Thiết kế chính sách không phù hợp
Nhiều khi với mong muốn đạt nhanh mục
tiêu đề ra, ngời quản lý đa ra những chính
sách vội vàng không dựa vào các bằng chứng
thực tế, đấy là cha kể các chính sách đa ra
dới áp lực của các đối tác hoặc các bên liên
quan với mục đích riêng của họ. Những chính
sách thiết kế nh vậy chắc chắn tính khả thi
không cao do không phù hợp với lợi ích cộng
đồng.
Triển khai chính sách
Nếu mục tiêu đợc lựa chọn đúng, chính
sách thiết kế hoàn chỉnh thì hiệu quả của nó còn
phụ thuộc vào việc triển khai. Có nhiều yếu tố
ảnh hởng đến quá trình triển khai chính sách
nh: sự quyết tâm và năng lực của lãnh đạo địa
phơng, nguồn lực cho triển khai, lộ trình hợp lý
cho việc triển khai, cam kết của địa phơng thực
hiện chính sách, kế hoạch đánh giá định kỳ để
khắc phục và điều chỉnh kịp thời những điểm bất
hợp lý, giải pháp chống tham nhũng (ở những
chính sách liên quan nhiều đến lợi nhuận).
Trên thực tế, không phải lúc nào chúng ta cũng
thực hiện đựợc những qui trình nêu trên và
không ít chính sách sau khi đã có chỉ đạo hoặc
ban hành lại thiếu kiểm soát, không đánh giá
chặt chẽ nên hiệu quả không đạt nh mong
muốn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nguyên tắc trong xây dựng chính sách y tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1GS.TS. Lê Quang Cường
ể chính sách đi vào cuộc sống, điều quan
trọng là phải xác định được đúng mục Đ
tiêu. Nói một cách khác, chỉ phát hiện ra được
điểm yếu trong quá trình vận hành hệ thống y tế
mới có thể có những giải pháp đúng đắn và phù
hợp để khắc phục. Nói thì đơn giản, nhưng thực
tế không phải lúc nào cũng xác định được điểm
cần điều chỉnh vì khi bắt đầu cải cách, thường
người ta không xuất phát từ những yếu kém
trong quá trình vận hành mà lại đưa ra những
giải pháp mang tính chủ quan.
Về nguyên tắc, trong quá trình xây dựng nội
dung cải cách, cần phải đặt câu hỏi tại sao chọn
vấn đề này mà không chọn vấn đề kia để giải
quyết trước và dự kiến việc điều chỉnh sẽ mang
lại kết quả gì. Trên thực tế, nhà hoạch định chính
sách phải tiếp nhận nhiều ý kiến tư vấn khác
nhau đấy là chưa kể họ phải đối diện với tác
động của các nhà tài trợ, các công ty thuyết
phục đưa ra các chính sách có lợi cho các nhóm
này. Vấn đề là làm thế nào để các nhà hoạch
định chính sách biết được đâu là chiến lược
nhạy cảm cần giải quyết?
Thông thường những người chủ trương cải
cách rất nhiệt tình với các giải pháp họ đưa ra
bởi vì chính họ là người muốn cải cách, đúng
như một thành ngữ quốc tế “khi người ta có cái
búa trong tay thì mọi vấn đề đều mang dáng dấp
của một cái đinh”. Trên thực tế, hiểu biết sâu sắc
về thực trạng địa phương mới có thể đề xuất
được chính sách hiệu quả. Khi thực hiện cải
cách, chúng ta luôn phải giải quyết những mâu
thuẫn về giá trị. Ví dụ, với kinh phí hạn chế, một
bên phải đưa ra chính sách làm sao cho người
nghèo tiếp cận càng nhiều càng tốt các thuốc cơ
bản trong khi lại có sức ép chính trị phải cung
MộT Số NGUYÊN TắC
TRONG XÂY DựNG CHíNH SáCH Y Tế
cấp cả các dịch vụ khám chữa những bệnh cấp
tính đắt tiền cho các tầng lớp trung lưu.. Tương
tự, sẽ tư vấn cho Chính phủ thế nào: chọn thuốc
giá rẻ (tất nhiên chất lượng không cao) hay giảm
thuế cho các thuốc đắt tiền (chất lượng tốt) để
giảm giá nhóm thuốc này, tạo điều kiện cho
người dân tiếp cận dễ hơn? Một ví dụ nữa là gần
đây ở nước ta, việc á p dụng chính sách tự chủ, xã
hội hóa trong các bệnh viện công lập với mong
muốn các bệnh viện chủ động phát huy năng lực
hiện đại hóa trang thiết bị, nâng cao chất lượng
điều trị cho người bệnh và tăng thu nhập cho cán
bộ, nhân viên của mình. Tuy nhiên, việc tăng
nguồn thu sẽ nảy sinh khuynh hướng chỉ định
những thăm khám cận lâm sàng không cần thiết
(vì giá khám bệnh là cố định, không thể thay
đổi) và việc cần có người bệnh để tạo nguồn thu
sẽ là một yếu tố gây khó khăn cho việc giải
quyết triệt để tình trạng quá tải ở những bệnh
viện tuyến trên, đặc biệt ở những bệnh viện có
trang thiết bị hiện đại. Đứng trước những mâu
thuẫn có tính đối kháng như trên, người hoạch
định chính sách phải cân nhắc để có lựa chọn
đúng đắn cho phù hợp với từng giai đoạn cụ thể,
từng hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia. Tóm
lại, để chuẩn bị cải cách, xác định vấn đề là khâu
rất quan trọng quyết định sự thành công. Lúc
này, người lập kế hoạch và người soạn thảo
chính sách phải dự kiến tất cả các mâu thuẫn có
thể xảy ra một khi chính sách ban hành, đây
cũng là lúc cân nhắc đưa ra giải pháp tối ưu để
giải quyết một bên là mong muốn chính trị, một
bên là tình hình thực tiễn.
1
Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách y tế - Bộ Y tế
33
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
I. MụC TIÊU DàI HạN CủA CảI CáCH Y
Tế
Cho đến hiện nay, người ta đã tổng kết rằng
các chính sách ban hành cũng như các hoạt động
cải cách y tế đều nhằm đến ba đích cuối cùng là:
tình trạng sức khỏe (health status), sự hài lòng
của người dân (citizen satisfaction) và bảo vệ
người dân trước rủi ro tài chính (financial risk
protection).
Tình trạng sức khỏe
ở mọi chế độ chính trị, chăm sóc sức khỏe
luôn được chính phủ của các nước quan tâm vì
đây không đơn thuần là vấn đề an sinh xã hội mà
hơn nữa, còn là an ninh xã hội. Một đất nước có
hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt sẽ góp phần tạo
ra một xã hội khỏe mạnh và qua đó hạn chế được
các tệ nạn xã hội phát sinh. Ngược lại, ở đất
nước sức khỏe người dân không được đảm bảo
sẽ dẫn đến những ảnh hưởng không nhỏ đến ổn
định kinh tế-xã hội. Chính vì vậy, một trong
những mục tiêu chính của hệ thống chăm sóc
sức khỏe là cải thiện tình trạng sức khỏe cho
cộng đồng. Tìm mọi cách bảo vệ và cải thiện sức
khỏe cho người dân là điều nên làm nhưng trên
thực tế, như ở trên đã đề cập, việc chọn giải pháp
cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, cần phải có sự
cân nhắc, tính toán sáng suốt (nhiều khi không
đơn giản). Ví dụ: với các phát minh hiện nay, có
những thuốc điều trị ung thư rất hiệu quả, tuy
rằng giá khá đắt, hay kỹ thuật ghép tạng đã đạt
được những thành tựu bước đầu khả quan nhưng
chi phí cho một trường hợp còn khá lớn (ghép
gan, ghép tim..). Trong khi đó, mệnh giá bảo
hiểm thu còn thấp, bảo hiểm chưa bao phủ trên
diện rộng, một câu hỏi đặt ra là liệu quĩ có chi trả
cho các nhóm điều trị nêu trên hay không hoặc
chi trả ở mức độ nào để đảm bảo quĩ ổn định, lúc
này cần phải tính toán thật thấu đáo.
Sự hài lòng của người dân
Khi triển khai một chính sách hoặc tiến hành
một cải cách, các nhà hoạch định, chuyên gia
kinh tế cũng như các chính trị gia luôn quan tâm
đến thái độ của người dân về các chính sách này,
cụ thể là về mức độ hài lòng của người dân. Các
nhà kinh tế học quan tâm đến sự hài lòng vì
trong đầu họ, một hệ thống kinh tế vận hành tốt
khi đáp ứng được với nhu cầu thị trường - đến
điều mà người dân muốn (hơn là những điều
người dân cần để cải thiện sức khỏe của họ).
Các chính trị gia có thể có cùng quan điểm này
hoặc không nhưng điều họ quan tâm là làm sao
cho người dân ủng hộ hệ thống chính trị hiện
hành. Chính vì vậy, việc cố gắng tìm cách để đáp
ứng mong muốn và làm hài lòng người dân vẫn
là ưu tiên hàng đầu của mọi chính phủ, không
phân biệt thể chế chính trị. Trên thực tế, mong
muốn của người dân không phải luôn đi đôi với
hiệu quả trên thực tế. Cụ thể như ở những nước
hệ thống quản lý chưa đủ mạnh, còn có sự mua
bán thuốc kháng sinh không cần đơn, người dân
thích uống thuốc "bổ", thuốc nhập ngoại đắt
tiền... thì khuynh hướng lạm dụng thuốc chắc
chắn sẽ xảy ra. Nhà hoạch định chính sách cần
phải có giải pháp thuyết phục và phù hợp để điều
chỉnh nhận thức người dân, hướng dẫn họ sử
dụng thuốc một cách an toàn và hợp lý hơn mà
vẫn cảm thấy hài lòng.
Bảo vệ người dân trước rủi ro tài chính
Trong đời người, không phải người ta lúc nào
cũng ốm, tất nhiên là không tính đến các lần ốm
lặt vặt. Tuy nhiên, một khi đột nhiên bị ốm nặng,
đối với đại đa số các gia đình thu nhập trung
bình hoặc thấp, chi tiêu cho khám chữa bệnh sẽ
ảnh hưởng đáng kể đến ngân sách của cá nhân
và gia đình. Việc thiếu tiền khám chữa bệnh ảnh
hưởng không nhỏ đối với đảm bảo chất lượng
điều trị mà nhiều khi còn làm người dân không
tiếp cận được được với các dịch vụ y tế cần thiết.
Mặt khác, ngày nay trong khi các bệnh nhiễm
khuẩn có xu hướng giảm thì tỉ lệ các bệnh lý
mạn tính như bệnh lý tim mạch, đái tháo đường,
tâm thần kinh lại tăng rõ rệt. Việc theo đuổi điều
trị (có khi cho đến cuối đời) của bệnh nhân mắc
những bệnh này cũng là một nguyên nhân ảnh
hưởng quan trọng đến kinh tế gia đình. Nhiều
chính phủ trên thế giới đã rất chú trọng đến các
34
Diễn đàn chính sách y tế
giải pháp để bảo vệ người dân trước những rủi ro
tài chính khi bị ốm đau; đây chính là mục tiêu
thứ ba của các cuộc cải cách trong hệ thống
chăm sóc sức khỏe.
II. CáC CƠ CHế Để THựC HIệN MụC
TIÊU DàI HạN
Để đạt được các mục tiêu dài hạn nêu trên,
trong ban hành và cải cách chính sách y tế,
người ta có thể đặt ra các mục tiêu trung gian
(trung hạn) để thực hiện như các biện pháp nâng
cao chất lượng khám chữa bệnh, tăng cường khả
năng tiếp cận dịch vụ y tế... Để thực hiện được
các mục tiêu trung gian này, hiện nay trên thế
giới người ta đưa ra một hướng dẫn gồm 5 lĩnh
vực cần tác động. Đây thực chất là 5 cơ chế điều
chỉnh chính sách hay còn gọi là 5 núm điều
chỉnh (control knobs); nếu coi hệ thống y tế như
một nhà máy thì các cơ chế này sẽ đóng vai trò
như các núm trên bảng điều khiển giúp nhà máy
vận hành hiệu quả. Trong khi các mục tiêu dài
hạn có thể phân tách một cách độc lập thì các cơ
chế điều chỉnh thường phối hợp với nhau một
cách đa dạng. Tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể
mà việc soạn thảo các chính sách tập trung
nhiều vào cơ chế này này hay cơ chế kia. Dưới
đây xin giới thiệu vắn tắt 5 cơ chế điều chỉnh nêu
trên:
* Cơ chế tài chính (financing): cơ chế này tập
trung vào xác định và huy động các nguồn tài
chính dành cho y tế, tìm giải pháp tối ưu cho
phân phối ngân sách trong các lĩnh vực hoạt
động y tế cũng như giải quyết vấn đề giá cho
dịch vụ y tế. Cơ chế này cũng bao gồm cả việc
đưa ra những chính sách bảo vệ cộng đồng khỏi
những rủi ro về tài chính khi gặp ốm đau.
* Cơ chế chi trả (payment): các chính sách
thuộc cơ chế này là đưa ra các phương thức chi
trả (phí dịch vụ, khoán định suất, chi trả theo ca
bệnh, bán buôn, bán lẻ...) để tạo điều kiện tiếp
cận dịch vụ được cao nhất và sử dụng kinh phí
hiệu quả nhất.
* Cơ chế tổ chức (orgnisation): đưa ra các
giải pháp về cấu trúc, hoạt động của các bộ phận
trong hệ thống y tế, các giải pháp đảm bảo cung
ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe (nhân lực, cơ sở
vật chất, trang thiết bị...). Các chính sách này
giúp cho các thành phần khác nhau của hệ thống
y tế vận hành nhịp nhàng, phối hợp, bổ xung cho
nhau và liên kết với các chính sách chính trị xã
hội khác để đảm bảo cho hoạt động chăm sóc
sức khỏe nhân dân.
* Cơ chế điều chỉnh (regulation): đây là các
chính sách mang tính áp đặt của Nhà nước để
thay đổi hành vi của cá nhân hay tổ chức trong
lĩnh vực y tế phục vụ cho chăm sóc sức khỏe
cộng đồng. Ví dụ, Nhà nước có thể cho phép
những cơ sở y tế ngoài công lập có đủ điều kiện
được khám chữa bệnh bảo hiểm y tế hoặc có
những qui định yêu cầu các phòng khám tư nhân
phải có trách nhiệm tham gia chương trình tiêm
chủng cho người dân... Tất cả các chính sách
nêu trên đều hướng tới mục tiêu tăng khả năng
tiếp cận và nâng cao chất lượng phục vụ người
bệnh.
* Cơ chế thuyết phục (persuation): nhóm
giải pháp này nhằm tuyên truyền, giải thích
chính sách để tạo sự đồng thuận trong xã hội khi
chính sách được triển khai. Nhiều khi, do không
chú trọng đến yếu tố này, mặc dù chính sách hợp
lý nhưng khi ban hành, người dân không thông
hiểu, bản thân cán bộ y tế cũng không thông dẫn
đến sự đồng thuận thấp làm việc thực thi gặp rất
nhiều khó khăn. Ví dụ việc lạm dụng kháng sinh
thế hệ mới điều trị các bệnh nhiễm trùng thông
thường làm tăng chi phí y tế và có thể dẫn đến
kháng thuốc. Để khắc phục tình trạng này,
không những cần có các chương trình giáo dục
truyền thông cho người dân về những điểm lợi,
hại của việc dùng kháng sinh mà còn phải tổ
chức các khóa đào tạo, soạn hướng dẫn sử dụng
kháng sinh để nâng cao kiến thức cho bác sĩ về
sử dụng thuốc an toàn thuốc hợp lý...Việc đơn
thuần cấm sử dụng kháng sinh thế hệ mới mà
không giải thích, có thể dẫn đến những thắc mắc
của người dân và sự phản ứng của thày thuốc.
35
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
Như trên đã trình bày, các cơ chế điều chỉnh
luôn cần được phối hợp nhuần nhuyễn với nhau
trong quá trình xây dựng chính sách. Tùy theo
tình hình cụ thể mà "điều chỉnh" cơ chế nào
nhiều hơn cho hiệu quả. Ví dụ, chống lạm dụng
xét nghiệm trong bệnh viện, không đơn thuần
chỉ bằng động viên, giáo dục y đức (cơ chế
thuyết phục) cho bác sĩ mà còn phải có các
chính sách về đãi ngộ tiền lương cho phù hợp
(cơ chế chi trả) thậm chí phải có các biện pháp
kỷ luật nếu tái diễn lạm dụng nhiều lần (cơ chế
điều chỉnh) và đưa ra giải pháp phát huy vai trò
của Hội đồng thuốc bệnh viện trong việc đánh
giá chất lượng điều trị (cơ chế tổ chức). Một điều
cần chú ý, dù có áp dụng sử dụng cơ chế nào,
nhà hoạch định chính sách cần tránh áp đặt suy
nghĩ chủ quan mà phải dựa trên bằng chứng thực
tiễn. Trước khi đưa ra một chính sách, cần tham
khảo kinh nghiệm đã làm trước đó, kinh nghiệm
của các nước đi trước thậm chí phải khảo sát tính
khả thi và luôn đặt câu hỏi liệu các kinh nghiệm
nước ngoài có phù hợp với tình hình chính trị,
kinh tế, văn hóa.. của nước mình hay không để
có quyết định đúng đắn.
III. CáC YếU Tố HạN CHế VIệC CảI
CáCH CHíNH SáCH
Tại các nước thu nhập trung bình, thu nhập
thấp cũng như ở các nước mới tham gia vào cơ
chế thị trường, việc thực thi các chính sách y tế
nhiều khi không được suôn sẻ. Có nhiều yếu tố
khác nhau có thể ảnh hưởng đến việc triển khai
các chính sách, đặc biệt ở đây chúng tôi xin đề
cập đến hai yếu tố chính đó là thất bại thị trường
và thất bại trong điều hành.
1. Các rào cản gặp phải khi ứng dụng cơ
chế thị trường vào lĩnh vực y tế (còn gọi là
thất bại thị trường- market failure)
1.1. Thị trường hoàn hảo
Các nhà kinh tế học định nghĩa thất bại thị
trường dựa trên khái niệm về "thị trường hoàn
hảo". Trong nền thị trường hoàn hảo, cả người
tiêu thụ (người mua) lẫn người sản xuất (tạm gọi
là người bán) đều có kiến thức rất hoàn hảo và có
quyết định cũng rất hoàn hảo. Tất nhiên, trên
thực tế không tồn tại sự hoàn hảo tuyệt đối
nhưng đây sẽ là tiêu chí lý thuyết để giúp việc
đánh giá về các mức độ không hoàn hảo.
Đối với người tiêu thụ, cứ cho là họ biết tất cả
các dạng hàng hóa trên thị trường hoàn hảo, có
nghĩa là họ biết giá của tất cả các hàng hóa
người bán ra. Họ cũng biết đánh giá chất lượng,
hiệu quả của các sản phẩm họ mua và biết được
tác động của những sản phẩm họ mua lên cuộc
sống thế nào. Ví dụ, khi mua thuốc trong thị
trường hoàn hảo, về nguyên tắc, người dân biết
tất cả các thuốc generic và các thuốc chính hãng
(brand name), biết được các hiệu quả của từng
loại thuốc và biết phân biệt được thuốc thật và
thuốc nhái và biết được thuốc nào thích hợp nhất
với mình. Nếu như vậy tức là họ không cần xin ý
kiến của bác sĩ hoặc người bán thuốc và không
bao giờ gặp khó khăn khi quyết định mua thuốc
nào. Hơn nữa, người dân trong thị trường hoàn
hảo có thể tự hạch toán kinh tế để chọn giải pháp
tối đa cho kinh tế gia đình và sức khỏe.
Đối với nhà sản xuất, trong môi trường cạnh
tranh hoàn hảo, tất cả các nhà máy đều được tiếp
cận với cùng một loại công nghệ và có cùng một
chi phí (trừ khi họ ở các nước khác nhau, có giá
thuê nhân công khác nhau). Như vậy, tất cả các
sản phẩm cùng loại sẽ hoàn toàn như nhau. Khi
một thị trường có nhiều nhà cạnh tranh, người
bán phải đối mặt với việc đưa ra giá bán mà họ
không tác động được. Như vậy dưới thuật ngữ
kinh tế thì người bán hàng là người nhận giá
(price taker). Do nhà sản xuất là những người vì
lợi nhuận nên họ sẽ phát triển sản xuất đến khi
chi phí đầu ra (chi phí biên) bằng giá của thị
trường.
1.2. Thất bại thị trường trong y tế
Một khi nền kinh tế của đất nước được thiết
lập trên một thị trường lý tưởng như vậy, tổng
thể nền kinh tế sẽ rất hiệu quả về kỹ thuật - điều
mà các nhà kinh tế luôn mong ước. Trong khi
một số ít thị trường trên thực tế đang tiệm cận
36
Diễn đàn chính sách y tế
với thị trường hoàn hảo (ví dụ một số thị trường
nông nghiệp có sự hỗ trợ của nhà nước) thì về cơ
bản còn rất lâu chúng ta mới đạt được một thị
trường lý tưởng như nêu ở trên và hiện nay,
chúng ta đang gặp nhiều loại thất bại thị trường
khác nhau, nhất là trong lĩnh vực y tế.
Thất bại thị trường xuất phát từ người mua
Khi người mua thiếu thông tin về sản phẩm
(đặc tính, chất lượng) do đó họ sẽ mua ít hơn
hoặc nhiều hơn bình thường, thậm chí mua cả
sản phẩm khác do thông tin bị sai lệch. Ví dụ, do
không biết giá trị, ý nghĩa xét nghiệm cần sử
dụng, người dân sẽ có xu hướng yêu cầu làm
nhiều xét nghiệm khác nhau, nhất là các xét
nghiệm đắt tiền (nhiều khi không cần thiết) để
mong có một chẩn đoán chính xác. Cũng như
vậy, do không hiểu biết về thuốc nên bệnh nhân
có xu hướng thích thuốc ngoại, chính hãng và
đặc biệt nhiều người quan niệm thuốc đắt có
nghĩa là thuốc "bổ" hoặc khi dùng kháng sinh
thế hệ mới do muốn khỏi bệnh nhanh mà người
ta không nghĩ đến một lúc nào đó sẽ gây kháng
kháng sinh-một hiện tượng rất nguy hại cho
chính bản thân người bệnh. Cũng do thiếu thông
tin, người mua thường hỏi người bán khuyên họ
nên mua gì (các nhà kinh tế gọi đây là mối quan
hệ môi giới). Trên thực tế, các thông tin hay lời
khuyên người bán đưa ra thường có lợi cho
người bán hơn là vì lợi ích của người mua. Khi
người mua tiếp xúc với sản phẩm giá thấp ( ví dụ
các sản phẩm được nhà nước trợ giá), do không
phải bỏ tiền nhiều nên có khuynh hướng sử dụng
quá mức cần thiết.
Thất bại thị trường xuất phát từ người bán
Khi người bán không trung thực, họ có thể sử
dụng các biện pháp khác nhau để thổi phồng
chất lượng sản phẩm của họ thông qua nhiều
hình thức như quảng cáo, hoa hồng, khuyến
khích sử dụng quá mức..Trên thị trường, người
bán bằng mọi cách tạo cho sản phẩm của mình
trở thành "độc nhất vô nhị", độc quyền để họ có
thể tự quyết định giá, lúc này thay vì là người
nhận giá (price taker) họ trở thành người làm giá
(price maker). Trong thị trường y tế, hiện tượng
này gặp khá phổ biến trong lĩnh vực dược, đặc
biệt ở những nước chậm phát triển hoặc đang
phát triển, đây là một trong những điểm nhà
nước phải có chính sách kiểm soát giá chặt chẽ
để tránh giá thuốc tăng vượt tầm kiểm soát (đối
với nhiều nước phát triển, nhà nước là người có
quyền quản lý và định đoạt giá).
2. Thất bại trong điều hành
Như trên đã trình bày, cơ chế thị trường chỉ
vận hành tốt trong một thị trường chuẩn. Tương
tự, việc ban hành và thực thi chính sách phụ
thuộc rất nhiều vào công tác quản lý và điều
hành. Từ trước đến nay, thường khi một chính
sách không thành công trên thực tế, người ta hay
nghĩ đến lỗi của cơ sở hoặc do triển khai kém.
Tuy nhiên, còn một khâu quan trọng nữa là điều
hành và thậm chí ý tưởng ban đầu có đúng đắn
hoặc có dựa trên bằng chứng thực tế hay không
thì lại ít được nói đến. Kinh nghiệm cho thấy
trong quá trình ban hành chính sách cần chú ý 3
bước sau: 1) Xác định chính sách có theo sát
mục tiêu không; 2) Chính sách đưa ra đã phải là
tối ưu để đạt được mục tiêu đề ra chưa; 3) Việc
triển khai chính sách này có hiệu quả không.
Dưới đây là một số nguyên nhân hay gặp trong
quá trình điều hành ảnh hưởng đến việc xây
dựng và thực thi chính sách.
Xác định không đúng vấn đề cần giải quyết
Đứng trước một hiện tượng nảy sinh cần giải
quyết, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhiều
khi người ta đề xuất ngay các giải pháp nhằm
giải quyết vấn đề mà không phân tích kỹ bản
chất, xác định đâu là nguyên nhân trực tiếp, đâu
là nguyên nhân gián tiếp và liệu khi chính sách
được ban hành có phát sinh những hậu quả khác
hay không. Chính vì lẽ đó, nhiều chính sách khi
ban hành không đạt được kết quả như mong
muốn. Ngược lại, nếu xác định được đúng bản
chất vấn đề, chính sách ban hành sẽ có tầm lan
tỏa rất tốt, mang lại hiệu quả khả quan. Một ví
dụ thực tiễn ở nước ta nói lên sự thành công
trong xác định đúng vấn đề đó là việc giải quyết
37
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
tình trạng thiếu bác sĩ ở tuyến cơ sở. Chúng ta đã
nhận thấy có nhiều yếu tố cấu thành tình trạng
thiếu nhân lực: lượng bác sĩ ra trường hàng năm
không tỉ lệ với tăng dân số và nhu cầu khám
chữa bệnh, chất lượng khám chữa bệnh ở tuyến
cơ sở nhiều nơi chưa đáp ứng nhu cầu ngày một
tăng của người dân, phân phối nhân lực y tế
không đều, đặc biệt các bác sĩ trình độ chuyên
môn cao tập trung nhiều ở tuyến trên và tuyến
trung ương, chế độ đãi ngộ cho nhân viên y tế
chưa thỏa đáng. Đứng trước nhiều yếu tố đan
xen tạo nên tình trạng thiếu nhân lực y tế cơ sở,
Bộ Y tế đã xác định đúng trọng tâm cần giải
quyết đó là bên cạnh các giải pháp dài hạn như
tăng đào tạo, đa dạng hóa các hình thức tuyển
dụng thì quyết định 1816, triển khai các mô
hình bệnh viện vệ tinh nhằm chuyển giao công
nghệ xuống tuyến cơ sở, hỗ trợ tạm thời một
phần nhân lực cho cơ sở là một giải pháp chủ
đạo trong giai đoạn này để giải quyết vấn đề
nhân lực. Tiếp theo tinh thần này, trách nhiệm xã
hội của các bác sĩ sau ra trường được qui định
trong luật Khám chữa bệnh ban hành 2011 sẽ
tạo hành lang pháp lý giúp cho việc phân bố lại
nhân lực y tế cho hợp lý hơn trong thời gian tới.
Tuy nhiên, một vấn đề cũng cần được nghiên
cứu trong thời gian tới đó là đa dạng hóa các
hình thức hỗ trợ tuyến dưới như phát triển hình
thức hỗ trợ dưới dạng "bệnh viện vệ tinh" và
chuyển giao kỹ thuật theo từng gói dịch vụ.. để
tránh hiện tượng việc hỗ trợ tuyến dưới gây ảnh
hưởng đến hoạt động hàng ngày của tuyến trên.
Thiết kế chính sách không phù hợp
Nhiều khi với mong muốn đạt nhanh mục
tiêu đề ra, người quản lý đưa ra những chính
sách vội vàng không dựa vào các bằng chứng
thực tế, đấy là chưa kể các chính sách đưa ra
dưới áp lực của các đối tác hoặc các bên liên
quan với mục đích riêng của họ. Những chính
sách thiết kế như vậy chắc chắn tính khả thi
không cao do không phù hợp với lợi ích cộng
đồng.
Triển khai chính sách
Nếu mục tiêu được lựa chọn đúng, chính
sách thiết kế hoàn chỉnh thì hiệu quả của nó còn
phụ thuộc vào việc triển khai. Có nhiều yếu tố
ảnh hưởng đến quá trình triển khai chính sách
như: sự quyết tâm và năng lực của lãnh đạo địa
phương, nguồn lực cho triển khai, lộ trình hợp lý
cho việc triển khai, cam kết của địa phương thực
hiện chính sách, kế hoạch đánh giá định kỳ để
khắc phục và điều chỉnh kịp thời những điểm bất
hợp lý, giải pháp chống tham nhũng (ở những
chính sách liên quan nhiều đến lợi nhuận)...
Trên thực tế, không phải lúc nào chúng ta cũng
thực hiện đựợc những qui trình nêu trên và
không ít chính sách sau khi đã có chỉ đạo hoặc
ban hành lại thiếu kiểm soát, không đánh giá
chặt chẽ nên hiệu quả không đạt như mong
muốn.
IV. LờI KếT
Trong xây dựng chính sách y tế nói riêng
cũng như cải cách hệ thống y tế nói chung cần
luôn chú ý đến vệc xác định đúng vấn đề cần can
thiệp và điều chỉnh. Các vấn đề được xác định
phải dựa trên bằng chứng khoa học, tránh á p đặt
ý muốn chủ quan. Để giải quyết vấn đề cần sử
dụng linh hoạt 5 cơ chế điều chỉnh đã trình bày
và luôn nhớ các cơ chế này có quan hệ rất mật
thiết với nhau. Cuối cùng, trong khi xây dựng
chính sách, các nhà hoạch định cần biết thị
trường y tế ẩn chứa rất nhiều yếu tố thất bại và
vai trò điều hành luôn phải được quan tâm đúng
mức để đảm bảo cho việc triển khai chính sách
thu được hiệu quả như mong muốn.
TàI LIệU THAM KHảO
1. Viện Chiến lược và Chính sách Y tế. Nghiên cứu 9 tháng triển khai thực hiện nhằm đề xuất các
giải pháp hoàn thiện Đề á n 1816. Đề tài cấp Bộ. Bộ Y tế, 2010.
38
Diễn đàn chính sách y tế
2. Viện Chiến lược và Chính sách Y tế. Báo cáo khảo sát tình hình thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ
- CP trong hệ thống bệnh viện công lập. Bộ Y tế, 2010
3. Viện Chiến lược và Chính sách Y tế. Nghiên cứu thực trạng quá tải, dưới tải của hệ thống bệnh
viện các tuyến và đề xuất các giải pháp khắc phục. Đề tài cấp Bộ. Bộ Y tế,2009.
4. Flagship Global Course on Health Systems Strengthening and Sustainable Financing. World
Bank and Harvard School of Public Health, October 18-November 5,2010. Washington, DC,
USA.
5. Marc J Roberts, William Hsiao, Peter Berman, Michael R Reich: Getting Health Reform Right.A
guide to improving performance and equity. Oxford University Pres.Insc, 2008.
6. Marc J Robert and Michael Reich: Pharmaceutical Reform: A Guide to Improving Performance
and Equity. Harvard School of Public Health, March 2010.
39
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
mot_so_nguyen_tac_trong_xay_dung_chinh_sach_y_te.pdf