Thương mại hóa kết quả nghiên cứu
Quy định hiện hành về việc chuyển
giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn còn
mang tính nguyên tắc, chưa thực sự đủ
mạnh và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn
phục vụ cho mục tiêu đẩy mạnh thương
mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ sử dụng ngân sách
nhà nước, o đó phần nào hạn chế việc đa
dạng hóa nguồn cung công nghệ, phát triển
nguồn cầu công nghệ cho thị trường
KH&CN.
Theo quy định pháp luật hiện hành, tổ
chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN
có sử dụng ngân sách nhà nước được ưu
tiên đứng tên chủ sở hữu kết quả thực hiện
nhiệm vụ đó. Tuy nhiên, thực tế nhiều tổ
chức chủ trì sau khi được nghiệm thu kết
quả, vì nhiều lý do đã không tiến hành các
biện pháp cần thiết để thương mại hóa kết
quả đó. Quy định về chuyển giao kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước
tại Điều 40 Luật Chuyển giao công nghệ
chỉ mang tính nguyên tắc, vì vậy thực tế thi
hành bộc lộ nhiều hạn chế. Đây cũng là
một phần nguyên nhân nhiều kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ sử dụng ngân sách nhà nước ở trong
tình trạng không được khai thác, trong khi
nhiều doanh nghiệp mong muốn nhận
chuyển giao để đưa vào ứng dụng, sản
xuất, thành lập doanh nghiệp KH&CN,.
Cần nghiên cứu để đưa ra quy định
buộc tổ chức chủ trì trong thời hạn nhất
định nếu không báo cáo việc ứng ụng
hoặc không triển khai thương mại hóa kết
quả nghiên cứu, Nhà nước sẽ giao quyền
sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu
cho tổ chức khác để thương mại hóa. Điều
này cũng ành ưu tiên giao quyền sở hữu,
quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ tạo ra từ ngân
sách nhà nước cho tổ chức, cá nhân thực
hiện dự án khởi nghiệp công nghệ, ươm tạo
doanh nghiệp KH&CN, vốn là những chủ
thể có nhu cầu và năng lực thương mại hóa
công nghệ.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện luật Chuyển giao công nghệ qua thực tiễn triển khai thi hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017
70
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
Luật Chuyển giao công nghệ qua thực tiễn triển khai thi hành
Some petitions for completing The Law on Technology Transfer through practical
implemenation
ThS. Nguyễn Ngọc Vinh
Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ
Nguyen Ngoc Vinh, M.A.
Department of Legislation, Ministry of Science and Technology
Tóm tắt
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Chuyển giao công
nghệ, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Qua 10 năm triển khai thực hiện, Luật đã góp phần thúc
đẩy hoạt động đổi mới và chuyển giao công nghệ trong nước. Tuy nhiên, trước thay đổi nhanh chóng
của thực tiễn phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, Luật Chuyển giao công nghệ sau một thập kỷ đi
vào cuộc sống đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập.
Dự án Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì soạn thảo đã được
trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ hai và dự kiến thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV
(Tháng 6/2017). Đây là cơ hội tốt để khắc phục những điểm còn tồn tại của Luật, đặc biệt đối với vấn đề
phát triển thị trường khoa học và công nghệ, quản lý hợp đồng chuyển giao công nghệ, quản lý công
nghệ trong các dự án đầu tư và thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Từ khóa: chuyển giao công nghệ, thị trường khoa học và công nghệ, thương mại hóa, khởi nghiệp công
nghệ, tổ chức trung gian.
Abstract
On November 29
th
, 2006, at the 10
th
session, the 11
th
National Assembly passed the Law on Technology
Transfer, effective from July 1
st
2007. After 10 years of implementation, the Law has contributed to
promoting the renewal and technology transfer in the country. However, before the rapid change of the
country's development and international integration, the Law has exposed some shortcomings.
The Draft Law on Technology Transfer (amended), drafted by the Ministry of Science and Technology,
was submitted to the 2
nd
session of National Assembly for getting feedbacks and is expected to be
adopted at the 3
rd
session of the 14
th
National Assembly (June 2017). This is a good opportunity to
overcome the shortcomings of the Law, especially on science and technology market development,
management of technology transfer contracts, technology management in investment projects and
commercialization of research results./.
Keywords: technology transfer, science and technology market, commercialization, technology start-up,
intermediary organization.
NGUYỄN NGỌC VINH
71
Dự án Luật Chuyển giao công nghệ
(sửa đổi) do Bộ Khoa học và Công nghệ
chủ trì soạn thảo đã được trình Quốc hội
cho ý kiến tại kỳ họp thứ hai và dự kiến
thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa
XIV (Tháng 6/2017).
Qua 10 năm triển khai thực hiện, Luật
đã góp phần thúc đẩy hoạt động đổi mới và
chuyển giao công nghệ trong nước, ứng
dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ
(KH&CN) trong sản xuất và đời sống, từng
bước giúp cải thiện năng lực công nghệ của
doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trước thay đổi nhanh chóng
của thực tiễn phát triển đất nước và hội
nhập quốc tế, Luật Chuyển giao công nghệ
sau một thập kỷ đi vào cuộc sống đã bộc lộ
một số vướng mắc, bất cập, một số nội
dung không còn cập nhật mà trở nên lạc
hậu so với xu thế cải cách, đổi mới trong
phát triển kinh tế, không đáp ứng được nhu
cầu hình thành và phát triển thị trường
KH&CN.
Bên cạnh đó, thực tiễn phát triển kinh
tế - xã hội trong nước cũng đặt ra yêu cầu
mới trong công tác quản lý công nghệ,
thẩm định công nghệ các dự án đầu tư,
thách thức đối với cơ quan quản lý nhà
nước trong việc bảo đảm môi trường kinh
doanh thuận lợi, thông thoáng, thu hút đầu
tư nước ngoài để gia tăng nguồn lực phát
triển đất nước, đồng thời phải kiểm soát
được thực trạng công nghệ, đặc biệt là
công nghệ trong các dự án đầu tư để gìn
giữ môi trường và phát triển bền vững.
1. Phát triển thị trường KH&CN
Tại Việt Nam, thị trường KH&CN
chưa có cơ chế đủ mạnh để thúc đẩy gắn
kết hữu cơ hoạt động nghiên cứu và phát
triển của các viện, các trường đại học với
hoạt động đổi mới công nghệ tạo ra những
sản phẩm mới, công nghệ cao, có tính ứng
dụng trong thực tiễn phục vụ nhu cầu sản
xuất, kinh doanh.
Luật Chuyển giao công nghệ được ban
hành năm 2006 vào đúng thời điểm đánh
dấu bước tiến quan trọng trong hội nhập
khi Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của WTO. Tuy nhiên sau 10 năm triển
khai thực hiện, Luật này đã bộc lộ nhiều
hạn chế. Một số vấn đề mới phát sinh trong
quá trình triển khai thực hiện Luật Chuyển
giao công nghệ liên quan đến thị trường
KH&CN chưa được giải quyết, chẳng hạn
như việc thành lập các sàn giao dịch công
nghệ quốc gia, sàn giao ịch công nghệ
trực tuyến liên thông toàn quốc, cổng thông
tin quốc gia khởi nghiệp công nghệ, khu
làm việc chung cho khởi nghiệp công nghệ,
hỗ trợ hoạt động cho tổ chức, cá nhân khởi
nghiệp công nghệ,...
Nhằm tạo lập môi trường pháp lý cho
hoạt động của thị trường KH&CN, Bộ
KH&CN đã trình Thủ tướng Chính phủ
phê uyệt Đề án Phát triển thị trường công
nghệ tại Quyết định số 214/2005/QĐ-TTg
ngày 30/8/2005. Có thể nói, Quyết định số
214/2005/QĐ-TTg đã tạo ra một cơ chế
khá thông thoáng cho sự phát triển các yếu
tố và hạ tầng của thị trường công nghệ ở
Việt Nam trong nhiều năm qua và thời gian
sắp tới trong các khâu như ươm tạo công
nghệ, nhập khẩu giải mã, làm chủ công
nghệ và chuyển giao công nghệ. Các tổ
chức trung gian hoạt động trong lĩnh vực
ịch vụ KH&CN gồm tư vấn, môi giới và
xúc tiến công nghệ, hỗ trợ thiết kế và chế
tạo thử nghiệm, chuyển giao, đánh giá,
thẩm định và giám định công nghệ, tư vấn,
giám định sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn kỹ
thuật và đảm bảo chất lượng đã được quan
tâm xây ựng và phát triển,...
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy,
hoạt động các tổ chức trung gian còn chưa
M T SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN LUẬT CHUYỂN GIAO CÔNG NGH QUA THỰC TIỄN
72
hiệu quả o thiếu hạ tầng kỹ thuật, nhân
lực, thông tin, cơ sở ữ liệu công nghệ, ữ
liệu về chuyên gia công nghệ, nhà đầu tư
tiềm năng,... Trong cơ cấu của các tổ chức
trung gian, các sàn giao ịch công nghệ
quốc gia được xem là trụ cột và cũng là
một tổ chức trung gian rất quan trọng của
thị trường, vì đó là nơi cung cấp nguồn
cung, kết nối nguồn cầu và các tổ chức
trung gian khác để hình thành mạng lưới
các tổ chức trung gian, cung cấp các ịch
vụ trung gian chuyên nghiệp với quy mô
quốc gia và quốc tế. Mặc ù việc đầu tư
xây ựng các sàn giao ịch công nghệ quốc
gia đã được nêu trong Quyết định số
2075/QĐ-TTg ngày 08/11/2013 của Thủ
tướng Chính phủ phê uyệt Chương trình
phát triển thị trường KH&CN đến năm
2020, nhưng hạn chế về phạm vi hỗ trợ của
Chương trình là một trong những nguyên
nhân đã làm chậm lại việc thiết lập các sàn
giao ịch quốc gia và sự hình thành các
động lực phát triển của thị trường.
Cùng với sàn giao dịch công nghệ
quốc gia, sàn giao ịch công nghệ trực
tuyến liên thông toàn quốc, cổng thông tin
quốc gia hệ sinh thái khởi nghiệp công
nghệ, khu làm việc chung cho khởi nghiệp
công nghệ cũng có ý nghĩa quan trọng
trong việc thúc đẩy phát triển thị trường
KH&CN, đó là việc tạo ra các đầu mối và
không gian thông tin, nguồn lực để có thể
hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
khởi nghiệp công nghệ một cách hiệu quả
nhất, đồng thời tạo ra môi trường trực
tuyến và thực tế để thúc đẩy giao dịch công
nghệ trực tuyến quy mô toàn quốc, để các
thành phần trong hệ thống khởi nghiệp
công nghệ có thể liên kết, hỗ trợ lẫn nhau
và qua đó thúc đẩy phát triển thị trường
KH&CN. Tuy nhiên, giống như các sàn
giao dịch công nghệ quốc gia, việc thiết lập
và phát triển các sàn giao dịch công nghệ
trực tuyến cũng cần có sự hỗ trợ của Nhà
nước ngay từ giai đoạn đầu. Điều đó cho
thấy sự cần thiết phải sửa đổi Luật Chuyển
giao công nghệ về cơ chế hỗ trợ các tổ
chức trung gian của thị trường KH&CN, để
từ đây tăng cường hỗ trợ đầu tư từ nguồn
ngân sách nhà nước dành cho KH&CN và
huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để
xây dựng, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật và
thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực,
hiệu quả hoạt động cho các tổ chức này.
Cùng với đó, Luật Chuyển giao công nghệ
cũng cần có những quy định cụ thể về
những loại hình tổ chức trung gian của thị
trường KH&CN nhằm xác định đúng đối
tượng được hưởng ưu đãi từ chính sách của
Nhà nước.
Trong thị trường KH&CN, doanh
nghiệp khởi nghiệp công nghệ là những
doanh nghiệp mới thành lập dựa trên việc
áp dụng các kết quả nghiên cứu, các công
nghệ để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ
mới, có giá trị gia tăng cao trên thị trường.
Nếu thành công, các doanh nghiệp này sẽ
trở thành các doanh nghiệp KH&CN mạnh,
mang lại giá trị kinh tế cao với nguồn lực
lớn trong việc tạo ra nhiều công ăn việc
làm chất lượng cao cho xã hội. Ở các nước
trên thế giới, các doanh nghiệp khởi nghiệp
thành công có thể kể đến Facebook,
Google, Apple với giá trị doanh nghiệp lên
đến hàng chục tỷ USD. So với các giao
ịch công nghệ truyền thống với giá trị mỗi
giao ịch khoảng một vài tỷ đến một vài
chục tỷ đồng (khoảng một vài trăm nghìn
USD) thì giao ịch cổ phần tại oanh
nghiệp khởi nghiệp công nghệ có thể lên
đến hàng chục, hàng trăm triệu và là
hình thức giao ịch công nghệ mới, hiệu
NGUYỄN NGỌC VINH
73
quả trên thị trường công nghệ thế giới.
Tuy nhiên, trước khi đến với những
thành công, oanh nghiệp khởi nghiệp
công nghệ cũng gặp khá nhiều rủi ro, từ rủi
ro về công nghệ, thị trường đến rủi ro về
vốn, o sản phẩm mà các oanh nghiệp này
đưa đến thị trường là các sản phẩm hay
ịch vụ mới, nhu cầu nguồn vốn lớn vì
phát triển nhanh, chiếm lĩnh thị trường
mới, nếu đang phát triển giữa chừng mà
thiếu vốn, oanh nghiệp đó sẽ không thể
tồn tại được. Vậy, để phát triển được loại
hình oanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ,
rất cần có những hỗ trợ ban đầu cho các
oanh nghiệp này, nói cách khác, cần một
môi trường, một hệ thống các thành phần
của oanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ
ổn định.
Ở Việt Nam cũng có những doanh
nghiệp khởi nghiệp công nghệ thành công
như VinaGames, Vatgia với giá trị doanh
nghiệp lên đến hàng triệu USD. Tuy nhiên,
số doanh nghiệp này không nhiều và hơn
nữa họ còn gặp không ít khó khăn về môi
trường pháp lý, về hệ thống thông tin cùng
với sự thiếu vắng các định chế trung gian
hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp công
nghệ phát triển, như các cơ sở ươm tạo
doanh nghiệp KH&CN, khu không gian
làm việc chung, tổ chức thúc đẩy kinh
doanh, các chuyên gia, huấn luyện viên
khởi nghiệp. Đặc biệt, trong hệ thống pháp
lý chưa có các định nghĩa và các ưu đãi
dành cho doanh nghiệp khởi nghiệp công
nghệ. Vốn đầu tư mạo hiểm, một trong
những yếu tố quan trọng nhất để tạo nên
thành công của các doanh nghiệp khởi
nghiệp lại đang khan hiếm. Hiện tại mới
chỉ có 3-4 quỹ đầu tư tư nhân của nước
ngoài có hoạt động đầu tư cho khởi nghiệp
công nghệ ở Việt Nam nhưng hầu hết ưới
dạng văn phòng đại diện, chưa thực sự có
quỹ đầu tư khởi nghiệp được thành lập ở
Việt Nam. Các nhà đầu tư cũng mới chỉ
tham gia vào các lĩnh vực quay vòng vốn
nhanh như thương mại điện tử, games và
chưa thực sự quan tâm đến các lĩnh vực
công nghệ quan trọng khác như công nghệ
sinh học, vật liệu mới. Trong các văn bản
pháp luật, chính sách, các hình thức đầu tư
mạo hiểm từ xã hội như quỹ đầu tư mạo
hiểm, nhà đầu tư cá nhân (đầu tư thiên
thần), hình thức gọi vốn cộng đồng, tập
đoàn, công ty đầu tư khởi nghiệp vẫn chưa
được công nhận và khuyến khích phát triển.
Hoạt động khuyến khích, hỗ trợ của
Nhà nước như quy định tại Điều 34 của
Luật Chuyển giao công nghệ chưa giải
quyết được những khó khăn, vướng mắc
của tổ chức trung gian, cũng như chưa bao
hàm được loại hình trung gian mới là các
tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ, chưa
hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp
công nghệ. Để tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho doanh nghiệp khởi nghiệp
công nghệ, cần nghiên cứu sửa đổi Luật
Chuyển giao công nghệ theo hướng:
Thứ nhất, hỗ trợ doanh nghiệp hoàn
thiện, thử nghiệm, thương mại hóa công
nghệ; ành ưu đãi cho tổ chức, cá nhân
khởi nghiệp công nghệ tương tự như ành
cho doanh nghiệp KH&CN; cho phép các
quỹ phát triển KH&CN, quỹ đổi mới công
nghệ, tổ chức tín dụng nhận bảo đảm bằng
quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền tài
sản phát sinh từ kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ, đối tượng sở
hữu trí tuệ làm tài sản bảo đảm trong giao
dịch vay vốn đầu tư cho các ự án
KH&CN, khởi nghiệp công nghệ, phát
triển sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, Nhà nước khuyến khích tổ
chức, cá nhân đầu tư cho khởi nghiệp công
nghệ thông qua chính sách ưu đãi về thuế
M T SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN LUẬT CHUYỂN GIAO CÔNG NGH QUA THỰC TIỄN
74
thu nhập, hỗ trợ vốn ban đầu của quỹ đầu
tư khởi nghiệp công nghệ quốc gia và huy
động vốn đầu tư tiếp theo từ doanh nghiệp,
tổ chức tài chính, tín dụng và xã hội cho
khởi nghiệp công nghệ.
2. Quản lý hợp đồng chuyển giao
công nghệ
Hoạt động chuyển giao công nghệ
được điều chỉnh lần đầu tiên tại Pháp lệnh
về chuyển giao công nghệ nước ngoài vào
Việt Nam năm 1988. Việc quản lý hợp
đồng chuyển giao công nghệ được Pháp
lệnh quy định khá chặt chẽ tại Điều 13:
“Hợp đồng chuyển giao công nghệ chỉ có
hiệu lực sau khi được chuẩn y.”
Năm 2006, Luật Chuyển giao công
nghệ được ban hành thay thế Pháp lệnh về
chuyển giao công nghệ nước ngoài vào
Việt Nam với tư tưởng mở cửa để phù hợp
với xu thế hội nhập quốc tế của đất nước.
Việc quản lý hợp đồng chuyển giao công
nghệ được điều chỉnh thông thoáng hơn
theo hướng tự nguyện của các bên giao kết,
như Khoản 1 Điều 25 Luật Chuyển giao
công nghệ năm 2006 có ghi: “Các bên
tham gia giao kết hợp đồng chuyển giao
công nghệ có quyền đăng ký hợp đồng
chuyển giao công nghệ tại cơ quan quản lý
nhà nước về khoa học và công nghệ có
thẩm quyền làm cơ sở để được hưởng các
ưu đãi theo quy định”.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai, thi
hành thời gian qua cũng làm bộc lộ một số
hạn chế của Luật Chuyển giao công nghệ
năm 2006. Với cách thức quản lý như hiện
nay, cơ quan quản lý nhà nước vẫn không
nắm được thực trạng, đối tượng công nghệ
được chuyển giao, giá trị công nghệ nhập
khẩu, chuyển giao. Điều này làm ảnh
hưởng đến việc đánh giá thực trạng công
nghệ, chuyển giao công nghệ trong các
ngành, các lĩnh vực cũng như cung cấp
những số liệu phục vụ hoạch định chính
sách. Việc chuyển giao công nghệ không
bắt buộc phải đăng ký với Nhà nước, khiến
cho cơ quan chức năng của nhà nước trở
nên thiếu cơ sở thực tiễn để đề xuất chính
sách phù hợp nhằm tạo môi trường bình
đẳng trong hoạt động chuyển giao công
nghệ, góp phần tập trung thu hút công nghệ
tiên tiến chuyển giao vào Việt Nam, ngăn
chặn hành vi chuyển lợi nhuận qua hoạt
động chuyển giao công nghệ. Ngoài ra,
mặc dù với quy định phương thức đăng ký
hợp đồng tự nguyện, tạo mọi điều kiện
trong hoạt động chuyển giao công nghệ,
nhưng kết quả chuyển giao công nghệ thời
gian qua còn hạn chế nếu không muốn nói
là không đạt được các mục tiêu đề ra.
Trong số các hợp đồng chuyển giao
công nghệ thuộc các dự án F I được cấp
đăng ký, phần lớn là hợp đồng sửa đổi, bổ
sung của các Công ty 100% vốn nước
ngoài. Những hợp đồng chuyển giao công
nghệ này không phải là những hợp đồng
mới, do vậy số công nghệ chuyển giao
trong giai đoạn này thực chất không nhiều.
Nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu là nâng
mức phí chuyển giao công nghệ lên và gia
hạn hợp đồng chuyển giao công nghệ. Tuy
nhiên, số liệu này cũng chỉ dựa trên những
hợp đồng chuyển giao công nghệ đã đăng
ký với cơ quan quản lý nhà nước, còn thực
tế việc chuyển giao giữa các tổ chức, cá
nhân như thế nào, cơ quan quản lý không
thể nắm được chính xác do không có số
liệu báo cáo, thống kê đầy đủ. Do vậy, chủ
trương quản lý thông thoáng để thu hút
chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào
Việt Nam cũng cần được soát xét lại.
Luật Chuyển giao công nghệ 2006 cũng
khuyến khích việc doanh nghiệp đăng ký
NGUYỄN NGỌC VINH
75
hợp đồng chuyển giao công nghệ để được
hưởng ưu đãi, tuy nhiên, chính sách ưu đãi
này không có trong thực tiễn do chưa được
quy định cụ thể. Vì vậy, các doanh nghiệp
cũng không chủ động để tiến hành đăng ký
hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Cũng chính từ cơ chế quá mở trong
quản lý hợp đồng chuyển giao công nghệ
thời gian qua, đã xuất hiện hiện tượng
chuyển giá qua chuyển giao công nghệ.
Điều này cho thấy đã có những lỗ hổng
trong chính sách quản lý đối với hoạt động
chuyển giao công nghệ.
Từ những lý o nêu trên, cần phải
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về
nghĩa vụ đăng ký hợp đồng chuyển giao
công nghệ để tạo môi trường bình đẳng
trong hoạt động chuyển giao công nghệ,
góp phần tập trung thu hút công nghệ tiên
tiến chuyển giao vào Việt Nam, đồng thời
giúp cơ quan quản lý nhà nước nắm được
thực trạng chuyển giao công nghệ của từng
luồng (chuyển giao công nghệ trong nước,
từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt
Nam ra nước ngoài). Trên cơ sở đó giúp
cung cấp những luận cứ khoa học và thực
tiễn để đưa ra các quy định, chính sách phù
hợp về chuyển giao công nghệ tại Việt
Nam, đặc biệt là chuyển giao công nghệ từ
nước ngoài để bảo đảm công nghệ nhập
khẩu đúng định hướng, tránh nhập khẩu
công nghệ lạc hậu, gây tác động tiêu cực
đến môi trường và bên cạnh đó, làm giảm
đi sức ép cạnh tranh của oanh nghiệp Việt
Nam trong giai đoạn hội nhập sâu và rộng
như hiện nay.
Việc sửa đổi quy định về quản lý hợp
đồng chuyển giao công nghệ sẽ góp phần
hình thành nên hệ thống cơ sở ữ liệu
thông tin về công nghệ, kết nối với cổng
thông tin quốc gia để chia sẻ thông tin. Qua
đó có cơ sở trong việc đánh giá thực trạng
hoạt động chuyển giao công nghệ trong
từng giai đoạn, cung cấp luận cứ để điều
chỉnh chính sách nhập khẩu, chuyển giao
công nghệ phù hợp với thực tiễn.
3. Quản lý công nghệ trong các dự án
đầu tư
Theo thực tế quản lý công nghệ và
chuyển giao công nghệ hiện nay, cơ quan
quản lý nhà nước về KH&CN chỉ quản lý
phần ngọn vì khi chủ đầu tư hoặc đối tác
nước ngoài liên doanh hoặc đầu tư 100%
vốn tại Việt Nam nộp hồ sơ đề nghị cấp
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư thì phần
công nghệ, thiết bị, máy móc của dự án
thường bị xem nhẹ, và các cơ quan quản lý
nhà nước về KH&CN rất ít khi được hỏi ý
kiến. Chính vì vậy, cơ quan quản lý nhà
nước về KH&CN không nắm được luồng
công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam
ngay từ khâu đầu vào, trừ những dự án đầu
tư có điều kiện và những dự án đầu tư o
Thủ tướng chấp thuận chủ trương đầu tư,
còn lại chỉ đến khi dự án được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư, các bên lập
hợp đồng chuyển giao công nghệ để đăng
ký thì cơ quan quản lý nhà nước về
KH&CN mới biết và đến thời điểm này thì
dù là công nghệ hiện đại hay lạc hậu thì
nhà đầu tư cũng đã được cấp Giấy chứng
nhận đầu tư rồi.
Để góp phần hạn chế việc nhập khẩu,
sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, Luật
KH&CN (Khoản 2 Điều 46) đã quy định:
“Dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh
tế - xã hội phải được thẩm định về cơ sở
khoa học, trình độ công nghệ đáp ứng yêu
cầu theo quy định của pháp luật trước khi
phê duyệt”. Như vậy, theo Luật KH&CN,
mọi dự án đầu tư đều phải được thẩm định
về cơ sở KH&CN. Tuy nhiên Luật Đầu tư
ban hành sau Luật KH&CN chỉ quy định
việc thẩm định được thực hiện đối với dự án
M T SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN LUẬT CHUYỂN GIAO CÔNG NGH QUA THỰC TIỄN
76
đầu tư có sử dụng công nghệ thuộc danh
mục hạn chế chuyển giao. Theo nguyên tắc
quy định tại Khoản 3 Điều 156 Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật: “Trong
trường hợp các văn bản quy phạm pháp
luật do cùng một cơ quan ban hành có quy
định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp
dụng quy định của văn bản quy phạm pháp
luật ban hành sau”. Trong trường hợp này,
Luật Đầu tư được ưu tiên áp ụng, tuy
nhiên lại không quy định chặt chẽ như Luật
KH&CN dẫn đến việc kiểm soát công nghệ
trong các dự án đầu tư gặp khó khăn. Vì
vậy, để góp phần hạn chế việc nhập khẩu,
sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, cần
nghiên cứu để quy định nội dung về bắt
buộc thẩm định công nghệ đối với các dự án
đầu tư, đặc biệt đối với các dự án đầu tư sử
dụng công nghệ thuộc danh mục hạn chế
chuyển giao và các dự án đầu tư có nguy cơ
tác động xấu đến môi trường.
Quy định về thời hạn có ý kiến về
công nghệ theo quy định của Luật Đầu tư
cũng chưa thật sự hợp lý (15 ngày kể ngày
nhận được hồ sơ lấy ý kiến). Trên thực tế,
đối với những dự án có nội dung công nghệ
phức tạp đòi hỏi phải lấy ý kiến chuyên gia
nước ngoài hoặc tổ chức hội đồng thẩm
định thì thời hạn 15 ngày để có ý kiến về
công nghệ dự án đầu tư là không khả thi.
4. Thương mại hóa kết quả nghiên cứu
Quy định hiện hành về việc chuyển
giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn còn
mang tính nguyên tắc, chưa thực sự đủ
mạnh và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn
phục vụ cho mục tiêu đẩy mạnh thương
mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ sử dụng ngân sách
nhà nước, o đó phần nào hạn chế việc đa
dạng hóa nguồn cung công nghệ, phát triển
nguồn cầu công nghệ cho thị trường
KH&CN.
Theo quy định pháp luật hiện hành, tổ
chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN
có sử dụng ngân sách nhà nước được ưu
tiên đứng tên chủ sở hữu kết quả thực hiện
nhiệm vụ đó. Tuy nhiên, thực tế nhiều tổ
chức chủ trì sau khi được nghiệm thu kết
quả, vì nhiều lý do đã không tiến hành các
biện pháp cần thiết để thương mại hóa kết
quả đó. Quy định về chuyển giao kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước
tại Điều 40 Luật Chuyển giao công nghệ
chỉ mang tính nguyên tắc, vì vậy thực tế thi
hành bộc lộ nhiều hạn chế. Đây cũng là
một phần nguyên nhân nhiều kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ sử dụng ngân sách nhà nước ở trong
tình trạng không được khai thác, trong khi
nhiều doanh nghiệp mong muốn nhận
chuyển giao để đưa vào ứng dụng, sản
xuất, thành lập doanh nghiệp KH&CN,...
Cần nghiên cứu để đưa ra quy định
buộc tổ chức chủ trì trong thời hạn nhất
định nếu không báo cáo việc ứng ụng
hoặc không triển khai thương mại hóa kết
quả nghiên cứu, Nhà nước sẽ giao quyền
sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu
cho tổ chức khác để thương mại hóa. Điều
này cũng ành ưu tiên giao quyền sở hữu,
quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ tạo ra từ ngân
sách nhà nước cho tổ chức, cá nhân thực
hiện dự án khởi nghiệp công nghệ, ươm tạo
doanh nghiệp KH&CN, vốn là những chủ
thể có nhu cầu và năng lực thương mại hóa
công nghệ.
Việc sửa đổi, tháo gỡ những vướng
mắc nhằm hoàn thiện Luật Chuyển giao
công nghệ sẽ tạo môi trường pháp lý thuận
lợi thúc đẩy hoạt động chuyển giao công
NGUYỄN NGỌC VINH
77
nghệ, đổi mới công nghệ, thương mại hóa
và ứng dụng các thành tựu KH&CN hiện
đại, thúc đấy hình thành và phát triển thị
trường KH&CN ở Việt Nam./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Khoa học và Công nghệ (2016), Báo cáo
tổng kết thi hành Luật chuyển giao công nghệ
và đánh giá thực trạng hoạt động chuyển giao
công nghệ.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ (2016), Báo cáo đánh
giá tác động của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật chuyển giao công nghệ.
3. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Chuyển giao công nghệ.
(2016):
/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.asp
x?ItemID=1226&LanID=1280&TabIndex=1.
4. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
(2015), số 80/2015/QH13 ngày 22 tháng 6
năm 2015.
5. Luật Chuyển giao công nghệ (2006), số
80/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006.
6. Luật Đầu tư (2014), số 67/2014/QH1 ngày 26
tháng 11 năm 2014.
7. Luật Khoa học và công nghệ (2013), số
29/2013/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2013.
8. Pháp lệnh về Chuyển giao công nghệ nước
ngoài vào Việt Nam (1988), số 10 –
LCT/HDDNN8 ngày 05 tháng 12 năm 1988.
Ngày nhận bài: 07/02/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_kien_nghi_nham_hoan_thien_luat_chuyen_giao_cong_nghe.pdf