại phiên họp
thứ 23 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV1 còn có
những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện, nhất là về mối quan
hệ giữa các văn bản luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam;
quyền và giới hạn của quyền tự do lựa chọn pháp luật áp
dụng cho các quan hệ tại đặc khu; thẩm quyền giải quyết
tranh chấp.
1
=1&LanID=1505 (truy cập ngày 01/05/2018).
Ngô Quốc Chiến*
* TS. GV. Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương.
Abstract
The Bill of Law on Special Administrative-Economic Units of
Van Don, Bac Van Phong and Phu quoc which was submitted
to the meeting 23th of of the XIV National Assembly Standing
Committee of Vietnam has possessed a number of issues need
to be further improved, particularly on the relationship among
the legal documents in the Vietnamese legal system; the rights
and limitations of the freedom of choice of law applicable to
the special units; and the competence for dispute settlement.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt, mối quan hệ giữa các văn bản luật,
quyền lựa chọn luật, giới hạn của quyền
lựa chọn luật, thẩm quyền giải quyết tranh
chấp.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 02/05/2018
Biên tập : 09/05/2018
Duyệt bài : 16/05/2018
Article Infomation:
Keywords: Law on Special Administrative-
Economic Units; relationship among
the legal documents; rights of choice of
applicable law; limitations of choice of
applicable law; the competence for dispute
settlement.
Article History:
Received : 02 May 2018
Edited : 09 May 2018
Approved : 16 May 2018
MỘT SỐ GÓP Ý ĐỐI VỚI CÁC QUY ĐỊNH VỀ LUẬT ÁP DỤNG VÀ CƠ QUAN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG DỰ THẢO LUẬT ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT
1. Về mối quan hệ giữa các văn bản luật
Dự thảo Luật Đơn vị hành chính - kinh
tế (HC-KT) đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân
Phong và Phú Quốc (sau đây gọi tắt là Dự
thảo Luật) đã dành một điều để quy định về
mối quan hệ giữa các văn bản luật có liên
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
27Số 10(362) T5/2018
quan. Các văn bản điều chỉnh sự hình thành
và hoạt động của các đặc khu có thể là văn
bản luật quốc gia và văn bản luật quốc tế.
Khi đó, có ba mối quan hệ cần phải giải
quyết. Thứ nhất, mối quan hệ giữa các văn
bản luật trong nước với nhau: luật nào trong
số nhiều luật cùng có thể được áp dụng sẽ
được (hoặc sẽ phải) ưu tiên áp dụng. Thứ
hai, mối quan hệ giữa luật Việt Nam và điều
ước quốc tế (ĐƯQT) mà Việt Nam là thành
viên. Thứ ba, mối quan hệ giữa các ĐƯQT
mà Việt Nam là thành viên.
Điều 5 Dự thảo Luật đã giải quyết tốt
hai quan hệ đầu tiên. Tuy nhiên, quy định
về mối quan hệ giữa các ĐƯQT mà Việt
Nam là thành viên thì chưa thực sự hợp lý.
Cụ thể, khoản 5 Điều 5 Dự thảo Luật quy
định: “Trường hợp ĐƯQT mà Cộng hòa
XHCN Việt Nam là thành viên (sau đây gọi
là ĐƯQT) có quy định khác với quy định
tại Luật này và luật khác có liên quan thì
áp dụng quy định của ĐƯQT đó, trừ trường
hợp quy định tương ứng của Luật này và
luật khác có liên quan thuận lợi hơn về ưu
đãi đầu tư, điều kiện đầu tư đối với nhà đầu
tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài được thành lập và hoạt động
tại đặc khu”. Ở đây, sự bất hợp lý nằm trong
cụm từ “tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài”. Theo quy định của khoản 17 Điều 3
Luật Đầu tư năm 2014, “tổ chức kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có
nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc
cổ đông”. Chúng ta biết rằng, các quy định
bảo hộ và ưu đãi của các ĐƯQT về kinh tế,
thương mại, đầu tư chỉ dành cho nhà đầu tư
nước ngoài, chứ không dành cho tổ chức
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhà đầu
tư nước ngoài được bảo vệ với tư cách là nhà
đầu tư cá nhân hoặc tổ chức (pháp nhân).
Các “tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài” không thuộc nhóm “cá nhân nước
ngoài” cũng không thuộc nhóm “pháp nhân
nước ngoài”. Thực ra đây là các pháp nhân
được thành lập theo pháp luật Việt Nam và
có quốc tịch Việt Nam. Việc một nhà đầu tư
nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông của
một tổ chức kinh tế làm cho cả tổ chức kinh
tế đó được ưu đãi là không hợp lý. Chúng tôi
cho rằng, khi một cá nhân hoặc tổ chức nước
ngoài tham gia vào một tổ chức kinh tế được
thành lập ở Việt Nam thì bản thân cá nhân
hoặc tổ chức nước ngoài đó được hưởng ưu
đãi, bảo vệ với tư cách là cá nhân, pháp nhân
nước ngoài, chứ không phải là toàn bộ “tổ
chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” đó
được ưu đãi.
Về mối quan hệ giữa các ĐƯQT có
liên quan với nhau, khoản 6 Điều 5 Dự
thảo Luật quy định, “Nguyên tắc áp dụng
[] ĐƯQT quy định tại khoản 5 Điều này
không được cản trở việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ của Việt Nam theo các ĐƯQT”.
Quy định này thực chất đã trù liệu hoàn cảnh
có hai hay nhiều ĐƯQT cùng có thể được
áp dụng để điều chỉnh một quan hệ cụ thể.
Nói cách khác, đối với cùng một vấn đề cần
giải quyết, có hai hay nhiều ĐƯQT cùng có
thể được áp dụng và các quy định này khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau, tới mức mà
việc tuân thủ quy định của ĐƯQT này sẽ
dẫn tới không thực hiện được ĐƯQT kia
(xung đột ĐƯQT). Cách giải quyết xung đột
ĐƯQT mà Dự thảo Luật sử dụng dựa trên
phương pháp hài hòa hóa, tức là cố gắng tôn
trọng tất cả các cam kết quốc tế. Tuy nhiên,
không phải lúc nào một quốc gia cũng có
thể thực hiện được việc này. Thực tế vấn đề
xung đột ĐƯQT phức tạp hơn rất nhiều và
các phương pháp giải quyết chúng cũng rất
đa dạng. Chúng tôi cho rằng, Dự thảo Luật
không nên quy định cách giải quyết xung
đột ĐƯQT. Vấn đề này đã ít nhiều được quy
định tại Công ước Viên về Luật ĐƯQT mà
Việt Nam là thành viên cũng như trong bản
thân các ĐƯQT. Việc giải quyết xung đột
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
28 Số 10(362) T5/2018
ĐƯQT phải được thực hiện trên cơ sở vận
dụng linh hoạt và mềm dẻo các quy định
cũng như trên cơ sở mối quan hệ chính trị,
kinh tế giữa các quốc gia có liên quan2.
2. Quyền, giới hạn của quyền lựa chọn
pháp luật nước ngoài, tập quán quốc tế
và loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài,
tập quán quốc tế (Điều 6 Dự thảo Luật)
Theo chúng tôi, các quy định này chưa
thật sự phù hợp với Bộ luật Dân sự (BLDS)
năm 2015, cả về chủ thể hưởng quyền, giới
hạn của quyền và vô hiệu hóa quyền.
2.1 Chủ thể hưởng quyền lựa chọn
pháp luật nước ngoài, tập quán quốc tế
Khoản 1 Điều 6 Dự thảo Luật quy định:
“Đối với các hợp đồng dân sự, kinh doanh,
thương mại, lao động được ký kết giữa tổ
chức, cá nhân có trụ sở chính hoặc nơi cư
trú tại đặc khu, trong đó có ít nhất một bên
tham gia là tổ chức, cá nhân nước ngoài, các
bên được thỏa thuận trong hợp đồng việc áp
dụng pháp luật nước ngoài hoặc tập quán
quốc tế”. Theo quy định này, để được quyền
lựa chọn pháp luật nước ngoài và tập quán
quốc tế áp dụng cho hợp đồng dân sự, kinh
doanh, thương mại, lao động thì các bên phải
thỏa mãn hai điều kiện, đó là: i) các bên phải
“có trụ sở chính hoặc nơi cư trú tại đặc khu”
và ii) “ít nhất một bên tham gia là tổ chức, cá
nhân nước ngoài”. Quy định như vậy là chặt
hơn so với khoản 1 Điều 683 BLDS năm
2015, theo đó “Các bên trong quan hệ hợp
đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp
dụng đối với hợp đồng”. Hợp đồng mà Điều
683 BLDS năm 2015 quy định là hợp đồng
có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài của
hợp đồng được xác định dựa trên khoản 2
Điều 663 BLDS năm 2015, theo đó chỉ cần
2 Có thể xem chi tiết hơn: Ngô Quốc Chiến (2017), Xung đột ĐƯQT và hướng giải quyết, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 2 (346), tháng 2/2017, tr. 74-84.
thỏa mãn một trong các tiêu chí sau thì hợp
đồng có thể được coi là hợp đồng có yếu tố
nước ngoài: thứ nhất, có ít nhất một trong
các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước
ngoài; thứ hai, các bên trong hợp đồng đều
là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc
chấm dứt hợp đồng xảy ra tại nước ngoài;
thứ ba, các bên trong hợp đồng đều là công
dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng
đối tượng của hợp đồng đó đó ở nước ngoài.
Chúng tôi cho rằng, các quy định của
BLDS năm 2015 về quyền lựa chọn pháp
luật áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài nói chung và cho quan hệ hợp
đồng nói riêng không những phù hợp với
thông lệ chung của quốc tế mà còn đặc biệt
cần thiết cho các quan hệ ở đặc khu, có
như vậy mới có thể tạo cho đặc khu có môi
trường đầu tư kinh doanh và chính sách ưu
đãi cạnh tranh quốc tế, mang tính vượt trội,
ổn định, đáp ứng yêu cầu nhà đầu tư theo
chuẩn mực quốc tế. Nếu như chúng ta không
quy định cởi mở hơn so với các quy định
chung của BLDS thì cũng không cần thiết
phải quy định chặt hơn.
Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị bỏ
khoản 1. Trong trường hợp muốn khẳng
định lại quyền tự do lựa chọn pháp luật áp
dụng thì chỉ cần dẫn chiếu tới phần thứ 5 của
BLDS năm 2015.
Tuy nhiên, cũng như mọi quyền dân
sự khác, quyền tự do lựa chọn pháp luật áp
dụng không phải là quyền vô hạn định, mà
là một quyền có giới hạn. Do các đặc khu có
tính chất đặc biệt nhạy cảm về quốc phòng,
an ninh, nên việc đặt ra các giới hạn đối với
quyền này là cần thiết.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 10(362) T5/2018
2.2 Giới hạn của quyền lựa chọn
pháp luật, tập quán quốc tế
Đoạn thứ hai của khoản 1 Điều 6 quy
định: “Trường hợp đối tượng của hợp đồng
là bất động sản tại Việt Nam hoặc hợp đồng
lao động ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu
của người lao động, hợp đồng tiêu dùng ảnh
hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người tiêu
dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam
thì áp dụng pháp luật Việt Nam”.
Về mặt kỹ thuật lập pháp, việc đặt
các nội dung về giới hạn của quyền trong
cùng một khoản quy định về quyền là không
hợp lý. Bản thân đoạn thứ hai này cũng gộp
nhiều giới hạn của quyền tự do lựa chọn
pháp luật áp dụng trong các lĩnh vực khác
nhau nên làm cho nó quá dài và khó theo
dõi. Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị, nếu giữ
các quy định này thì cần tách đoạn thứ hai
thành một khoản riêng và trong khoản này
sẽ tách thành ba đoạn quy định ba lĩnh vực
khác nhau cần giới hạn quyền.
Về giới hạn của quyền lựa chọn pháp
luật áp dụng cho hợp đồng lao động và hợp
đồng tiêu dùng
Quy định về giới hạn quyền lựa chọn
pháp luật áp dụng cho hợp đồng lao động và
hợp đồng tiêu dùng trong Dự thảo không có
gì khác biệt về nội dung so với khoản 5 Điều
683 BLDS năm 2015. Cụ thể, khoản 5 Điều
683 quy định: “Trường hợp pháp luật do
các bên lựa chọn trong hợp đồng lao động,
hợp đồng tiêu dùng có ảnh hưởng đến quyền
lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu
dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam
thì pháp luật Việt Nam được áp dụng”. Rõ
ràng, ban soạn thảo mới chỉ chỉnh sửa về
mặt kỹ thuật, trong khi lẽ ra có thể chỉnh sửa
về nội dung của quy định cho phù hợp hơn
với tính chất đặc thù của Luật Đơn vị HC-
KT đặc biệt. Theo chúng tôi, quy định của
Điều 683 chưa thực sự hợp lý khi yêu cầu áp
dụng pháp luật Việt Nam thay thế cho pháp
luật nước ngoài trong trường hợp pháp luật
nước ngoài này ảnh hưởng đến quyền lợi tối
thiểu của người lao động hoặc người tiêu
dùng. Thiết nghĩ, trong trường hợp như vậy,
các bên vẫn có thể thỏa thuận một hệ thống
pháp luật khác vừa đảm bảo được quyền lợi
của các bên, vừa không ảnh hưởng đến các
quyền lợi tối thiểu mà pháp luật Việt Nam
dành cho người lao động hoặc người tiêu
dùng. Trường hợp các bên không lựa chọn
được một hệ thống pháp luật như vậy, cần
áp dụng quy phạm xung đột để lựa chọn
pháp luật áp dụng hoặc dựa vào tiêu chí về
mối liên hệ gắn bó nhất - một trong những
nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế được
quy định tại khoản 3 Điều 664 - để tìm ra hệ
thống pháp luật áp dụng cho quan hệ.
Về giới hạn của quyền lựa chọn pháp
luật đối với hợp đồng có đối tượng là bất
động sản
Điều 6 Dự thảo Luật quy định:
“Trường hợp đối tượng của hợp đồng là bất
động sản tại Việt Nam [] thì áp dụng pháp
luật Việt Nam”. Thực chất quy định này là
một sự lặp lại quy định của khoản 2 Điều 769
BLDS năm 2005. Theo đó, “Hợp đồng liên
quan đến bất động sản ở Việt Nam phải tuân
theo pháp luật Cộng hoà XHCN Việt Nam”.
Quy định của Dự thảo Luật chỉ khác với quy
định của khoản 2 Điều 769 BLDS năm 2005
ở cụm từ “liên quan đến” được thay bằng
“có đối tượng là”. Sự thay đổi này không có
nhiều ý nghĩa về nội dung và là một sự thụt
lùi so với các tiến bộ đạt được của BLDS
năm 2015. Chúng tôi ủng hộ quan điểm cho
rằng, các đặc khu nằm tại các vị trí đặc biệt
nhạy cảm về quốc phòng, an ninh, nên cần
phải được bảo vệ. Tuy nhiên, quy định quá
chặt chẽ như trên sẽ gây trở ngại cho đặc
khu tiến lên thành trung tâm HC-KT mạnh,
có sức lan tỏa ra cả nước. Theo chúng tôi,
có hai giải pháp: thứ nhất, giữ nguyên các
quy định giống như Điều 683 BLDS năm
2015 nhưng đồng thời tăng cường quy định
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 10(362) T5/2018
về loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài;
thứ hai, quy định rõ hơn rằng “Trường hợp
đối tượng của hợp đồng là bất động sản tại
các đặc khu (chứ không phải tại Việt Nam
nói chung) thì áp dụng pháp luật Việt Nam”.
Quy định này vừa góp phần bảo vệ được chủ
quyền liên quan đến các bất động sản nằm
tại các đặc khu, vừa bảo đảm giữ lại được
các tiến bộ đã được của BLDS năm 2015.
2.3 Loại trừ áp dụng pháp luật nước
ngoài, tập quán quốc tế
Khoản 2 Điều 6 Dự thảo Luật quy
định: “Việc áp dụng pháp luật nước ngoài
hoặc tập quán quốc tế theo quy định tại
khoản 1 Điều này không được gây phương
hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng theo quy định của luật và
không được trái với những nguyên tắc cơ
bản của pháp luật dân sự Việt Nam”.
Do vị trí đặc biệt của các đặc khu, nên
việc chúng ta có quy định hạn chế áp dụng
pháp luật nước ngoài trong một chừng mực
nào đó là cần thiết. Tuy nhiên, cách quy định
của Dự thảo chưa thực sự phù hợp. Điểm
mới của Dự thảo so với các quy định về
loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài trong
các văn bản luật cấu thành tư pháp quốc tế
Việt Nam nằm ở chỗ, đã nêu chi tiết hơn
các trường hợp pháp luật nước ngoài bị loại
trừ. Tuy nhiên, cách liệt kê như vậy rõ ràng
đã mở rộng thêm các trường hợp pháp luật
nước ngoài, tập quán quốc tế không được áp
dụng. Các khái niệm “quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã
hội, sức khỏe của cộng đồng” thực chất nằm
trong khái niệm “trật tự công cộng” (public
policy trong tiếng Anh và ordre public trong
tiếng Pháp) vốn đã được tư pháp quốc tế của
3 Về vấn đề này, xem: Bùi Thị Thu (2010), Vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong tư pháp quốc tế, trong “Pháp luật Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập”, Hội thảo nhân dịp 30 năm thành lập Trường Đại học Luật Hà Nội. Có thể xem tại: https://
thongtinphapluatdansu.edu.vn/2010/01/25/4340-2/ (truy cập ngày 1/5/2018).
nhiều quốc gia sử dụng3. Không phải ngẫu
nhiên mà nhà soạn luật của các nước có nền
tư pháp quốc tế phát triển không đưa ra định
nghĩa thế nào là trật tự công, mà trao quyền
cho thẩm phán xác định nội hàm của khái
niệm này tùy thuộc vào từng trường hợp cụ
thể. Cách quy định liệt kê của Dự thảo Luật
có ưu điểm là rõ ràng về phạm vi, nhưng
ngược lại không rõ ràng về nội hàm của từng
khái niệm và không đầy đủ. Trong thực tế,
khái niệm “trật tự công cộng” có thể bao
gồm, nhưng không giới hạn, ở những nội
dung được Dự thảo Luật liệt kê. Do đó, việc
sử dụng khái niệm trật tự công cộng giúp
chúng ta xử lý vấn đề một cách bao quát và
mềm dẻo hơn là so với phương pháp liệt kê.
Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị nên quy định
loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài khi
“hậu quả của pháp luật nước ngoài, tập quán
quốc tế đó trái với trật tự công cộng của
Việt Nam”.
Ngoài ra, cần bổ sung một trường hợp
nữa loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài,
tập quán quốc tế khi quan hệ đang xem xét
thuộc phạm vi điều chỉnh của một quy phạm
mệnh lệnh của pháp luật Việt Nam. Trong
thực tế, pháp luật nước ngoài cũng không
nên được áp dụng mặc dù pháp luật nước
ngoài đó không ảnh hưởng đến quốc phòng,
an ninh, cũng không ảnh hưởng đến các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam,
khi pháp luật Việt Nam có quy định áp dụng
bắt buộc cho quan hệ đang xem xét. Ví dụ,
các quy định về bảo hiểm, về an toàn lao
động, về quy chuẩn xây dựng... Đây là các
quy định khó có thể coi là nằm trong khái
niệm "các nguyên tắc cơ bản của pháp luật"
trong tư pháp quốc tế. Chúng tôi cho rằng,
“trật tư công” hay “các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật” là một công cụ cần nhưng
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 10(362) T5/2018
chưa đủ, và khó áp dụng. Hơn nữa, để biết
pháp luật nước ngoài có vi phạm trật tự công
hay không thì thẩm phán phải làm một công
việc vừa tế nhị, vừa khó khăn, đó là so sánh
hệ thống luật của nước ngoài với pháp luật
trong nước.
Một trong những nguyên tắc cơ bản
của tư pháp quốc tế là không được coi pháp
luật nước nào “cao” hơn, đáng được áp dụng
hơn pháp luật của nước nào. Quy phạm áp
dụng bắt buộc cho phép giải quyết nhược
điểm này, vì nó không buộc thẩm phán phải
“so sánh luật”. Thực tiễn xét xử của một số
nước cho thấy xu hướng ưu tiên áp dụng quy
phạm áp dụng bắt buộc hơn là trật tự công
để từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài4,
bởi xác định thế nào là “quy phạm áp dụng
bắt buộc” dễ dàng hơn nhiều so với “trật
tự công”. Các quy phạm áp dụng bắt buộc
là các quy phạm có tính lãnh thổ tuyệt đối
mà các thỏa thuận hợp đồng không thể loại
trừ. Có thể nhận diện các quy phạm áp dụng
bắt buộc thông qua hình thức của quy phạm
(bản thân quy phạm nêu rõ đó là quy phạm
áp dụng bắt buộc) hoặc suy đoán dựa vào
bản chất pháp lý của quy phạm. Quy phạm
áp dụng bắt buộc tồn tại trong các văn bản
về luật lao động, về cạnh tranh, về sở hữu
trí tuệ, về bảo vệ môi trường, về xây dựng...
3. Cơ quan giải quyết tranh chấp (Điều 7
Dự thảo Luật)
3.1 Phạm vi của điều luật
Cả khoản 1 và khoản 2 Điều 7 sử dụng
khái niệm “tại đặc khu” nhưng không có tiêu
chí nào để xác định thế nào là “tại đặc khu”.
Chẳng hạn, một tranh chấp liên quan đến
một hợp đồng mua bán hàng hóa được ký
kết giữa một doanh nghiệp có trụ sở tại đặc
khu và một doanh nghiệp có trụ sở ngoài đặc
khu thì có phải là tranh chấp “tại đặc khu”
4 Về vấn đề này, xem: Đỗ Văn Đại và Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam - Quan hệ dân sự, lao động, thương mại
có yếu tố nước ngoài, Nxb Chính trị Quốc gia, 2010, tr 183 và tiếp theo.
không? Cụm từ: “Tranh chấp trong hoạt
động đầu tư kinh doanh tại đặc khu được
giải quyết theo” có thể cho phép chúng
ta khẳng định rằng, Dự thảo Luật không sử
dụng tiêu chí nơi hiện diện của các chủ thể
để xác định vị trí địa lý của tranh chấp “tại
đặc khu” mà sử dụng tiêu chí nơi thực hiện
việc đầu tư kinh doanh. Nếu đúng như vậy
thì quy định này khác với tiêu chí được sử
dụng tại Điều 6. Theo chúng tôi, khoản 1
Điều 6 là rõ ràng và phù hợp hơn khi quy
định về quyền lựa chọn pháp luật nước ngoài
và tập quán chỉ dành cho các hợp đồng dân
sự, kinh doanh, thương mại, lao động được
ký kết giữa tổ chức, cá nhân có trụ sở chính
hoặc nơi cư trú tại đặc khu. Tinh thần của
Luật Đơn vị HC-KT đặc biệt là dành ưu đãi
cho các chủ thể hiện diện tại các đặc khu để
biến các đặc khu thành trung tâm của tăng
trưởng. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, sử dụng
tiêu chí chủ thể hiện diện tại đặc khu là phù
hợp hơn và khuyến nghị làm rõ hơn khoản 1
và khoản 2 như sau: “Tranh chấp trong [.]
giữa các tổ chức, cá nhân có trụ sở chính
hoặc nơi cư trú tại đặc khu”.
Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 7 quy
định: “Tranh chấp trong hoạt động đầu tư
kinh doanh tại đặc khu được giải quyết theo
quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật
có liên quan, ĐƯQT, quy định tại các khoản
2, 3 và 4 Điều này”.
Chúng tôi cho rằng cụm từ: “theo quy
định của pháp luật về” là chưa đủ rõ để
xác định đây là quy định về thẩm quyền của
cơ quan giải quyết tranh chấp hay về áp
dụng cho nội dung tranh chấp? Trong trường
hợp muốn khẳng định về thẩm quyền của
cơ quan giải quyết tranh chấp, khoản 1 cần
được viết lại rõ hơn. Ngoài ra, để bảo đảm
thẩm quyền giải quyết tranh chấp bao quát
hết lĩnh vực, cần sửa lại khoản 1 như sau:
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 10(362) T5/2018
“1. Tranh chấp trong hoạt động dân
sự, đầu tư, kinh doanh, lao động tại đặc khu
tùy theo bản chất tranh chấp có thể được
giải quyết theo quy định của pháp luật về
đầu tư, pháp luật có liên quan, ĐƯQT, quy
định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này”.
3.2 Thẩm quyền của tòa án nước ngoài
Khoản 3 Điều 7 quy định: “Ngoài
các cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 2
Điều này, tranh chấp giữa các nhà đầu tư
liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh
tại đặc khu, trong đó có ít nhất một bên là
nhà đầu tư nước ngoài còn có thể được giải
quyết tại Tòa án nước ngoài, trừ tranh chấp
thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của
Tòa án Việt Nam theo quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự”.
Quy định này gián tiếp cho phép các
bên lựa chọn tòa án nước ngoài là phù hợp
với xu thế chung của tư pháp quốc tế hiện
đại vốn có xu hướng ghi nhận và mở rộng
quyền tự do định đoạt của các chủ thể. Tuy
nhiên, cách thể hiện của khoản 3 có thể có
thể dẫn đến cách hiểu là luật Việt Nam quy
định về thẩm quyền của Tòa án nước ngoài.
Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị viết lại khoản
3 như sau:
“3. Ngoài các cơ quan, tổ chức quy
định tại khoản 2 Điều này, tranh chấp giữa
các nhà đầu tư liên quan đến hoạt động đầu
tư kinh doanh tại đặc khu, trong đó có ít nhất
một bên là nhà đầu tư nước ngoài, các bên
còn có thể lựa chọn Tòa án nước ngoài giải
quyết, trừ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải
quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”.
3.3 Công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài
Khoản 5 Điều 7 Dự thảo Luật quy
định: “Bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước
ngoài, Trọng tài quốc tế, Trọng tài do các
bên tranh chấp thỏa thuận thành lập được
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phù
hợp với quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự, ĐƯQT”. Quy định này không có gì
đặc biệt về nội dung mà chỉ là sự dẫn chiếu
tới các văn bản luật khác, vì vậy, chúng tôi
kiến nghị bỏ đoạn này của khoản 5.
Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng, cần
sử dụng khái niệm “trật tự công cộng” thay
cho cụm từ “quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng” trong khoản 5 Điều
7 Dự thảo Luật. Việc sử dụng khái niệm
“trật tự công cộng” phù hợp với Công ước
New York năm 1958 về công nhận và cho
thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài
mà Việt Nam là thành viên■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Quốc Chiến (2017), Xung đột ĐƯQT và hướng giải quyết, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2 (346),
tháng 2/2017, tr. 74-84.
2. Ngô Quốc Chiến (2015), Một vài góp ý đối với Phần thứ 5 Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 11 (331), tr. 61-68.
3. Đỗ Văn Đại và Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam - Quan hệ dân sự, lao động, thương mại có yếu
tố nước ngoài, Nxb Chính trị Quốc gia, 2010.
4. Bùi Thị Thu (2010), Vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong tư pháp quốc tế, trong “Pháp luật Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập”, Hội thảo nhân dịp 30 năm thành lập Trường Đại học Luật Hà Nội./.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 10(362) T5/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_gop_y_doi_voi_cac_quy_dinh_ve_luat_ap_dung_va_co_quan.pdf