Về biện pháp nhắc nhở. Đây là biện
pháp thay thế xử lý người chưa thành niên
VPHC với trình tự, thủ tục bằng lời nói,
ngay tại chỗ20 không lập biên bản VPHC,
không ra quyết định xử phạt. Biện pháp
thay thế XLVPHC đối với người chưa thành
niên thực hiện nhằm giáo dục để người chưa
thành niên nhận thức rõ hành vi nguy hiểm
cho xã hội của mình, nâng cao ý thức pháp
luật và thực hiện nghiêm pháp luật, bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của mình và của
người khác. Về bản chất, biện pháp nhắc nhở
chỉ được áp dụng khi người chưa thành niên
thực hiện hành vi VPHC và phải thỏa mãn
2 điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều
139 Luật năm 2013. Điều này có nghĩa, biện
pháp nhắc nhở chỉ được chủ thể có thẩm
quyền áp dụng khi người chưa thành niên
VPHC, theo quy định vi phạm này sẽ bị xử
phạt cảnh cáo, nhưng do người chưa thành
niên tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi.
Vì vậy, nhắc nhở là biện pháp thay thế xử
phạt VPHC và chỉ áp dụng khi phát sinh
trách nhiệm hành chính, mặc dù không hạn
chế quyền hay lợi ích hợp pháp của người
vi phạm, nhưng vẫn là hình thức mang tính
quyền lực nhà nước nên về trình tự, thủ tục
áp dụng cần rõ ràng, chi tiết để có thể xác
định được đã áp dụng đối với chủ thể nào, do
chủ thể nào áp dụng, áp dụng trong trường
hợp nào, trình tự, thủ tục tiến hành ra sao.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số góp ý hoàn thiện luật xử lý vi phạm hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ GÓP Ý HOÀN THIỆN
LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Tóm tắt:
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2013 đã phát huy được hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước sau bốn năm thi hành. Tuy vậy, một
số quy định của Luật còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định
cần được tiếp tục hoàn thiện.
Trần Quốc Huy*
* ThS. Bộ môn Pháp luật, Đại học An ninh nhân dân.
Abstract
The Law on Handling Administrative Violations of 2013 has
brought its the effectiveness and efficiency of government
management after four years of enforcement. However, a
number of provisions under the Law have also revealed certain
limitations and shortcomings that need to be reviewed for further
improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: phạt tiền, người chưa thành
niên, nhắc nhở.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 02/03/2018
Biên tập : 09/04/2018
Duyệt bài : 16/04/2018
Article Infomation:
Keywords: fines, juvenile, reminder.
Article History:
Received : 02 Mar. 2018
Edited : 09 Apr. 2018
Approved : 16 Apr. 2018
Thể chế hóa chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước về cải cách hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và
cải cách hành chính1, năm 2013, Quốc hội
khóa XIII đã thông qua Luật Xử lý vi phạm
hành chính (XLVPHC) thay thế Pháp lệnh
XLVPHC năm 1989 được sửa đổi, bổ sung
các năm 1995, 2002, 2007, 2008. So với Pháp
lệnh XLVPHC năm 1989, Luật XLVPHC
1 Được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
năm 2013 (Luật năm 2013) đã thiết lập một
khung pháp lý tương đối hoàn thiện, bảo
đảm hiệu quả XLVPHC, nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước. Trong thời gian từ năm
2014 đến năm 2017 đã phát hiện 36.789.227
vụ việc và đã xử phạt 28.493.927 vụ việc
(chiếm 77,45% số vụ vi phạm đã phát hiện);
đã lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính là 105.940 đối tượng và
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 24(376) T12/2018
tổng số đối tượng bị áp dụng là 89.991 đối
tượng (chiếm 85% tổng số đối tượng bị lập
hồ sơ đề nghị)2. Bên cạnh những kết quả,
đóng góp đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội trong thời gian qua, Luật năm 2013 cũng
tồn tại những hạn chế, bất cập gây khó khăn,
vướng mắc trong quá trình áp dụng, ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả phòng ngừa,
phát hiện, ngăn chặn, XLVPHC và làm giảm
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Những
hạn chế, bất cập này đã được Báo cáo số
09/BC-BTP ngày 08/01/2018 về Tổng kết
thi hành Luật XLVPHC chỉ ra như sau: Một
số thuật ngữ quy định còn định tính, chưa
giải thích rõ ràng; cách xác định VPHC đã
kết thúc và VPHC đang thực hiện3; quy định
về việc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban
hành quyết định mới4; thẩm quyền tịch thu
tang vật, phương tiện VPHC bị giới hạn theo
thẩm quyền phạt tiền5; thẩm quyền xử phạt
VPHC; quy định về “đánh bút lục” hồ sơ6;
quy định thời gian tạm giữ tang vật để xác
định giá trị7; quy định về quyền giải trình
đối với trường hợp vi phạm bị áp dụng biện
pháp tịch thu tang vật, phương tiện VPHC
hoặc phương tiện sử dụng trong VPHC8;
quy định về quản lý tang vật, phương tiện
VPHC bị tạm giữ trong trường hợp chuyển
hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để
truy cứu trách nhiệm hình sự9; thời hạn gửi
quyết định xử phạt VPHC10; quy định về
trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giữ
người theo thủ tục hành chính11;
Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng,
2 Bộ Tư pháp, Báo cáo số 09/BC-BTP ngày 08/ 01/ 2018 về Tổng kết thi hành Luật XLVPHC, tr. 8, 9.
3 Điểm b, khoản 1, Điều 6 Luật XLVPHC.
4 Khoản 3, Điều 18 Luật XLVPHC.
5 Từ Điều 38 đến Điều 51 Luật XLVPHC.
6 Điều 57 Luật XLVPHC.
7 Khoản 3, Điều 60 Luật XLVPHC.
8 Khoản 1, Điều 61 Luật XLVPHC.
9 Điều 62 Luật XLVPHC.
10 Điều 70 Luật XLVPHC.
11 Điều 122 Luật XLVPHC.
Luật năm 2013 còn một số hạn chế, bất cập
sau đây:
Một là, mức phạt tiền cụ thể đối với
một hành vi VPHC chưa thực sự hợp lý.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 23
thì mức phạt tiền cụ thể đối với một hành
vi VPHC là mức trung bình của khung tiền
phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu
có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể
giảm xuống nhưng không được giảm quá
mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có
tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể
tăng lên nhưng không được vượt quá mức
tiền phạt tối đa của khung tiền phạt.
Căn cứ Điều 9 thì có 7 tình tiết giảm
nhẹ, Điều 10 thì có 13 tình tiết tăng nặng.
Trong thực tế, khi chủ thể thực hiện hành vi
VPHC có thể có 01 tình tiết tăng nặng hoặc
01 tình tiết giảm nhẹ; có thể rơi vào trường
hợp thực hiện hành vi VPHC vừa có tình tiết
giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng; có thể
rơi vào trường hợp thực hiện hành vi VPHC
có nhiều tình tiết giảm nhẹ, 01 tình tiết tăng
nặng hoặc ngược lại.
Theo quy định, khi chủ thể thực hiện
hành vi VPHC có tình tiết tăng nặng thì tăng
lên (không vượt quá mức tối đa), nếu có tình
tiết giảm nhẹ thì giảm xuống (không thấp
hơn mức tối thiểu). Tuy nhiên, cho đến nay
không có quy định làm căn cứ xác định tăng,
giảm như thế nào là hợp lý. Ví dụ, khi chủ thể
thực hiện hành vi mang tài liệu không được
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 24(376) T12/2018
phép vào phòng thi sẽ bị xử phạt 1.500.000
đồng12 (nếu không có tình tiết tăng nặng và
không có tình tiết giảm nhẹ); nếu có tình
tiết tăng nặng là tiếp tục thực hiện hành vi
VPHC mặc dù người có thẩm quyền đã yêu
cầu chấm dứt hành vi đó13 thì mức xử phạt
là trên 1.500.000 đồng và không vượt quá
2.000.000 đồng nhưng không có căn cứ,
cơ sở để xác định tăng bao nhiêu là hợp lý;
ngược lại khi chủ thể thực hiện hành vi này
có tình tiết giảm nhẹ là đã tự nguyện khai
báo, thành thật hối lỗi14 thì mức xử phạt sẽ
thấp hơn 1.500.000 đồng nhưng không dưới
1.000.000 đồng và cũng không có căn cứ,
cơ sở pháp lý để xác định giảm bao nhiêu là
hợp lý; trong trường hợp chủ thể thực hiện
hành vi này có tình tiết tăng nặng là VPHC
nhiều lần15 và có tình tiết giảm nhẹ là đã tự
nguyện khai báo, thành thật hối lỗi thì mức
xử phạt cụ thể không có căn cứ, cơ sở pháp
lý để xác định là mức phạt tiền trung bình
hay tăng lên, giảm xuống bởi trong trường
hợp này có 01 tình tiết tăng nặng và 01 tình
tiết giảm nhẹ.
Nghị định 81/2013/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 19/7/2013 Quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật năm 2013
không hướng dẫn thực hiện Điều 23 (quy
định chi tiết mức tiền phạt cụ thể đối với
một hành vi VPHC). Do vậy, dễ dẫn đến tình
trạng khi chủ thể thực hiện hành vi VPHC
trong trường hợp có tình tiết tăng nặng thì
mức xử phạt tiền sẽ tăng lên mức tối đa của
12 Điểm a, khoản 3, Điều 13, Nghị định số 138/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/10/2013 về xử phạt VPHC trong lĩnh
vực giáo dục, sẽ xử phạt từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi mang tài liệu, thông tin, vật dụng không
được phép mang vào phòng thi. Cho nên mức trung bình của khung xử phạt là 1.500.000 đồng.
13 Điểm i, khoản 1, Điều 10 Luật XLVPHC.
14 Khoản 2, Điều 9, Luật XLVPHC.
15 Điểm b, khoản 1, Điều 10 Luật XLVPHC.
16 Ví dụ: Không xuất trình chứng minh nhân dân khi có yêu cầu kiểm tra của người có thẩm quyền; Không thực hiện
đúng quy định của pháp luật về cấp mới, cấp lại, đổi chứng minh nhân dân; Không thực hiện đúng quy định của pháp
luật về thu hồi, tạm giữ chứng minh nhân dân khi có yêu cầu của người có thẩm quyền. (khoản 1, Điều 9, Nghị định số
khung tiền phạt. Đồng thời cũng dễ dẫn đến
tình trạng “tùy nghi” trong xác định mức xử
phạt tiền, dẫn đến không bình đẳng giữa các
chủ thể khi bị xử phạt VPHC.
Nếu cho rằng đối với hành vi VPHC
thì mức xử phạt tiền thấp (tương ứng với
những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội
ở mức độ ít nghiêm trọng - mức độ thấp)
nên không cần có hướng dẫn cụ thể mà để
chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi để
xác định mức phạt tiền cụ thể cho phù hợp
thì theo chúng tôi, quan điểm này chưa phù
hợp, vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, thu nhập của mỗi người
không giống nhau, do đó quan niệm xác
định một mức tiền cụ thể là cao hay thấp thật
sự không phù hợp vì với người lao động có
thu nhập cao thì mức tiền được xem là cao
có thể khác với người lao động có thu nhập
thấp, cho nên áp đặt một mức tiền được xem
là “tương đối nhỏ” để cho rằng bất kỳ chủ
thể VPHC nào cũng có thể đáp ứng là sự áp
đặt chủ quan, thiếu cơ sở.
Thứ hai, hiện nay, có nhiều nghị định
xử phạt VPHC được ban hành, làm căn cứ
XLVPHC đối với các chủ thể đã thực hiện
hành vi vi phạm, trong đó xác định khung
xử phạt tiền cũng rất khác nhau khi dựa vào
khách thể bị xâm hại, tính chất, mức độ của
hành vi vi phạm. Có những trường hợp mức
xử phạt chỉ là 100.000 đồng đến 200.000
đồng16, nhưng có trường hợp mức xử phạt
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 24(376) T12/2018
là 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000
đồng17. Trong trường hợp mức xử phạt tiền
từ 500 triệu đồng đến 1 tỷ đồng đối với cá
nhân thì chủ thể là tổ chức sẽ có mức xử phạt
từ 1 tỷ đồng đến 2 tỷ đồng, do đó mức trung
bình là 1,5 tỷ, khi có tình tiết tăng nặng sẽ
tăng lên nhưng không quá 2 tỷ, khi có tình
tiết giảm nhẹ sẽ giảm xuống nhưng không
dưới 1 tỷ. Với mức xử phạt tiền như vậy,
nếu không có hướng dẫn cụ thể thì mức tăng
lên, giảm xuống sẽ không có căn cứ, cơ sở
để xác định mức phù hợp nhất.
Thứ ba, khi không có hướng dẫn chi
tiết để thực hiện Điều 23 mà để chủ thể có
thẩm quyền căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi để xác
định mức tăng lên, giảm xuống cho phù
hợp thì dễ phụ thuộc vào năng lực, trình độ
và cảm tính chủ quan của chủ thể có thẩm
quyền. Theo quy định của Luật năm 2013,
có nhiều chủ thể có thẩm quyền xử phạt
VPHC, trong đó về trình độ, năng lực của
các chủ thể không giống nhau nên không
hướng dẫn chi tiết mà để các chủ thể căn cứ
vào mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi để xác định mức tăng lên, giảm
xuống khi xử phạt dễ dẫn đến cảm tính chủ
quan, không công bằng.
Như vậy, chúng tôi cho rằng, trong
trường hợp này quy định mức phạt tiền cụ
thể đối với một hành vi VPHC cần được quy
định chi tiết trong luật hoặc ủy quyền cho
Chính phủ quy định chi tiết trong nghị định
để áp dụng chính xác, khách quan, công
bằng và đúng mục đích.
Hai là, quy định đối với người chưa
thành niên VPHC.
167/2013/NĐ-CP).
17 Ví dụ: Để xảy ra sự cố hạt nhân trong trường hợp chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự (khoản 4, Điều 19, Nghị
định số 107/2013/NĐ-CP).
Luật năm 2013 có nhiều quy định cụ
thể, chi tiết và tiến bộ nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên,
như: việc lập biên bản đối với người chưa
thành niên VPHC cần phải gửi cho cha mẹ
hoặc người giám hộ; chỉ áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong trường
hợp người chưa thành niên thực hiện hành vi
với lỗi cố ý và đã dành 1 chương riêng
để quy định về các biện pháp áp dụng đối
với người chưa thành niên VPHC. Bên cạnh
đó, một số quy định của Luật năm 2013 về
XLVPHC đối với người chưa thành niên còn
bất cập, gây ảnh hưởng đến kết quả thực thi
trên thực tế, cụ thể là:
Khoản 2 Điều 134 quy định nguyên
tắc: “việc xử lý người chưa thành niên
VPHC còn căn cứ vào khả năng nhận thức
của người chưa thành niên về tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm,
nguyên nhân và hoàn cảnh vi phạm để quyết
định việc xử phạt hoặc áp dụng biện pháp
xử lý hành chính cho phù hợp”. Khi áp dụng
các biện pháp xử phạt, biện pháp thay thế xử
phạt VPHC đối với người chưa thành niên
sẽ có những biện pháp được áp dụng tại chỗ
(xét về thời gian là ngay sau khi người chưa
thành niên bị phát hiện đã thực hiện hành vi
VPHC) nhưng nguyên tắc yêu cầu phải căn
cứ vào khả năng nhận thức của người chưa
thành niên về tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi vi phạm, điều này gây khó khăn
cho chủ thể có thẩm quyền, dễ dẫn đến cảm
tính chủ quan và không khả thi. Bởi muốn
xác định đúng khả năng nhận thức của chủ
thể về tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi vi phạm không chỉ căn cứ vào độ
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 24(376) T12/2018
tuổi, giới tính, trình độ học vấn mà còn phải
căn cứ vào nhiều yếu tố khác, do đó chủ thể
có thẩm quyền không thể xác định chính xác
khả năng nhận thức của người chưa thành
niên về tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi vi phạm trong trường hợp cần phải
xử phạt tại chỗ18.
Khoản 4 Điều 134 quy định: “Trong
quá trình xử lý người chưa thành niên
VPHC, bí mật riêng tư của người chưa thành
niên phải được tôn trọng và bảo vệ”. Tuy
nhiên, thuật ngữ bí mật riêng tư chưa được
giải thích ở bất cứ văn bản pháp luật nào19.
Điều này gây ra khó khăn nhất định cho chủ
thể có thẩm quyền khi XLVPHC do người
chưa thành niên thực hiện. Do đó, để đảm
bảo quyền và lợi ích chính đáng của người
chưa thành niên, cần giải thích thuật ngữ bí
mật riêng tư trong Luật năm 2013. Đồng
thời, nghị định hướng dẫn thi hành cần xác
định rõ phạm vi thông tin là bí mật riêng tư
của chủ thể làm cơ sở cho chủ thể có thẩm
quyền xác định được giới hạn trong áp dụng
biện pháp xử lý để bảo vệ bí mật riêng tư
người chưa thành niên.
Về biện pháp nhắc nhở. Đây là biện
pháp thay thế xử lý người chưa thành niên
VPHC với trình tự, thủ tục bằng lời nói,
ngay tại chỗ20 không lập biên bản VPHC,
không ra quyết định xử phạt. Biện pháp
thay thế XLVPHC đối với người chưa thành
niên thực hiện nhằm giáo dục để người chưa
thành niên nhận thức rõ hành vi nguy hiểm
cho xã hội của mình, nâng cao ý thức pháp
luật và thực hiện nghiêm pháp luật, bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của mình và của
18 Xử phạt cảnh cáo và biện pháp nhắc nhở không cần lập biên bản vi phạm.
19 Điều 38, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Tuy nhiên
cũng không định nghĩa và xác định phạm vi đời sống riêng tư, bí mật cá nhân.
20 Khoản 2, Điều 139 Luật XLVPHC.
21 Điều lệ số 185/TTg ngày 14-7-1952 của Thủ tướng Chính phủ về huy động vả sử dụng nhân công.
người khác. Về bản chất, biện pháp nhắc nhở
chỉ được áp dụng khi người chưa thành niên
thực hiện hành vi VPHC và phải thỏa mãn
2 điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều
139 Luật năm 2013. Điều này có nghĩa, biện
pháp nhắc nhở chỉ được chủ thể có thẩm
quyền áp dụng khi người chưa thành niên
VPHC, theo quy định vi phạm này sẽ bị xử
phạt cảnh cáo, nhưng do người chưa thành
niên tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi.
Vì vậy, nhắc nhở là biện pháp thay thế xử
phạt VPHC và chỉ áp dụng khi phát sinh
trách nhiệm hành chính, mặc dù không hạn
chế quyền hay lợi ích hợp pháp của người
vi phạm, nhưng vẫn là hình thức mang tính
quyền lực nhà nước nên về trình tự, thủ tục
áp dụng cần rõ ràng, chi tiết để có thể xác
định được đã áp dụng đối với chủ thể nào, do
chủ thể nào áp dụng, áp dụng trong trường
hợp nào, trình tự, thủ tục tiến hành ra sao.
Bởi lẽ, nếu áp dụng với hình thức bằng lời
nói, ngay tại chỗ sẽ khó chứng minh chủ thể
có thẩm quyền đã áp dụng biện pháp nhắc
nhở thay thế xử phạt VPHC, đúng đối tượng
và người chưa thành niên chấp hành nghiêm
biện pháp nhắc nhở do người có thẩm quyền
áp dụng. Thực tiễn từ năm 1945 đến nay,
các văn bản quy định về xử phạt VPHC của
nước ta cũng đã từng quy định về hình thức
xử phạt VPHC với hình thức bằng lời nói,
không lập biên bản về không ra quyết định
xử phạt, đó là hình thức phê bình21. Tuy
nhiên, qua thời gian áp dụng không phù hợp
với thực tiễn nên Pháp lệnh XLVPHC năm
1989 không quy định biện pháp này■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 24(376) T12/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_gop_y_hoan_thien_luat_xu_ly_vi_pham_hanh_chinh.pdf