Giải pháp
Dịch Covid 19 khiến người dân
và doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn, nền kinh tế trong mấy tháng
nay lâm vào suy trầm; nhiều doanh
nghiệp phải ngừng sản xuất thiếu
nguyên vật liệu đầu vào nhập từ
Trung Quốc, các ngành dịch vụ
đều sụt giảm doanh thu do khách
du lịch nước ngoài và nội địa đều
giảm mạnh. Trước tình hình đó để
bứt phá mạnh vào 6 tháng cuối
nay khi dịch bệnh qua đi, Chính
phủ cần có những biện pháp thiết
thực cụ thể để hỗ trợ người dân,
doanh nghiệp và cả ngân sách, kiến
nghị Chính phủ cần có những giải
pháp cụ thể như:
- Để đảm bảo nguồn thu trong
năm cho Ngân sách Nhà nước,
Chính phủ nên giãn thuế VAT, thuế
thu nhập doanh nghiệp và bảo hiểm
xã hội cho các doanh nghiệp phải
ngưng sản xuất hoặc sản xuất cầm
chừng do dịch Covid 19 và ảnh
hưởng bởi hạn hán ngập mặn ở
miền Tây;
- Chính phủ chỉ đạo các địa
phương tiết kiệm chống lãng phí
ngưng xây dựng các công trình và
các hoạt động chưa thực sự cần
thiết trong lúc cả nước đang gặp
phải những khó khăn chồng chất do
thiên tai và dịch bệnh;
- Giảm giá xăng, điện;
- Các hoạt động trung gian tài
chính cũng nên chia sẻ khó khăn
với doanh nghiệp và người dân,
các ngân hàng nên chăng giảm lãi
suất và giãn nợ đối với những
ngành và những vùng đang gặp khó khăn do thiên tai
và dịch bệnh;
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của dịch bệnh và thiên tai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
NGHIÊN CỨU – TRAO ĐỔI
MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH BỆNH VÀ THIÊN TAI
Bùi Trinh*
Tóm tắt:
Bắt đầu từ cuối năm 2019, dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid 19 đã bùng phát tại
Vũ Hán, Trung Quốc về đến nay đã lan ra hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của người dân cũng như nền kinh tế toàn cầu. Bài viết
sử dụng mô hình đầu vào - đầu ra (Bảng IO) để phân tích ảnh hưởng của dịch Covid 19 đến
nền kinh tế giữa Trung Quốc và Việt Nam.
1. Cấu trúc bảng IO liên Quốc gia
Việt Nam Trung Quốc
Bảng IO liên quốc gia là sự liên kết các
bảng IO của các quốc gia thông qua giao
dịch thương mại/đầu tư giữa hai nước nhằm
giúp các nhà hoạch định chính sách thấy
được sự ảnh hưởng lẫn nhau trong giao dịch
thương mại/đầu tư.
Trong bảng IO quốc gia theo cách hiểu
cơ bản nhất là sản xuất, giá trị tăng thêm,
nhập khẩu chịu ảnh hưởng của mối quan
hệ liên ngành và nhu cầu cuối cùng; trong
bảng IO liên quốc gia ngoài những ảnh
hưởng trên là ảnh hưởng liên quốc gia. Mô
hình IO liên quốc gia nhằm mục đích đo
lưởng sự biến động về sản xuất hoặc tiêu
dùng của nước này đối với sản xuất và thu
nhập của nước khác. Những ảnh hưởng về
sản xuất của một nước bao gồm:
(i) Ảnh hưởng số nhân (Multiplier
effects) là ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng
gián tiếp gây nên bởi nhu cầu cuối cùng các
sản phẩm được sản xuất tại nước đó.
* Viện nghiên cứu Kinh tế Việt Nam
(ii) Ảnh hưởng ngược liên quốc gia
(Inter-national feedback effects) là ảnh
hưởng về sản xuất của nước A tạo nên bởi
nước B trong quá trình sản xuất sử dụng sản
phẩm của nước A.
(iii) Ảnh hưởng tràn (Spillover effects) là
nhu cầu về nhập khẩu của nước A về sản
phẩm của nước B thay đổi gây nên bởi nhu
cầu cuối cùng của nước A khi sử dụng sản
phẩm của mình. Điều này có nghĩa nhu cầu
cuối cùng sản phẩm được sản xuất trong
nước cũng kích thích hay kìm hãm sản xuất
của nước khác có giao dịch ngoại thương. Khi
nhu cầu cuối cùng tăng sẽ kéo theo sản xuất
tăng từ đó kéo theo nhập khẩu làm chi phí
đầu vào tăng lên. Do đó, ngay cả khi người
Việt Nam dùng hàng Việt Nam vẫn lan tỏa
kích thích sản xuất của nước khác. Chẳng
hạn sản xuất của Việt Nam sử dụng nhiều
sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc làm chi
phí đầu vào sẽ kích thích những ngành sản
xuất ra sản phẩm đó ở Trung Quốc. Nói tổng
quát, sản lượng và giá trị tăng thêm của một
quốc gia được tạo ra có thể do tiêu dùng cuối
cùng của quốc gia khác. Theo Noguera
2
(2012), giá trị tăng thêm này (VA-value
added consumed abroad), được tác giả gọi là
VAX-C. Bart Los Marcel P. Timmer (2018) đề
xuất đo lường VA của nước A khi xuất khẩu
sang nước B cho nhu cầu sản xuất được gọi
là VAX-P. Tổng VA được tạo nên do quan hệ
thương mại song phương VAX-D được Los et
al. (2016) đề cập.
Nghiên cứu này phân rã giá trị sản xuất
(GO) và VA của một nước được tạo ra bởi (1)
nhu cầu cuối cùng nội địa (Gồm tiêu dùng
cuối cùng, đầu tư và xuất khẩu đến các nước
còn lại); (2) nhu cầu sản xuất của một nước
khác, sự lan tỏa này được hiểu khi nước A sử
dụng sản phẩm của nước B cho nhu cầu cuối
cùng sẽ dẫn đến kích thích sản xuất của
nước B, trong quá trình sản xuất quốc gia B
sử dụng sản phẩm của quốc gia A làm chi phí
trung gian (IC) dẫn đến kích thích ngược đến
sản lượng của nước A; (3) nước B sử dụng
sản phẩm của quốc gia A cho nhu cầu cuối
cùng; và (4) ngay khi nước B sử dụng sản
xuất trong nước của chính họ sẽ kéo theo sự
thay đổi về sản xuất của chính nước B, khi
nước B sử dụng sản phẩm của nước A làm
chi phí đầu vào sẽ lan tỏa đến sản lượng của
nước A.
Bảng IO liên quốc gia có cấu trúc giống
như bảng IO liên vùng, nhưng trong khi bảng
IO liên vùng trong một quốc gia miêu tả
luồng nội thương với vùng khác thì bảng IO
liên quốc gia mô tả luồng ngoại thương giữa
một quốc gia với quốc gia khác. Hệ thống IO
của Leontief đã được phát triển thành mô
hình IO liên vùng (hoặc liên quốc gia) bởi
Isard (1951); ý tưởng về mô hình I/O liên
khu vực đã được phát triển bởi Richardson
(1972) và Miyazawa (1976). Mô hình IO liên
khu vực không chỉ mô tả mối quan hệ liên
ngành, mà còn mô tả mối quan hệ liên vùng
thông qua các luồng thương mại giữa vùng
này với vùng khác (bên ngoài). Mô hình liên
khu vực được hoàn thiện bởi Chenery-Moses
(còn được gọi là mô hình Chenery-Moses) và
Miller-Blair (1985). Sơ đồ rút gọn bảng IO
song phương như sau:
Sơ đồ 1: Bảng I/O song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc
Chi phí trung gian Sản phẩm cuối cùng Giá trị sản xuất
(gross output) Việt Nam Trung Quốc Việt Nam Trung Quốc
Tiêu dùng
trung gian
(IC)
Việt Nam Xvv Xvc Yvv Yvc Xv
Trung
Quốc
Xcv Xcc Ycv Ycc Xc
Nhập khẩu từ
phần còn lại
thế giới
(ROW)
MPv MPc Myv Myv
Giá trị tăng
them (VA)
VAv VAC
Tổng chi phí
(gross input)
Xv Xc
Trong sơ đồ trên:
Xvv: IC của Việt Nam sử dụng sản phẩm trong nước;
Xvc: IC của Trung Quốc có đầu vào là sản phẩm của Việt Nam;
3
Xcv: IC của Việt Nam sử dụng đầu vào là sản phẩm của Trung Quốc;
Xcc: IC của Trung Quốc sử dụng sản phẩm sản xuất trong nước;
Yvv: Sử dụng cuối cùng của Việt Nam sử dụng sản phẩm sản xuất trong nước;
Yvc: Sử dụng cuối cùng của Trung Quốc đối với sản phẩm của Việt Nam;
Ycv: Sản phẩm của Trung Quốc cho sử dụng cuối cùng của Việt Nam;
Ycc: sử dụng cuối cùng của Trung Quốc sử dụng sản phẩm sản xuất trong nước;
MPv: Nhập khẩu từ phần còn lại của thế giới cho sản xuất của Việt Nam,
MPc: Nhập khẩu từ phần còn lại của thế giới cho sản xuất của Trung Quốc;
Myv: Nhập khẩu từ phần còn lại của thế giới cho sử dụng cuối cùng của Việt Nam;
Myc: Nhập khẩu từ phần còn lại của thế giới cho sử dụng cuối cùng của Trung Quốc;
VAv, VAc, Xv và Xc là véc tơ VA và GO tương ứng của Việt Nam và Trung Quốc.
2. Ảnh hưởng dịch Covid 19 đến nền kinh tế
của Việt Nam
Một số nghiên cứu cho rằng, đợt bùng phát dịch
bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid 19 đã ảnh hưởng
đến nền kinh tế Trung Quốc. Trong quý I/2020, kinh
tế Trung Quốc có thể thiệt hại lên tới 1.000 tỷ Nhân
dân tệ (143,1 tỷ USD), khoảng 1% GDP của nước
này1. Thiệt hại đầu tiên nhằm vào các ngành dịch vụ
như khách sạn nhà hàng, vận tải, hoạt động vui chơi
giải trí, thương mại Nhưng thiệt hại của các doanh
nghiệp sản xuất thậm chí còn đáng lo ngại hơn. Đối
với một số doanh nghiệp, tác động của dịch bệnh này
có thể là giọt nước cuối cùng làm tràn ly.
Những khó khăn, suy trầm của nền kinh tế Trung
Quốc tác động không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam,
ngoài những khó khăn trực tiếp về các hoạt động
thuộc nhóm ngành dịch vụ thì những khó khăn có bản
hơn đến với khâu sản xuất. Nghiên cứu từ bảng cân
đối liên ngành song phương giữa Việt Nam và Trung
Quốc2 cho thấy trong chi phí trung gian của Việt Nam
có 8% đầu vào được nhập khẩu từ Trung Quốc, trong
khi đó trong chi phí trung gian của Trung Quốc chỉ sử
dụng 0,1% đầu vào là sản phẩm nhập khẩu từ Việt
1
https://baoquocte.vn/chuyen-gia-kinh-te-trung-quoc-quy-
i2020-thiet-hai-gan-1000-ty-nhan-dan-te-do-virus-corona-
109728.html
2
Bảng cân đối liên ngành liên Quốc gia giữa Việt Nam và
Trung Quốc được lập bở nhóm nghiên cứu của Viện nghiên
cứu phát triển Việt Nam cho năm 2016 với 36 ngành
Nam. Điều này phần nào cho thấy
mức độ quan trọng tương đối của
các sản phẩm nhập khẩu từ Trung
Quốc đối với nền sản xuất của Việt
Nam là lớn hơn hẳn chiều ngược lại.
Xét về các yếu tố của cầu cuối
cùng (Final demand) ảnh hưởng
đến sản xuất và thu nhập cho thấy,
chi tiêu dùng cuối cùng của hộ gia
đình ở Việt Nam chiếm tỷ trọng
trong tổng giá trị tăng thêm (GVA)3
cao hơn Trung Quốc đến 20 điểm
phần trăm (56% so với 36%), bù lại
chi tiêu dùng cuối cùng Chính phủ
của Trung Quốc cao hơn Việt Nam 8
điểm phần trăm (14% và 6%). Tuy
nhiên, tổng tiêu dùng cuối cùng của
Trung Quốc trong tổng giá trị tăng
thêm (GVA) vẫn khá thấp so với Việt
Nam (50% so với 62%), trong khi tỷ
trọng xuất khẩu thuần trong GVA
của Việt Nam thậm chí còn cao hơn
Trung Quốc.
Tỷ lệ sản phẩm đầu vào là
nhập khẩu trong IC của Việt Nam
lớn hơn hẳn tỷ lệ này của Trung
3
GDP = GVA + thuế sản phẩm trừ trợ
cấp sản xuất
4
Quốc (0,29 so với 0,08) cho thấy Trung Quốc sản
xuất ra nhiều sản phẩm hỗ trợ tham gia vào IC trong
quá trình sản xuất, trong khi Việt Nam ngoài những
sản phẩm đầu vào là dịch vụ, điện, nước tham gia
vào IC còn hầu như không có bao nhiêu sản phẩm hỗ
trợ tham gia vào IC trong quá trình sản xuất của
mình. Điều này cho thấy lan tỏa từ cầu cuối cùng đến
phía cung của Việt Nam thấp hơn so với lan tỏa đến
nhập khẩu.
Từ bảng IO song phương cũng chỉ ra trong quan
hệ thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam trong
sản xuất cũng có sự khác biệt rất rõ và khá lớn.
Trong IC của Việt Nam có 8% đầu vào được nhập
khẩu từ Trung Quốc, trong khi đó trong IC của Trung
Quốc chỉ sử dụng 0,1% đầu vào là sản phẩm nhập
khẩu từ Việt Nam. Điều này phần nào cho thấy mức
độ quan trọng tương đối của các sản phẩm nhập
khẩu từ Trung Quốc đối với nền sản xuất của Việt
Nam là lớn hơn hẳn chiều ngược lại. Sự lệ thuộc này
rất đáng được lưu tâm.
Nếu chỉ xét về quan hệ thương mại qua đường
tiểu ngạch có thể thấy chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ không những không làm GDP của quý tiếp theo
giảm mà còn tăng, giả sử xuất nhập khẩu qua đường
tiểu ngạch giảm 30%, từ bảng IO song phương cho
thấy GDP của Việt Nam không những không giảm mà
còn tăng khoảng 0,7%.
Theo Hệ thống các tài khoản Quốc gia của Liên
hợp quốc, không có ngành cấp I hoặc cấp II nào là
ngành du lịch, ngành du lịch là tên gọi phân theo cấp
quản lý, ở hầu hết các nước thường lập các tài khoản
vệ tinh về du lịch (Satellite accounts on tourism). Tổng
cục Du lịch Việt Nam công bố ước tính thiệt hại vì dịch
Covid 19 trong 3 tháng sẽ ở mức 5,9 - 7,7 tỷ USD, tập
trung chủ yếu ở thị trường khách Trung Quốc, quốc tế
và nội địa. Với thị trường Trung Quốc, khách du lịch sẽ
giảm 90 - 100%, tương ứng từ 1,7 - 1,9 triệu lượt (1,8
- 2 tỷ USD). Các thị trường quốc tế khác được dự báo
giảm 50 - 70%, tương đương 2 - 2,8 triệu lượt (2,2 - 3
tỷ USD). Thị trường nội địa giảm 50 - 70%, khoảng
10,9 - 15,3 triệu lượt (1,9 - 2,7 tỷ
USD)4. Đối với các ngành liên quan
đến du lịch như khách sạn, nhà
hàng, vận tải, vui chơi - giải trí có
tỷ lệ giá trị tăng thêm so với giá trị
sản xuất (doanh thu) từ 30%. Như
vậy, ảnh hưởng đến giá trị tăng
thêm của các hoạt động liên quan
đến du lịch khoảng 1,8 - 2,3 tỷ
USD, chiếm khoảng 0,8% GDP. Giả
sử lượng khách du lịch Trung Quốc
giảm hết, tổng giá trị tăng thêm
(Gross value added - GVA)5 cũng chỉ
giảm 1,2 - 1,4%.
Tính toán các kịch bản khi có
sự tổn thương về thương mại giữa
2 quốc gia (bảng 1) cho thấy phía
Việt Nam bị ảnh hưởng khá nặng
nề. Trong bảng 1 đưa ra các giả
định khi giảm sút thương mại với
Trung Quốc bất chợt xảy ra sẽ ảnh
hưởng tới tăng trưởng kinh tế như
thế nào? Giả sử nhập khẩu từ
Trung Quốc giảm 5% sẽ khiến GDP
của Việt Nam giảm 0,3%, trong
kịch bản này tổng hòa các yếu tố
GDP có thể giảm 0,8 - 1%. Theo số
liệu ước tính 2 tháng nhập khẩu từ
Trung Quốc giảm 0,4%, 3 tháng
giảm khoảng 1%, cả năm giảm
0,5% sẽ khiến GDP giảm khoảng
0,1% tổng các yếu tố GDP có thể
giảm 0,6% - 0,8%.
Nếu tính cả ảnh hưởng của hạn
hán và xâm nhập mặn của vùng
Đồng bằng sông Cửu Long có thể
4
https://vnexpress.net/du-lich/du-lich-
mat-khoang-7-ty-usd-4051459.html
5
GVA + thuế sản phẩm trừ trợ cấp =
GDP
5
làm GDP giảm sâu hơn. Theo số liệu ước tính ảnh
hưởng của thời tiết khiến nhóm ngành nông lâm thủy
sản giảm khoảng 1%, tính toán từ bảng cân đối liên
ngành liên vùng giữa Đồng bằng sông Cửu Long và
phần còn lại của Việt Nam cho thấy GDP cả nước giảm
khoảng 0,1%. Kết hợp hai yếu tố này có thể kéo giảm
GDP cả nước 0,7% - 0,9%. Giả sử với đà tăng trưởng
như năm 2019 thì tăng trưởng GDP năm 2020 có thể
đạt 6,1% - 6,3%.
Bảng 1: Các kịch bản dự báo yếu tố ảnh hưởng đến
GDP của Việt Nam
STT Kịch bản
Ảnh
hưởng
đến GDP
1 Xuất nhập khẩu tiểu ngạch với
Trung Quốc giảm 30%
+ 0,7%
2 Thiệt hại về doanh thu các
ngành liên quan đến du lịch
5,9 tỷ USD
-1,2%
3 Thiệt hại về doanh thu các
ngành liên quan đến du lịch
7,79 tỷ USD
-1,4%
4 Nhập khẩu từ Trung Quốc cho
sản xuất giảm 0,5%
-0,1%
5 Hạn hán xâm nhập măn làm
nhóm ngành nông lâm thủy
sản giảm 0,1%
-0,1%
6 Ảnh hưởng của các kịch bản 1,
2, 4, 5
-0,7%
7 Ảnh hưởng của các kịch bản 1,
3, 4, 5
-0,9%
Ước tính GDP năm 2020 từ
1,2,4,5
6,3%
Ước tính GDP năm 2020 từ
1,3,4,5
6,1%
Nguồn: Tác giả nghiên cứu và tính toán
3. Giải pháp
Dịch Covid 19 khiến người dân
và doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn, nền kinh tế trong mấy tháng
nay lâm vào suy trầm; nhiều doanh
nghiệp phải ngừng sản xuất thiếu
nguyên vật liệu đầu vào nhập từ
Trung Quốc, các ngành dịch vụ
đều sụt giảm doanh thu do khách
du lịch nước ngoài và nội địa đều
giảm mạnh. Trước tình hình đó để
bứt phá mạnh vào 6 tháng cuối
nay khi dịch bệnh qua đi, Chính
phủ cần có những biện pháp thiết
thực cụ thể để hỗ trợ người dân,
doanh nghiệp và cả ngân sách, kiến
nghị Chính phủ cần có những giải
pháp cụ thể như:
- Để đảm bảo nguồn thu trong
năm cho Ngân sách Nhà nước,
Chính phủ nên giãn thuế VAT, thuế
thu nhập doanh nghiệp và bảo hiểm
xã hội cho các doanh nghiệp phải
ngưng sản xuất hoặc sản xuất cầm
chừng do dịch Covid 19 và ảnh
hưởng bởi hạn hán ngập mặn ở
miền Tây;
- Chính phủ chỉ đạo các địa
phương tiết kiệm chống lãng phí
ngưng xây dựng các công trình và
các hoạt động chưa thực sự cần
thiết trong lúc cả nước đang gặp
phải những khó khăn chồng chất do
thiên tai và dịch bệnh;
- Giảm giá xăng, điện;
- Các hoạt động trung gian tài
chính cũng nên chia sẻ khó khăn
với doanh nghiệp và người dân,
các ngân hàng nên chăng giảm lãi
suất và giãn nợ đối với những
6
ngành và những vùng đang gặp khó khăn do thiên tai
và dịch bệnh;
- Không nên nới lỏng chính sách tiền tệ quá mức.
Tóm lại, dịch Covid 19 những khó khăn và thiệt
hại ai cũng có thể nhìn thấy, nhưng với cách ứng xử
và đối phó với dịch bệnh của Chính phủ Việt Nam
khiến nhận thức của người dân thay đổi rất nhiều.
Thực tế cho thấy tiềm lực của nền kinh tế để phục
hồi của Việt Nam hiện nay là có và tốt hơn giai đoạn
trước, trong giai đoạn 2010-2015 tỷ lệ tiết kiệm so
với GDP thấp hơn tỷ lệ đầu tư so
với GDP khoảng 9 điểm phần trăm
thì giai đoạn 2016-2019 hai tỷ lệ
này là tương đương nhau; như vậy
có thể thấy nếu người dân tin vào
Chính phủ thì ở chu kỳ sản xuất
tiếp theo những doanh nghiệp mới
sẽ ra đời và các doanh nghiệp cũ
sẽ mở rộng sản xuất với tâm thế
khác mang hướng tích cực hơn.
Tài liệu tham khảo:
1. Bùi Trinh (2020), „Nền kinh tế ảnh hưởng trong ngắn hạn‟, Báo Sài gòn đầu tư tài
chính, ngày 3/2/2020;
2. Bui Trinh, Pham Le Hoa (2017), „Comparing the Economic Structure and Carbon Dioxide
Emission between China and Vietnam‟, International Journal of Economics and Financial
Research, Vol. 3, No. 3, pp: 31-38;
3. Bui Trinh & Pham Le Hoa & Bui Chau Giang (2008), Import multiplier in input-output
analysis, Working Papers 23, Development and Policies Research Center (DEPOCEN), Vietnam.
4. Nguyễn Quang Thái, Bùi Trinh (2019), „Nền kinh tế Việt Nam lún sâu vào sự phụ thuộc
với Trung Quốc‟, Thời báo kinh tế Sài Gòn, ngày 29/11/2019;
5. K.M Kim, Francisco Secretario, Bui Trinh, Hidefumi Kaneko (2011), „Developing a
Bilateral Input-Output Table in the Case of Thailand and Vietnam: Methodology and
Applications‟, WP, 19th International Input-Output Conference;
6. To Trung Thanh & Nguyen Viet Phong & Bui Trinh (2016), „Some Comparisons between
the Vietnam and China Economic Structure, Policy Implications‟, Advances in Management and
Applied Economics, SCIENPRESS Ltd, vol. 6(3), pages 1-8;
7. Các trang web
https://baoquocte.vn/chuyen-gia-kinh-te-trung-quoc-quy-i2020-thiet-hai-gan-1000-ty-
nhan-dan-te-do-virus-corona-109728.html, truy cập ngày 01/3/2020;
https://vnexpress.net/du-lich/du-lich-mat-khoang-7-ty-usd-4051459.html, truy cập ngày
10/2/2020;
https://baomoi.com/can-giam-gia-xang-dien-de-ho-tro-doanh-nghiep-trong-dich-covid-
19/c/34020765.epi, truy cập ngày 20/2/2020;
https://vnexpress.net/gdp-quy-i-tang-thap-nhat-11-nam-4075707.html, truy cập ngày
27/3/2020.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_ket_qua_nghien_cuu_anh_huong_cua_dich_benh_va_thien_t.pdf