Hạn chế về trang thiết bị, kinh
phí: Trang thiết bị, kinh phí phục vụ hoạt
động này còn hạn hẹp, chưa đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống
tội phạm buôn lậu trong tình hình mới, tương
xứng với thủ đoạn tinh vi của các đối tượng
vi phạm .
Hạn chế trong việc phát huy sức mạnh
tổng hợp: Người đứng đầu cấp uỷ, chính
quyền một số nơi, cơ quan còn chưa quan
tâm, thực sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ
đạo hoạt động kiểm tra, thanh tra, điều tra,
phát hiện xử lý vi phạm pháp luật. Vai trò
của các lực lượng chức năng ở cơ sở còn hạn
chế. Trách nhiệm của một bộ phận cán bộ
chuyên trách, người đứng đầu chưa cao, còn
biểu hiện bao che, thậm chí “bảo kê” cho các
hành vi vi phạm pháp luật; Chưa kết hợp chặt
chẽ giữa tích cực phòng ngừa và chủ động
phát hiện tội buôn lậu.
Qua trình bày, có thể thấy, việc xây
dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm
phải căn cứ trên những nội dụng của các biện
pháp phòng ngừa mang tính chất chung và
đặc điểm riêng của nguyên nhân và điều kiện
tội buôn lậu địa bàn miền Đông Nam Bộ.
Nếu hoạt động phòng ngừa tội phạm không
phù hợp, không thực hiện đồng bộ chặt chẽ
thì nó sẽ trở thành một trong những nguyên
nhân, điều kiện thuận lợi cho tội phạm nói
chung và tội phạm buôn lậu nói riêng phát
sinh, diễn biến ngày càng phức tạp./.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 300 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
55Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH
TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
HIỆN NAY
REASONS AND CONDITIONS OF SMUGGLING SITUATION IN THE
SOUTHEAST OF VIETNAM - SOME THEORETICAL AND PRACTICAL ISSUES
Nguyễn Đăng Phú*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 5/03/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/9/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/9/2019
Tóm tắt: Tác giả bài viết trình bày một số nội dung có liên quan đến lý luận về nguyên
nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu. Trên cơ sở đó, tác giả liên hệ với tính đặc thù của
miền Đông Nam bộ biểu hiện trên các lĩnh vực: tự nhiên, kinh tế - xã hội, ..., nhằm góp phần
vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong bối cảnh hiện nay.
Từ khóa: Nguyên nhân, điều kiện, tội buôn lậu, Đông Nam bộ.†
Abstract: The author presents a number of content related to the reasoning on the
causes and conditions of smuggling situation. On that basis, the author relates to the specifi c
of the Southeast of Vietnam manifested in the fi elds of physical geography, economic and
social conditions, ..., to contribute to the fi ght against this crime in current background.
Keywords: Reason, condition, smuggling, Southeast of Vietnam.
* ThS.NCS. Khoa Luật Học viện Khoa học xã hội. Giảng viên Trường Đại học Lao động - Xã hội (CSII. TP.
Hồ Chí Minh)
† Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Tội phạm học, Nxb. Công an nhân dân, tr. 3
Tạp chí Khoa học - Viện Đại học Mở Hà Nội 59 (09/2019) 52-61
1. Một số vấn đề lý luận về nguyên
nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu
Nguyên nhân của tình hình tội phạm
là tổng hợp các hiện tượng kinh tế, xã hội,
chính trị, tư tưởng, tâm lí xã hội, tổ chức
mang tính chất tiêu cực trong tác động qua
lại và thâm nhập lẫn nhau, làm phát sinh tình
hình tội phạm†. Các hiện tượng xã hội trong
các mối quan hệ xã hội luôn luôn thay đổi.
Đó là những hiện tượng, quá trình xã hội có
khả năng làm phát sinh tình hình tội phạm
trong thực tế. Nguyên nhân của tình hình tội
phạm là những hiện tượng có trước tội phạm
về thời gian. Trong mối quan hệ giữa nguyên
nhân, điều kiện với tình hình tội phạm thì
nguyên nhân là nhân tố trực tiếp làm phát
sinh tình hình tội phạm, luôn thể hiện những
mâu thuẫn về nhiều mặt trong đời sống xã
56 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
hội, và những mâu thuẫn này tồn tại một cách
ổn định về mặt thời gian.
Điều kiện của tình hình tội phạm là
những thiếu sót cụ thể trong các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa‡... Các
điều kiện này không tự mình làm phát sinh
ra tội phạm mà chỉ có tác dụng tạo cơ hội,
điều kiện cho quá trình phát sinh tình hình
tội phạm.
Điều kiện thường biểu hiện sự sơ
hở và thiếu sót trong các hoạt động quản
lý nhà nước, quản lý xã hội. Đó là những
nhân tố tồn tại kém ổn định, dễ bị phá vỡ
và thay đổi.
Kế thừa các quan điểm nói trên, có thể
thấy rằng, nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm là “tổng hợp những hiện tượng,
quá trình xã hội, xác định tình hình tội phạm
là hậu quả của chúng, đó là toàn bộ những
hiện tượng và quá trình xã hội có khả năng
làm phát sinh tồn tại tình hình tội phạm” §.
Có thể nghiên cứu nguyên nhân, điều
kiện của tình hình tội phạm với ba mức độ
khác nhau, đó là: Nghiên cứu nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm nói
chung, của mọi tội phạm; của tình hình nhóm
tội phạm; của loại tội phạm cụ thể.
Đối với tội buôn lậu, nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội buôn lậu được lý
giải trên cơ sở tiếp cận phương pháp luận về
mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và
kết quả của cặp phạm trù nguyên nhân và kết
‡ Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Tài liệu đã dẫn, tr. 5.
§ Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Tội phạm học, Nxb. Hồng Đức,
Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 181.
¶ Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995), Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 74.
quả trong triết học Mác-Lênin, cụ thể đối với
loại tội phạm buôn lậu.
Vận dụng quan điểm này, việc nghiên
cứu phải dựa trên nền tảng cơ sở lý luận về
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm nói chung và đặc thù tình hình tội buôn
lậu nói riêng. Tình hình tội buôn lậu là một
hiện tượng xã hội, sẽ bị đẩy lùi và tiến tới
bị triệt tiêu khi mà các nguyên nhân và điều
kiện làm phát sinh ra nó bị hạn chế hoặc
không còn tồn tại.
Về mặt lý luận, mối quan hệ giữa tình
hình tội phạm và các tội phạm cụ thể là mối
quan hệ tuân theo quy luật giữa toàn thể và
bộ phận, cái chung và cái đơn nhất, giữa hệ
thống và bộ phận¶. Theo trình tự vận động
của nhận thức bắt nguồn từ nhận thức sự
vật cá biệt và riêng biệt rồi mới tiến gần đến
nhận thức sự vật nói chung. Đầu tiên, người
ta nhận thức bản chất riêng biệt của nhiều
sự vật khác nhau, rồi sau mới có thể tiến tới
việc khái quát và nhận thức bản chất chung
của các loại sự vật. Sau khi đã nhận thức bản
chất chung đó, dùng nhận thức chung đó để
chỉ đạo, tiếp tục nghiên cứu những sự vật cụ
thể chưa nghiên cứu hoặc nghiên cứu sâu và
tìm ra bản chất riêng biệt của nó. Đó là hai
quá trình của nhận thức: Một cái từ riêng
đến chung, một cái từ chung đến riêng.
Lý luận về tội phạm học Việt Nam
nghiên cứu, lý giải nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm nói chung và nguyên
57Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
nhân của tội phạm cụ thể. Tội buôn lậu thuộc
nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế, được quy định tại Điều 188 của Bộ luật
hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2017) (BLHS). Tội phạm này được áp dụng
đối với cả chủ thể thực hiện hành vi phạm
tội là cá nhân và pháp nhân thương mại.
Việc quy định pháp nhân phạm tội chịu trách
nhiệm hình sự đối với tội phạm buôn lậu là
một trong những quy định mới của BLHS
năm 2015.
Theo GS.TSKH. Đào Trí Úc thì mối
quan hệ giữa tình hình tội phạm và các tội
phạm cụ thể là mối quan hệ tuân theo quy luật
giữa toàn thể và bộ phận, cái chung và cái
đơn nhất, giữa hệ thống và bộ phận. Các quan
niệm khác nhau về tội phạm và người phạm
tội cũng như nguyên nhân của tội phạm, của
việc hình thành con người phạm tội được hiểu
một cách khác nhau và do đó ta có thể nói tới
những mô hình nhận thức lịch sử khác nhau**.
Nhưng qua nghiên cứu cho thấy, các mô hình
nhận thức đó đều qua những bước như sau:
Những quan niệm về chuẩn mực (mô hình) về
con người; xác định những cái mà con người
cụ thể không có được, tức là sự thiếu tính chất
của nó; xác định nguyên nhân của cái thiếu
đó; xác định phương pháp đưa con người trở
lại mô hình cần có, tức là phản ứng với hiện
trạng; xác định mục đích của việc phải sử
dụng phương pháp đó.
Còn GS.TS. Võ Khánh Vinh thì cho
rằng, “Nguyên nhân và điều kiện của tình
** Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995), Tài liệu đã dẫn, tr. 76.
†† Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 68.
‡‡ Phạm Văn Tỉnh (2014), Bài giảng Tội phạm học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm khoa
học Xã hội Việt Nam, Hà Nội, tr. 36
hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện
tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế
- xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của
tình hình tội phạm như là hậu quả của mình”
và “Các nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm tạo thành một hệ thống gồm
nhiều bộ phận cấu thành n󔆆.
Nghiên cứu về tội phạm học Mác xít,
có quan điểm cho rằng “...tìm ra mối liên hệ
nhân - quả giữa tình hình tội phạm và các
hiện tượng, các quá trình kinh tế - xã hội
khác vì mục đích phòng ngừa tội phạm, tức
là ngăn ngừa tội phạm và loại trừ tội phạm
ra khỏi đời sống xã hội‡‡.
Tội phạm học với tính cách là đối
tượng nghiên cứu khoa học, được các nhà
nghiên cứu về tội phạm học nhìn nhận trong
tổng thể xã hội nhằm lý giải khoa học và có
cơ sở thực tiễn dựa trên những hiện tượng
và quá trình xã hội. Còn nguyên nhân và
điều kiện của các tội phạm cụ thể được lý
giải dựa trên cơ chế tâm lý xã hội của hành
vi tội phạm.
Từ những nghiên cứu trên, khái niệm
về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
buôn lậu được đưa ra như sau: “là tổng hợp
những hiện tượng, quá trình xã hội, xác định
tình hình tội buôn lậu là hậu quả của chúng;
đó là toàn bộ những hiện tượng và quá trình
xã hội có khả năng làm phát sinh tồn tại tội
phạm buôn lậu.”.
Như vậy, nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội buôn lậu là sự tác động qua lại
58 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
lẫn nhau giữa các hiện tượng xã hội làm phát
sinh tội phạm buôn lậu. Đó là sự tác động
lẫn nhau giữa các đặc điểm nhân thân người
phạm tội buôn lậu với môi trường sống, đặc
điểm của pháp nhân thương mại phạm tội với
môi trường hoạt động của pháp nhân dẫn đến
sự phát sinh tội phạm cụ thể trong nhóm tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Đó còn là
sự tác động giữa các hiện tượng tiêu cực của
xã hội với nhau dẫn đến sự phát sinh và tồn
tại của tình hình tội buôn lậu.
2. Các nguyên nhân, điều kiện chung
của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn
miền Đông Nam Bộ
2.1. Nguyên nhân, điều kiện về đặc
điểm địa lý, tự nhiên
Đông Nam Bộ chiếm 7,5% diện tích
cả nước (23,6 nghìn km2), 17,3% tổng dân
số, gồm 5 tỉnh và 1 thành phố: Bình Dương,
Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu
Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh.
Phía Đông giáp Tây Nguyên và Duyên
hải Nam Trung Bộ - nơi có nguồn nguyên
liệu nông - lâm - nghiệp, khoáng sản, thủy
sản phong phú, dồi dào, và cũng tiếp giáp với
biển Đông có tiềm năng phát triển khai thác
thủy hải sản, dầu khí, giao thông vận tải và
du lịch . Tây giáp Đồng bằng sông Cửu Long
- vùng đất sản xuất lương thực lớn trong cả
nước. Bắc giáp Campuchia§§.
Vùng Đông Nam Bộ ở vào vị trí
đường xuyên Á, Quốc lộ 13, 14, 1A,...; có
nhiều cảng biển, tuyến đường sắt, cảng hàng
không đi ngang qua, là vùng thuận lợi cho
§§ Bách khoa toàn thư mở (2017), Tổng hợp điều kiện tự nhiên và xã hội của Đông Nam Bộ, truy cập
tại địa chỉ: https://dinhnghia.vn/dong-nam-bo.html,, ngày 20/5/2017.
giao thông, tạo điều kiện cho sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của cả vùng; nhưng
cũng tạo nhiều cơ hội cho tội phạm phát
sinh và ngày càng gia tăng, với nhiều hình
thức tinh vi, đa dạng, phức tạp. Trong đó,
tình hình tội buôn lậu được đánh giá là diễn
biến ngày càng phức tạp, đặc biệt là buôn
lậu tại các tuyến biên giới giáp Campuchia
và trên tuyến đường biển.
2.2. Nguyên nhân, điều kiện về kinh
tế - xã hội
Đến nay, vùng Đông Nam bộ có nhiều
khu công nghiệp, tập trung ở 4 tỉnh, thành là
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình
Phước, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây
là vùng kinh tế có hệ thống cảng tốt và có
hậu phương công nghiệp tốt với Cảng biển
trung chuyển quốc tế Cái Mép - Thị Vải (đã
định hình), Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và
Cảng hàng không trung chuyển quốc tế Long
Thành (sẽ được xây dựng).
Đông Nam bộ là vùng kinh tế năng
động, có sức hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước
ngoài (FDI) với các dự án đi tiên phong trong
hầu hết các ngành, lĩnh vực ưu thế của vùng..
Về nông nghiệp, Đông Nam Bộ là
vùng trồng cây nông nghiệp quan trọng của
cả nước, là thế mạnh của vùng; trong đó,
Bình Phước là tỉnh xuất khẩu hạt điều lớn
nhất Việt Nam, đóng góp vào kim ngạch xuất
khẩu trung bình 3 tỷ USD mỗi năm.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm
thương mại và kinh tế, tài chính, văn hóa, du
lịch, giáo dục, khoa học kỹ thuật, y tế lớn
59Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
nhất, nhì cả nước, nằm giữa các con đường
hàng hải từ Bắc xuống Nam, Đông sang Tây,
được xem là tâm điểm của khu vực Đông
Nam Á, là cửa ngõ lớn của Việt Nam thông
ra thế giới.
Đồng Nai là trung tâm công nghiệp lớn
trong vùng với thành phố Biên Hoà, Nhơn
Trạch, Long Thành, Trảng Bom là những địa
phương công nghiệp lớn của tỉnh, thu hút
nhiều đầu tư vào các khu công nghiệp tập
trung lớn và quy mô.
Bình Dương là tỉnh có 05 đô thị công
nghiệp nổi bật như Thuận An, Dĩ An, Bến
Cát, Tân Uyên và Thành phố Thủ Dầu Một.
Sự phát triển của tỉnh đang góp phần to lớn
cho sự phát triển bền vững của khu vực đối
với cả nước.
Tây Ninh là địa phương có cửa khẩu
quốc tế với Campuchia.
Bà Rịa - Vũng Tàu là trung tâm du lịch,
khai thác - lọc - hóa dầu khí trọng điểm. Thế
mạnh của tỉnh gắn liền với biển là công nghiệp
khai thác dầu mỏ, vận tải hàng hải, dịch vụ
du lịch và khai thác hải sản, công nghiệp sử
dụng khí làm nguyên liệu, nhiên liệu, khí hóa
lỏng, phân đạm, nhựa, hóa chất...
Với lợi thế và thực tế phát triển kinh
tế như vậy, nên vùng Đông Nam bộ có sức
thu hút lao động, tăng nhanh về cơ học,
là khu vực đông dân, có tỷ lệ đô thị hóa
cao: 50%¶¶. Mật độ dân số cao, nhu cầu sử
dụng hàng hóa của người dân ngày càng
cao trong bối cảnh nền sản xuất còn mất
cân đối, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng
¶¶ Bách khoa toàn thư mở (2017) Đông Nam Bộ (Việt Nam), truy cập tại địa chỉ: https://vi.wikipedia.
org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Nam_B%E1%BB%99_(Vi%E1%BB%87t_Nam), ngày 15/10/2018.
yêu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho hàng buôn lậu xâm
nhập vào.
Tóm lại, Đông Nam Bộ là vùng có nền
kinh tế phát triển mạnh, đặc điểm dân cư đa
dạng, phong phú, có nhiều đóng góp trong
sự phát triển chung của cả nước. Tuy nhiên,
cùng với phát triển, lượng dân cư đông cũng
kéo theo việc nảy sinh những tệ nạn, ảnh
hưởng đến hoạt động quản lý kinh tế, trật tự
an toàn của xã hội; trong đó có việc phát sinh
và gia tăng tình hình tội buôn lậu.
2.3. Nguyên nhân, điều kiện về tâm lý
xã hội
Con người luôn sống trong một môi
trường xã hội nhất định: Gia đình, trường
học, môi trường làm việc. Trong quá trình
đó, các cá nhân có sự tác động qua lại lẫn
nhau. Sự tác động này đã điều chỉnh thái
độ, hành vi của cá nhân và nhóm dẫn đến
quá trình xã hội hoá cá nhân, hình thành
nên những hiện tượng tâm lý đặc trưng của
nhóm. Tâm lý xã hội bao gồm những hiện
tượng tâm lý chung của một nhóm xã hội
nảy sinh từ tác động qua lại trong hoạt động
và giao tiếp giữa các thành viên trong nhóm,
chi phối thái độ hành vi của các cá nhân khi
hiện diện trong nhóm. Những hiện tượng
tâm lý xã hội có mối liên hệ mật thiết với
nhau, chi phối lẫn nhau.
Tâm lý xã hội thể hiện qua dư luận xã
hội trở thành chuẩn mực điều chỉnh hành vi
của cá nhân. Dư luận xã hội là một biểu hiện
đặc trưng của tâm lý xã hội. Đó là thái độ của
60 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
cộng đồng, của xã hội đối với một vấn đề gì
đó, đặc biệt là đối với những vấn đề có tính
tiêu cực. Khi dư luận xã hội lên tiếng thì cá
nhân không dám hoặc e ngại thực hiện một
hành vi nào đó có tính lệch chuẩn. Trái lại
thì cá nhân sẵn sàng thực hiện hành vi lệch
chuẩn của mình***.
Tâm lý xã hội là tâm lý cá nhân và tâm
lý xã hội trong một cộng đồng người, nó đan
xen, tác động qua lại lẫn nhau. Trong tâm lý
xã hội có sự hiện diện tâm lý của các cá nhân
và trong tâm lý cá nhân có dấu ấn của tâm lý
xã hội.
Vùng Đông Nam Bộ là địa bàn phức
tạp, nhiều tiềm năng và cũng kéo theo những
hệ lụy của quá trình phát triển, đời sống xã
hội ngày càng thay đổi, nhu cầu của nhân
dân càng tăng, nhưng sức sản xuất trong
nước không đáp ứng được; do vậy nạn buôn
lậu nảy sinh trên những điều kiện tâm lý xã
hội sau:
Thứ nhất, do mất cân đối trong quan
hệ cung - cầu hàng hóa trong nước; bên
cạnh đó, hàng hóa tại thị trường các nước
khác rất đa dạng, phong phú về chủng loại,
hình thức, mẫu mã, chất lượng khá tốt, giá
cả thị trường thấp hơn hoặc chỉ ngang bằng
hàng hoá cùng loại sản xuất trong nước nên
hàng nhập lậu có giá thấp hơn hàng hóa
sản xuất trong nước. Mặt khác, mức sống
của đại bộ phận nhân dân đã cao hơn nhiều
so với trước đây, xu thế “sính” hàng ngoại
*** Vũ Dũng (2015), Sự khác biệt giữa tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội, truy cập tại địa chỉ: https://
www.suckhoetamthan.net/tam-ly-thuc-hanh/Su-khac-biet-giua-tam-ly-ca-nhan-va-tam-ly-xa-
hoi-1515.html; ngày 28/10/2015.
††† Tác giả đã tổ chức điều tra với 240 phiếu phát ra, thu vào 216 phiếu. Có 185/216 phiếu,chiếm tỷ
lệ 85,6% cho rằng: Chống buôn lậu là nhiệm vụ của cơ quan nhà nước, người dân không tham gia.
ngày càng tăng. Các khu công nghiệp thu
hút nhiều lao động là thị trường rộng lớn
cho việc tiêu thụ các mặt hàng. Xuất phát
từ nhu cầu đó, hàng hóa do nước ngoài sản
xuất có xu hướng cạnh tranh và tìm cách
xâm nhập vào thị trường nước ta bằng con
đường buôn lậu. Ngoài ra, cũng còn tồn tại
tâm lý muốn sử dụng hàng hóa rẻ tiền của
một bộ phận người dân, họ cho rằng không
cần tốn nhiều chi phí chi trả cho hàng hóa
cùng nhãn mác để mua hàng hóa nhập khẩu
chính ngạch. Điều này dẫn tới sự tồn tại nhu
cầu sử dụng hàng nhập lậu và v́ì thế tạo điều
kiện cho tội buôn lậu phát triển.
Thứ hai, thực tế cho thấy tình hình buôn
lậu diễn biến phức tạp do chính lợi nhuận mà
hàng lậu mang lại. Bên cạnh đó, đời sống
người dân khu vực giáp ranh còn thấp, thiếu
công ăn việc làm; thu nhập và buôn lậu là
cách để có thêm thu nhập. Theo đánh giá của
một số chuyên gia trong Hiệp hội thuốc lá thì
buôn lậu thuốc lá tại Việt Nam đang thu siêu
lợi nhuận chỉ sau buôn ma túy.
Thứ ba, phổ biến trong cộng đồng
dân cư vẫn còn tâm lý thờ ơ đối với hoạt
động chống buôn lậu, cho rằng đó chỉ là
nhiệm vụ của cơ quan chức năng†††. Do vậy,
hoạt động giáo dục và tuyên truyền cần tập
trung cho người dân nhận thức được tác hại
của hoạt động buôn lậu không những ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế mà nó còn
ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của
người dân. Từ đó, họ sẽ tham gia tích cực
61Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
vào hoạt động đấu tranh phòng, chống hoạt
động buôn lậu.‡‡‡
2.4. Nguyên nhân, điều kiện về
pháp luật
Theo các cơ quan chức năng, việc triển
khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh
ngăn chặn rất khó khăn bởi hệ thống pháp
luật của nước ta chưa đồng bộ, còn chồng
chéo, pháp luật vừa thiếu, nhiều điều luật lại
chưa phù hợp dẫn đến việc áp dụng không
thống nhất, kém hiệu quả, việc phân định
trách nhiệm chưa rõ ràng, phối hợp giữa các
lực lượng chưa chặt chẽ.
Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp
luật về quản lý xuất nhập khẩu và chống buôn
lậu còn chung chung, thiếu những chế tài cụ
thể và nghiêm minh, không đồng bộ hoặc sơ
hở để tội phạm lợi dụng buôn lậu, buôn bán
hàng cấm, vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới. Trên thực tế, trong hoạt
động đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn
lậu trên biển thì việc xác định yếu tố biên giới
là rất khó khăn vì hoạt động đi lại của các tàu
hàng được điều chỉnh theo Luật biển và Công
ước quốc tế về hàng hải§§§.
Về pháp luật hình sự, BLHS năm
2015 đã mở rộng khái niệm tội phạm tại
Điều 8, bao gồm chủ thể của tội phạm là
pháp nhân thương mại phạm tội. Đồng
‡‡‡ Nguyễn Xuân Hải - Phạm Hữu Hoàn (2017), Nguyên nhân của tội phạm buôn lậu và một số giải
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm buôn lậu của lực lượng Cảnh sát kinh tế, truy cập tại
địa chỉ:
mot-so-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-phong-ngua-toi-pham-buon-lau-cua-luc-luong-Canh-sat-kinh-
te, ngày 30/12/2017.;
§§§ Lê Hoài Nam - Ngô Trung Hòa (2015), Tác động của hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại
đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam, truy cập tại địa chỉ:
doi/592/Tac-dong-cua-hoat-dong-buon-lau-gian-lan-thuong-mai-doi-voi-su-phat-trien-kinh-te-Viet-
Nam., ngày 20/02/2015.
thời, Điều 76 BLHS năm 2015 quy định
phạm vi tội phạm mà pháp nhân thương
mại phải chịu trách nhiệm hình sự, trong
đó có tội buôn lậu. Mặt khác, Điều 441 Bộ
luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015
đã có những quy định về những vấn đề
cần phải chứng minh trong việc truy cứu
trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Tuy
nhiên, từ khi BLHS năm 2015 có hiệu lực
cho đến nay, vẫn chưa có vụ án nào do các
pháp nhân thương mại thực hiện bị khởi
tố. Nguyên nhân dẫn đến vấn đề này không
phải là do trên thực tế không có hành vi
phạm tội, mà do các quy định của BLHS
năm 2015 chưa rõ ràng, dẫn đến các cơ
quan chức năng có tâm lý chờ đợi văn bản
giải thích. Cụ thể, Điều 441 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 quy định những việc cần
chứng minh khi truy cứu trách nhiệm hình
sự của pháp nhân thương mại bao gồm:
lỗi của pháp nhân và lỗi của cá nhân là
thành viên của pháp nhân. Ngoài ra, Điều 8
BLHS năm 2015 quy định rằng: “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật Hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp
nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý...”. Như vậy, để truy cứu pháp
nhân thương mại về tội buôn lậu, cần phải
chứng minh được lỗi cố ý của pháp nhân.
62 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Tuy nhiên, BLHS năm 2015 chưa quy định
các dấu hiệu về lỗi cố ý của pháp nhân.
Đây chính là một khó khăn trong việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
thương mại liên quan và cũng chính là một
trong những nguyên nhân, điều kiện tồn tại
của tình hình tội buôn lậu do pháp nhân
thương mại thực hiện.
Ngoài ra, cho đến nay, nước ta có
nhiều đạo luật về phòng, chống tội phạm
nhưng riêng lẻ về những lĩnh vực khác
nhau, như: Luật phòng, chống ma túy năm
2000; Luật phòng, chống mua bán người
năm 2011; Luật phòng, chống rửa tiền năm
2012; Luật phòng, chống tham nhũng năm
2018. Tổng thể, Việt Nam vẫn chưa có luật
phòng, chống tội phạm để quy định bao quát
nhiều vấn đề liên quan đến tội phạm, trong
đó có Tội buôn lậu. Thiết nghĩ rằng, Việt
Nam cần ban hành Luật Phòng, chống tội
phạm là cần thiết.
2.5. Nguyên nhân, điều kiện về quản
lý xã hội
Quản lý xã hội là quá trình tác động,
gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua hệ
thống các chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước, nhằm đạt
được mục tiêu chung, góp phần tăng trưởng,
phát triển xã hội. Vùng Đông Nam Bộ là địa
bàn tương đối rộng và phức tạp. Điều này
dẫn đến nhiều sơ hở trong việc điều hành,
quản lý nền kinh tế; tình hình tội buôn lậu
trên địa bàn khu vực diễn ra cả trên đường
¶¶¶ Lê Thu (2017), Buôn lậu tại các tỉnh trọng điểm Đông Nam bộ giảm, nhưng vẫn phức tạp, truy cập tại
địa chỉ: https://www.baohaiquan.vn/Pages/Buon-lau-tai-cac-tinh-trong-diem-Dong-Nam-bo-giam-nhung-van-
phuc-tap.aspx, ngày 26/3/2019.
bộ, đường thủy và đường hàng không qua
các cửa khẩu quốc tế và từ khu phi thuế quan
vào nội địa và ngược lại ngày càng tấp nập,
sôi động nhưng cơ chế quản lý và xử lý chưa
bao quát và tiếp cận hết.¶¶¶
Hoạt động thanh tra, kiểm tra công vụ;
xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu;
điều chuyển, đề xuất điều chuyển, thay thế
người đứng đầu các cơ quan, đơn vị không
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, có biểu hiện bao
che, dung túng cho buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả; xử lý nghiêm các vi phạm
chưa mạnh.
Hạn chế trong quản lý, hậu kiểm về sự
thành lập và hoạt động của các tổ chức kinh
tế: Các đối tượng đã lợi dụng những thông
thoáng từ khâu thành lập, thuê mượn giấy tờ
tùy thân để lập doanh nghiệp. Khi cơ quan
điều tra xác minh thì đó chỉ là những doanh
nghiệp “ma”, không hoạt động trong thực tế.
Hoạt động chống buôn lậu thông qua
hỗ trợ từ phía các hiệp hội, tổ chức, cộng
đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước chưa
được chú trọng và khai thác triệt để; hợp tác
quốc tế, phối hợp với các tổ chức toàn cầu
chống hàng trốn thuế còn lỏng lẻo, còn mang
tính hình thức, chưa đi và o khuôn khổ.
Cơ quan trực tiếp được Chính phủ giao
nhiệm vụ kiểm tra, xử lý hành vi buôn lậu tại
địa bàn Đông Nam Bộ hoạt động chưa thực
sự hiệu quả, việc triển khai chưa quyết liệt,
đồng bộ các giải pháp để thực hiện nhiệm vụ
được giao; gắn trách nhiệm của người đứng
63Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
đầu cơ quan, đơn vị với kết quả thực hiện
nhiệm vụ.
Sự phối hợp với các lực lượng chức
năng liên quan để xây dựng các phương án cụ
thể kiểm tra, xử lý các đường dây, đối tượng
chủ mưu, cầm đầu; kịp thời ngăn chặn việc
sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng cấm,
hàng nhập lậu trên thị trường nội địa còn
chưa chặt chẽ và thiếu đồng bộ...
Từ thực trạng trên cho thấy, vấn đề
quản lý xã hội đóng một vai trò rất quan
trọng trong việc phòng, chống tội phạm nói
chung, tội phạm buôn lậu nói riêng. Hoạt
động quản lý xã hội nếu được thực hiện đồng
bộ, chặt chẽ, hiệu quả sẽ góp phần ngăn ngừa
tội phạm, trừng trị và xử lý người phạm tội.
Nhưng nếu hoạt động quản lý xã hội không
được đảm bảo thì nó sẽ là một trong những
nguyên nhân, điều kiện góp phần làm phát
sinh và gia tăng tình hình tội phạm, trong đó
có tội phạm buôn lậu. Để có thể khắc phục
được điều này, đòi hỏi việc thực hiện quản lý
xã hội phải có một cơ chế, chính sách đường
lối đúng đắn, xây dựng được những biện
pháp phù hợp. Đồng thời phải có sự phối kết
hợp chặt chẽ, sự đồng thuận của cả hệ thống
chính trị, của toàn xã hội. nhằm nhận diện
được những mặt còn yếu kém trong vấn đề
quản lý xã hội, tiến tới khắc phục và xóa bỏ
những hạn chế yếu kém này, nhằm xây dựng
một cơ chế quản lý xã hội phù hợp với tình
hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của
Việt Nam nói chung và miền Đông Nam Bộ
nói riêng.
2.6. Nguyên nhân, điều kiện về hạn
chế trong hoạt động phòng ngừa
Những hạn chế trong hoạt động phòng
ngừa tội phạm buôn lậu bao gồm:
Hạn chế trong xử lý tội buôn lậu: Việc
thực thi các quy định pháp luật liên quan đến
hoạt động đấu tranh phòng, chống tội buôn
lậu còn nhiều bất cập, kém hiệu quả như: Kết
quả khởi tố, điều tra các vụ án buôn lậu còn
thấp; đối tượng chủ mưu bị phát hiện, bắt giữ
còn chiếm tỷ lệ ít; số vụ việc được phát hiện
chủ yếu xử lý hành chính nên họ có điều kiện
vi phạm trở lại.
Theo Điều 188 BLHS năm 2015, hành
vi khách quan của tội buôn lậu là buôn bán
trái phép hàng hóa qua biên giới theo định
lượng. Mục đích của hành vi buôn lậu là
kiếm lợi nhuận. Đây là đặc điểm quan trọng
để phân biệt tội buôn lậu với tội vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới. Trong thực
tế, việc chứng minh mục đích buôn bán kiếm
lời của người phạm tội rất khó khăn vì người
phạm tội thường không thừa nhận mục đích
này để được xử lý về tội nhẹ hơn. Đây cũng
là hạn chế trong thực tiễn xử lý tội buôn lậu.
Ngoài ra, BLHS năm 2015 đã quy định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại, nhưng trong thời gian qua, rất ít vụ án
liên quan đến pháp nhân bị khởi tố. Đây là
hạn chế trong thực tiễn phòng ngừa tội buôn
lậu do pháp nhân thượng mại thực hiện.
Hạn chế trong phòng ngừa riêng: Việc
kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng
chưa được thống nhất, thường xuyên, tích
cực, tạo kẽ hở cho các đối tượng buôn lậu
hoạt động. Mỗi cơ quan có những quy định
đặc thù nên việc phối hợp cùng nhau để triển
khai các hoạt động phòng ngừa khó khăn. Xử
lý các đối tượng buôn lậu còn thiên về xử lý
hành chính, chưa đủ sức giáo dục, răn đe đối
tượng; chế tài chưa tương xứng với lợi nhuận
mà hành vi mang lại cho đối tượng.
64 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Hạn chế về lực lượng phòng ngừa:
Lực lượng trực tiếp làm hoạt động đấu tranh
phòng, chống tội phạm buôn lậu trên địa
bàn; trong đó có lực lượng Cảnh sát kinh
tế còn “mỏng”; chưa có phương án phòng,
chống thường xuyên để chủ động kiềm chế
hành vi buôn lậu; một bộ phận cán bộ quản
lý xuất nhập khẩu hàng hóa và người có liên
quan còn tiếp tay cho hoạt động buôn lậu,
còn thiếu trách nhiệm, có biểu hiện tha hóa,
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bảo kê, tiếp
tay cho các đối tượng. Mối quan hệ phối hợp
với các lực lượng có liên quan trong việc
phối hợp lập hồ sơ và xử lý các vụ việc vi
phạm.thiếu chặt chẽ; hệ thống thông tin quản
lý và kết nối mạng giữa các đơn vị này còn
hạn chế làm giảm hiệu quả hoạt động quản
lý, chống buôn lậu.
Hạn chế về trang thiết bị, kinh
phí: Trang thiết bị, kinh phí phục vụ hoạt
động này còn hạn hẹp, chưa đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống
tội phạm buôn lậu trong tình hình mới, tương
xứng với thủ đoạn tinh vi của các đối tượng
vi phạm ****.
Hạn chế trong việc phát huy sức mạnh
tổng hợp: Người đứng đầu cấp uỷ, chính
quyền một số nơi, cơ quan còn chưa quan
tâm, thực sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ
đạo hoạt động kiểm tra, thanh tra, điều tra,
phát hiện xử lý vi phạm pháp luật. Vai trò
của các lực lượng chức năng ở cơ sở còn hạn
chế. Trách nhiệm của một bộ phận cán bộ
chuyên trách, người đứng đầu chưa cao, còn
biểu hiện bao che, thậm chí “bảo kê” cho các
hành vi vi phạm pháp luật; Chưa kết hợp chặt
**** Nguyễn Xuân Hải - Phạm Hữu Hoàn (2017), Tài liệu đã dẫn.
chẽ giữa tích cực phòng ngừa và chủ động
phát hiện tội buôn lậu.
Qua trình bày, có thể thấy, việc xây
dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm
phải căn cứ trên những nội dụng của các biện
pháp phòng ngừa mang tính chất chung và
đặc điểm riêng của nguyên nhân và điều kiện
tội buôn lậu địa bàn miền Đông Nam Bộ.
Nếu hoạt động phòng ngừa tội phạm không
phù hợp, không thực hiện đồng bộ chặt chẽ
thì nó sẽ trở thành một trong những nguyên
nhân, điều kiện thuận lợi cho tội phạm nói
chung và tội phạm buôn lậu nói riêng phát
sinh, diễn biến ngày càng phức tạp./.
Tài liệu tham khảo:
1. Bách khoa toàn thư mở (2017), Tổng hợp điều
kiện tự nhiên và xã hội của Đông Nam Bộ, truy
cập tại địa chỉ: https://dinhnghia.vn/dong-nam-
bo.html,
2. Bách khoa toàn thư mở (2017) Đông Nam
Bộ (Việt Nam), truy cập tại địa chỉ: https://
vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_
Nam_B%E1%BB%99_(Vi%E1%BB%87t_Nam).
3. Vũ Dũng (2015), Sự khác biệt giữa tâm lý cá
nhân và tâm lý xã hội, truy cập tại địa chỉ: https://
www.suckhoetamthan.net/tam-ly-thuc-hanh/
Su-khac-biet-giua-tam-ly-ca-nhan-va-tam-ly-xa-
hoi-1515.html.
4. Nguyễn Xuân Hải - Phạm Hữu Hoàn (2017),
Nguyên nhân của tội phạm buôn lậu và một số
giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội
phạm buôn lậu của lực lượng Cảnh sát kinh
tế, truy cập tại địa chỉ:
Nghien-cuu-Trao-doi/2612/Nguyen-nhan-cua-
65Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
toi-pham-buon-lau-va-mot-so-giai-phap-nang-
cao-hieu-qua-phong-ngua-toi-pham-buon-lau-
cua-luc-luong-Canh-sat-kinh-te.
5. Lê Hoài Nam - Ngô Trung Hòa (2015), Tác
động của hoạt động buôn lậu, gian lận thương
mại đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam, truy
cập tại địa chỉ:
Trao-doi/592/Tac-dong-cua-hoat-dong-buon-
lau-gian-lan-thuong-mai-doi-voi-su-phat-trien-
kinh-te-Viet-Nam..
6. Lê Thu (2017), Buôn lậu tại các tỉnh trọng
điểm Đông Nam bộ giảm, nhưng vẫn phức tạp,
truy cập tại địa chỉ: https://www.baohaiquan.vn/
Pages/Buon-lau-tai-cac-tinh-trong-diem-Dong-
Nam-bo-giam-nhung-van-phuc-tap.aspx.
7. Phạm Văn Tỉnh (2014), Bài giảng Tội phạm
học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm
khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
8. Bảo Trâm (2017), Vùng Đông Nam bộ: Tăng
trưởng kinh tế cần ‘sếu đầu đàn; truy cập tại địa chỉ:
https://baomoi.com/vung-dong-nam-bo-tang-
truong-kinh-te-can-seu-dau-dan/c/23409285.epi.
9. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994),
Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2008), Giáo trình
tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Địa chỉ tác giả: Trường Đại học Lao động – Xã
hội TP. Hồ Chí Minh
Email: phund@ldxh.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_nguyen_nhan_dieu_kien_cua_tinh_hinh_toi_buon_lau_tren.pdf