Vì vậy, việc sửa đổi Luật Viên chức
cần được thực hiện theo hướng thể chế hóa
chủ trương này. Theo Nghị quyết số 19-NQ/
TW, “thực hiện chế độ hợp đồng có thời hạn
đối với các trường hợp tuyển dụng mới” có
nghĩa là, từ nay trở đi, các trường hợp tuyển
dụng mới đều phải thực hiện chế độ hợp
đồng có thời hạn, trừ các trường hợp đơn vị
SNCL đóng ở vùng sâu, vùng xa, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
thì có thể vẫn thực hiện cả hợp đồng có thời
hạn và không xác định thời hạn. Nghị quyết
cũng không nêu phải bỏ chế độ hợp đồng
không xác định thời hạn. Như vậy, Điều
25 của Luật Viên chức cần được bổ sung
một khoản như sau: “Tất cả các trường hợp
tuyển dụng mới đều phải thực hiện chế độ
hợp đồng có thời hạn, trừ các trường hợp
tuyển dụng vào đơn vị SNCL ở vùng sâu,
vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn”. Bên cạnh đó, cần tiếp
tục duy trì chế độ hợp đồng không xác định
thời hạn trong Luật Viên chức hiện hành.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nội dung sửa đổi luật cán bộ, công chức và luật viên chức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ NỘI DUNG SỬA ĐỔI
LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ LUẬT VIÊN CHỨC
Tóm tắt:
Ngày 24/5/2019, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Cán bộ, công chức và Luật Viên chức đã được Chính phủ trình
Quốc hội tại kỳ họp thứ 7. Tuy nhiên, một số nội dung đề nghị sửa
đổi, bổ sung vẫn nhận được nhiều ý kiến khác nhau. Do đó, các
nội dung Dự thảo Luật cần được tiếp tục nghiên cứu, lựa chọn để
thực hiện chủ trương của Đảng và phù hợp với điều kiện hiện nay.
Trần Anh Tuấn*
* TS. Thứ trưởng Bộ Nội vụ
Abstract
On May 24, 2019, the Bill of Law on Cadres, Civil Servants
(amendments) and Bill of Law on Public Employees (amendments)
was submitted by the Government to the National Assembly at
the 7th meeting session. Recommended amendments to the bills
of law still receive different viewpoints. Therefore, the contents
of the bills of law should be further reviewed and finalized for
its consistence with the Party's orientation and its appropriateness
with the current conditions.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Cán bộ, công chức, viên
chức; đơn vị sự nghiệp công lập.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 11/07/2019
Biên tập : 29/07/2019
Duyệt bài : 01/08/2019
Article Infomation:
Keywords: cadres, public employee;
civil servants; public service
institutions.
Article History:
Received : 11 Jul. 2019
Edited : 29 Jul. 2019
Approved : 01 Aug. 2019
1. Có nên bỏ quy định công chức trong
bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập?
Khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công
chức (CBCC) năm 2008 quy định một số
vị trí việc làm trong bộ máy lãnh đạo, quản
lý của đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL)
là công chức mà không quy định thực hiện
chế độ công chức trong đơn vị SNCL. Do
1
lap-71842.aspx
đó, nếu cho rằng, Dự thảo sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật CBCC (Dự thảo Luật)
nhằm “bỏ chế độ công chức trong đơn vị
SNCL”1 là không chính xác. Mặc dù được
quy định là công chức nhưng các chức danh
này không hưởng lương từ ngân sách nhà
nước mà được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị SNCL theo quy định của pháp luật.
Số công chức này cũng không tính vào tổng
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 14(390) T7/2019
biên chế công chức được giao hàng năm cho
các bộ, ngành, địa phương.
Theo quy định của pháp luật hiện
hành, trong đơn vị SNCL chỉ có công chức
giữ chức vụ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý.
Tuy nhiên, số lượng công chức nhiều hay
phụ thuộc vào cấp mà đơn vị SNCL đó trực
thuộc (như trực thuộc Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ; trực thuộc bộ, ngành,
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,).
Ngoài ra, có một số đơn vị SNCL vẫn được
giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Ví dụ, Viện khoa học về ngành, lĩnh vực ở
một số bộ vẫn được giao nhiệm vụ quản lý
nhà nước về khoa học công nghệ do bộ đó
không có đơn vị quản lý khoa học công nghệ.
Như vậy, người đảm nhận các vị trí việc làm
thuộc nhiệm vụ quản lý nhà nước trong các
đơn vị SNCL này vẫn được xác định là công
chức. Vấn đề này được quy định tại Nghị
định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010
của Chính phủ, Thông tư số 08/2011/TT-
BNV ngày 02/6/2011 của Bộ Nội vụ hướng
dẫn một số điều của Nghị định số 06/2010/
NĐ-CP.
Cơ sở để xác định lãnh đạo đơn vị
SNCL là công chức xuất phát từ Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) và quy định của Hiến pháp. Theo quy
định của Hiến pháp năm 20132, Nhà nước
phải có trách nhiệm chăm lo xây dựng và
phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật, đầu
tư và phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe của nhân dân; phát triển giáo dục,
phát triển khoa học và công nghệ - coi đó là
quốc sách hàng đầu Để thực hiện nhiệm
vụ này, Nhà nước tổ chức thành lập các đơn
vị SNCL nhằm cung cấp các dịch vụ công
cơ bản, thiết yếu cho người dân. Do đó,
một số chức danh trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị SNCL được xác định là
2 Xem quy định tại các Điều 58, 60, 61, 62 Hiến pháp năm 2013.
công chức (nhưng thuộc số lượng người làm
việc và hưởng lương từ nguồn tài chính của
đơn vị SNCL). Đây chính là thể hiện trách
nhiệm của Nhà nước trong việc cử CBCC
sang thực hiện việc lãnh đạo và tổ chức
quản lý việc cung cấp các nhu cầu cơ bản
thiết yếu cho người dân. Nếu một số chức
danh lãnh đạo, quản lý của đơn vị SNCL
(như giám đốc bệnh viện, hiệu trưởng,)
chỉ là viên chức thì vị trí pháp lý của họ sẽ
được điều chỉnh bởi Luật Viên chức. Theo
đó, họ có thể tham gia góp vốn, thành lập
các doanh nghiệp thực hiện hoạt động cung
cấp dịch vụ công. Điều này sẽ dẫn đến hệ
quả là những người này sẽ tập trung vào bảo
vệ các lợi ích cho các đơn vị mà họ có lợi
ích mà không tập trung vào lãnh đạo đơn vị
SNCL thực hiện nhiệm vụ cung cấp các dịch
vụ công, đáp ứng sự hài lòng của người dân.
Nhưng nếu những người đó là công chức thì
họ không được làm những việc nói trên và
sẽ bị điều chỉnh bởi các quy định của Luật
CBCC. Như vậy, những công chức này mới
toàn tâm, toàn ý tập trung lãnh đạo đơn vị
SNCL thực hiện tốt và hiệu quả các nhiệm
vụ được Nhà nước giao, đáp ứng sự hài lòng
của người dân.
Bên cạnh đó, một số tổ chức, đơn vị
sự nghiệp như Đài Truyền hình Việt Nam,
Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt
Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ
Việt Nam, các trường chính trị tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, chức danh
người đứng đầu là các đồng chí Ủy viên Ban
Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng, tỉnh ủy
viên mà theo quy định hiện hành là CBCC.
Nếu Luật sửa theo hướng người đứng đầu,
cấp phó của người đứng đầu các tổ chức
SNCL này không là CBCC thì họ sẽ phải ký
hợp đồng làm việc có thời hạn. Đây là điều
rất bất hợp lý.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 14(390) T7/2019
Thực tiễn cho thấy, có một số đơn vị
sự nghiệp lưỡng tính, nghĩa là bên cạnh hoạt
động nghề nghiệp của đơn vị là chủ yếu, vẫn
có một số hoạt động quản lý nhà nước được
cấp có thẩm quyền giao (ví dụ như Vườn
Quốc gia vẫn có lực lượng kiểm lâm; các
Hạt (Điếm canh) của Chi cục Bảo vệ đê
điều, các Trạm Thú y thuộc Chi cục Thú
y, Cục Thú y, Trạm Bảo vệ thực vật thuộc
Chi cục Bảo vệ thực vật; Trạm Kiểm dịch
động vật ở biên giới thuộc Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn; Bảo hiểm xã hội
Việt Nam). Các tổ chức sự nghiệp này vẫn
được giao thực hiện một số nhiệm vụ quản
lý nhà nước Ngoài ra, còn các tổ chức cơ
quan nhà nước khác như: Cảng vụ Hàng hải,
Cảng vụ Đường thủy nội địa, Cảng vụ Hàng
không,.. là cơ quan quản lý nhà nước nhưng
được pháp luật cho phép thực hiện cơ chế
của đơn vị SNCL (có thu). Vì vậy, cần làm
rõ các vấn đề liên quan đến tính khả thi và
sự phù hợp với thực tế hiện nay ở Việt Nam.
Do đó, việc bỏ quy định có công chức trong
bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị SNCL
là vấn đề lớn, cần thận trọng, cân nhắc kỹ
lưỡng trước khi quyết định.
2. Tuyển dụng công chức và liên thông
trong công tác cán bộ
Thực hiện chủ trương của Đảng (Nghị
quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương Khóa XII) về “thống nhất việc kiểm
định đầu vào công chức để các địa phương,
cơ quan, đơn vị lựa chọn tuyển dụng theo
yêu cầu, nhiệm vụ, đồng thời nghiên cứu
phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù
và theo vùng, khu vực”3. Việc kiểm định
chất lượng đầu vào công chức đã được thể
chế hóa thành quy định tại khoản 2 Điều
39 Dự thảo Luật. Tuy nhiên, chúng tôi cho
rằng, Dự thảo Luật dường như chỉ trích dẫn
nguyên chủ trương của Đảng mà chưa thực
3 Khoản 2, mục III Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 7, khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
sự thể chế hóa được chủ trương này. Việc
bổ sung quy định kiểm định đầu vào trong
tuyển dụng công chức nhưng chưa thấy có
mối liên hệ với quy trình, thủ tục tuyển dụng
như quy định hiện hành. Như vậy, vô hình
chung, việc tuyển dụng công chức quy định
tại Dự thảo Luật đã làm tăng thêm một vòng
thi tuyển, làm tăng thêm thủ tục hành chính,
phức tạp thêm quy trình tuyển dụng, gây
khó khăn cho các ứng viên.
Để thực hiện nguyên tắc quản lý
CBCC, viên chức theo vị trí việc làm quy
định tại khoản 2 Điều 5 của Luật CBCC và
khoản 3 Điều 6 Luật Viên chức, sau khi thực
hiện các Luật này, danh mục vị trí việc làm
đã được xác định ở hầu hết các cơ quan, tổ
chức, đơn vị. Hệ thống tiêu chuẩn chức danh
công chức đã được sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện. Do đó, cần phải tiếp tục đẩy mạnh
đổi mới công tác quản lý CBCC viên chức
trên cơ sở vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức
danh, chức vụ.
Việc đổi mới này phải bắt đầu từ khâu
tuyển dụng. Hiện nay, đang có sự phân định
người có quyền tuyển dụng nhưng lại không
phải là người sử dụng; người có quyền sử
dụng lại không được quyền tuyển dụng.
Phương thức này đã được thực hiện từ năm
1993 tới nay và là dấu ấn của cơ chế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp trước
đây. Do vậy, nếu khâu tuyển dụng được thực
hiện như cũ sẽ dẫn đến tình trạng các kỳ thi
được tổ chức chung nhưng lại để tuyển dụng
cho nhiều vị trí việc làm có các yêu cầu về
trình độ, năng lực khác nhau, dẫn đến tình
trạng là “vừa thừa, vừa thiếu” trong đội ngũ
công chức, người đứng đầu không có quyền
tuyển chọn được những người phù hợp về
để làm việc, nhưng lại phải chịu trách nhiệm
về chất lượng đội ngũ công chức dưới quyền
của mình.
Để khắc phục tình trạng này, cần thiết
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 14(390) T7/2019
phải đổi mới phương thức tuyển dụng theo
hướng: thực hiện việc kiểm định đầu vào
nhưng phải gắn thẩm quyền tuyển dụng với
thẩm quyền sử dụng, thực hiện phân cấp
mạnh mẽ cho các đơn vị, tổ chức được quyền
tuyển dụng. Những người khi đã qua được
kỳ thi kiểm định đầu vào (thực hiện hoàn
toàn trên máy tính) thì được cấp một chứng
chỉ đủ điều kiện trở thành công chức. Cơ
quan, đơn vị, tổ chức nào có nhu cầu tuyển
dụng công chức thì căn cứ vào chứng chỉ
này và hồ sơ tuyển dụng để tổ chức phỏng
vấn, sát hạch lựa chọn người tuyển dụng vào
vị trí việc làm đang cần, không phải thành
lập Hội đồng tuyển dụng như hiện nay. Như
thế sẽ làm giảm các thủ tục hành chính về
thi tuyển, chuẩn hóa quy trình tuyển dụng
và gắn thẩm quyền sử dụng với thẩm quyền
tuyển dụng.
Việc gắn thẩm quyền tuyển dụng với
thẩm quyền sử dụng phải đi liền với đề cao
trách nhiệm. Vì các lý do khác nhau, nếu
người được giao quyền tuyển dụng và sử
dụng không tuyển được đúng người, dẫn
đến tình trạng đội ngũ công chức yếu và đơn
vị không hoàn thành nhiệm vụ thì phải từ
chức, miễn nhiệm.
Việc thể chế hóa chủ trương của Đảng
về vấn đề này phải gắn việc kiểm định đầu
vào với đổi mới cách thức tuyển dụng theo
hướng: tuyển dụng theo vị trí việc làm và
tiêu chuẩn chức danh, ai sử dụng thì người
đó tuyển dụng; bỏ Hội đồng tuyển dụng;
thực sự gắn trách nhiệm người đứng đầu với
việc tuyển dụng.
Liên thông trong công tác cán bộ chính
là sự thể hiện tính thống nhất trong công tác
cán bộ. Vì vậy, muốn bảo đảm tốt việc liên
thông trong công tác cán bộ phải xóa bỏ sự
phân biệt CBCC cấp huyện trở lên và CBCC
cấp xã. Thay vào đó là một đội ngũ CBCC
thống nhất từ Trung ương cho tới cấp xã
thực hiện công vụ trong một nền hành chính
thống nhất của một quốc gia thống nhất; đã
là công chức thì đều có thể xem xét, phân
công, bố trí vào làm việc ở tất cả các cơ quan
của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội
từ cấp xã trở lên.
3. Nâng ngạch và phân loại công chức
3.1. Nâng ngạch
Theo Luật CBCC năm 2008, việc quản
lý CBCC chuyển từ hệ thống chức nghiệp
sang hệ thống việc làm, thực hiện trên cơ sở
vị trí việc làm gắn với tiêu chuẩn chức danh.
Mỗi vị trí việc làm có một Bản mô tả công
việc của vị trí việc làm đó và một Khung
năng lực cần có để thực hiện các công việc
ở Bản mô tả. Mỗi vị trí việc làm có và chỉ có
một ngạch chức danh công chức tương ứng.
Người được tuyển dụng, bố trí vào vị trí việc
làm thì được bổ nhiệm vào ngạch công chức
tương ứng và hưởng lương của vị trí đó. Ví
dụ, một công chức là Giám đốc Sở đang ở
ngạch chuyên viên chính được giới thiệu và
bầu trúng cử vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban
nhân dân (UBND) tỉnh, mà vị trí việc làm
Chủ tịch UBND tỉnh được quy định ngạch
tương ứng là chuyên viên cao cấp thì đương
nhiên được bổ nhiệm và hưởng lương của
ngạch chuyên viên cao cấp ngay, không
phải thi nâng ngạch. Khái quát chung là:
nếu được bố trí hoặc bổ nhiệm vào một vị
trí việc làm nào thì được bổ nhiệm ngạch và
hưởng lương tương ứng ở vị trí việc làm đó.
Dự thảo Luật hiện nay quy định công
chức phải dự thi nâng ngạch cao hơn mới
được bố trí vào vị trí việc làm tương ứng là
không phù hợp. Bởi lẽ, nếu thi nâng ngạch
được mà đơn vị vẫn chưa có vị trí việc làm
tương ứng thì bố trí công việc, vị trí cho họ
như thế nào? Cũng không thể bố trí công
chức đã được bổ nhiệm ở ngạch cao hơn
phải làm việc ở vị trí việc làm có ngạch thấp
hơn. Một trường hợp giả định khác là đơn vị
có vị trí việc làm đang khuyết mà vị trí này
có ngạch tương ứng cao hơn ngạch mà công
chức đang giữ thì lại phải chờ có kỳ thi nâng
ngạch, cử công chức đi thi, sau đó được bổ
nhiệm vào ngạch dự thi rồi mới bố trí vào vị
trí việc làm đang khuyết, khiến cho khoảng
thời gian mà vị trí việc làm đang khuyết đó
không có ai đảm nhận.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 14(390) T7/2019
Từ năm 2008 đến nay, do chúng ta tập
trung vào xây dựng vị trí việc làm, tiếp tục
hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh, cho nên
vẫn tổ chức thi nâng ngạch. Việc thi này
thực ra là giai đoạn chuyển tiếp và do chưa
sửa Luật CBCC, dẫn đến tình trạng là công
chức ở vị trí việc làm yêu cầu ngạch chuyên
viên nhưng vẫn thi nâng ngạch chuyên viên
chính và không hề thay đổi vị trí việc làm.
Hoặc là cán bộ được bầu trúng cử vào vị trí
Chủ tịch UBND hoặc Phó Chủ tịch UBND
cấp tỉnh, cấp huyện nhưng vẫn phải đi dự
thi nâng ngạch công chức. Nếu như không
vượt qua được kỳ thi nâng ngạch thì không
được hưởng lương ở ngạch ứng với vị trí
đó, nhưng vẫn phải đảm nhiệm chức trách
và nhiệm vụ của vị trí Chủ tịch hoặc Phó
Chủ tịch UBND. Vì vậy, trong thời gian tới,
khi cải cách tiền lương theo nguyên tắc: trả
lương theo vị trí việc làm thì chỉ công chức
mới sử dụng ngạch khi thực hiện các nội
dung quản lý, còn đối với cán bộ thì không
nên sử dụng ngạch để quản lý. Vì công chức
làm việc theo cơ chế tuyển dụng và gắn với
chuyên môn nghiệp vụ; còn cán bộ làm việc
theo cơ chế bầu cử, gắn với trách nhiệm
chính trị (không nên để tình trạng như hiện
nay là cán bộ như Đại biểu Quốc hội, các
chức danh do bầu cử trong Hội đồng nhân
dân (HĐND), UBND đều phải đi dự thi nâng
ngạch). Cho nên, nếu Dự thảo Luật vẫn quy
định có nâng ngạch trong quản lý CBCC thì
sẽ dẫn đến tình trạng bất cập nêu trên, hoặc
sẽ có tình trạng là mỗi vị trí việc làm sẽ có
nhiều ngạch (ít nhất là từ 2 ngạch trở lên).
Điều này dẫn đến việc tiếp tục tồn tại một
điều vô lý là một vị trí việc làm có thể có 2
ngạch hoặc nhiều ngạch cao thấp khác nhau.
Trong khi đó, một vị trí việc làm có và chỉ
có một ngạch; làm việc ở vị trí việc làm nào
thì được giữ ngạch tương ứng với vị trí việc
làm đó.
Chúng tôi cho rằng, việc tiếp tục quy
định thi nâng ngạch từ thấp lên cao trong
một nền công vụ theo vị trí việc làm là
không còn phù hợp. Vì vậy, Dự thảo Luật
chỉ nên áp dụng ngạch với công chức, mà
không áp dụng ngạch với các chức danh bầu
cử và mỗi vị trí việc làm chỉ có một ngạch.
Điều này đương nhiên sẽ dẫn tới không còn
thi nâng ngạch. Tương tự, đối với viên chức
cũng vậy. Việc thay đổi chức danh nghề
nghiệp của viên chức cũng nên bỏ không
thi hoặc xét, mà thực hiện theo nguyên tắc:
“viên chức được tuyển dụng, bố trí ở vị trí
việc làm nào thì được bổ nhiệm vào chức
danh nghề nghiệp tương ứng với vị trí việc
làm đó”.
3.2 Phân loại công chức
Theo Luật CBCC năm 2008, việc phân
loại công chức được thực hiện theo 2 góc
độ: một là, căn cứ ngạch bổ nhiệm; hai là,
căn cứ vào vị trí công tác. Hiện nay, Dự thảo
Luật sửa đổi theo hướng: căn cứ vào lĩnh
vực ngành nghề, chuyên môn nghiệp vụ để
phân loại nhưng nội dung lại phân loại theo
ngạch bổ nhiệm. Như vậy là không logic và
tạo nên sự lủng củng, không ăn nhập. Ngành
nghề nào trong xã hội cũng cần thiết, đều
được coi trọng. Công chức mà phân loại
theo lĩnh vực ngành nghề thì chưa biết để
nhằm mục đích gì, nhưng vô hình trung các
ngành nghề đã bị phân loại cao thấp, sang
hèn khác nhau. Hơn nữa, Dự thảo Luật lại
bỏ phân loại công chức theo vị trí công
tác mà không nói rõ lý do vì sao là thiếu
thuyết phục.
Trong nền công vụ hiện nay, chỉ nên
phân loại CBCC theo vị trí công tác (lãnh
đạo, quản lý; hoạch định chính sách; thực
thi thừa hành; phục vụ) là đủ. Mục đích phân
loại là để đánh giá và quản lý được cơ cấu
và chất lượng của đội ngũ. Từ đó làm cơ sở
để thực hiện việc tuyển dụng, quy hoạch, bồi
dưỡng, huấn luyện, thực hiện chế độ, chính
sách, đánh giá, phân loại công chức. Do
vậy, cần cân nhắc có nên tiếp tục thực hiện
phân loại công chức theo ngạch nữa hay
không? Mục đích để làm gì ? Nếu không cần
thiết thì cũng nên bỏ. Do đó, chúng tôi đề
nghị sửa quy định phân loại công chức tại
Điều 34 Luật CBCC.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 14(390) T7/2019
4. Chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài
Điều 6 Luật CBCC năm 2008 quy
định Nhà nước có chính sách để phát hiện,
thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ
xứng đáng đối với người có tài năng. Dự
thảo Luật đã sửa đổi vấn đề này, quy định
thêm 2 khoản giao cho Chính phủ và các cơ
quan quản lý CBCC quy định cụ thể. Tuy
nhiên, qua thực hiện Luật CBCC từ năm
2008 đến nay, có một số vấn đề cần được
làm rõ trong lần sửa này, đó là:
Thứ nhất, cần giải thích thế nào là
người có tài năng và người có tài năng trong
hoạt động công vụ; tiêu chí để xác định
người có tài năng là gì.
Thứ hai, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc,
cán bộ khoa học trẻ có phải là người có tài
năng không hay chỉ là những người có tiềm
năng. Nhiều nghiên cứu cho thấy, tài năng
trong hoạt động công vụ chỉ được thể hiện
thông qua quá trình làm việc. Những người
chưa làm việc thì chưa thể khẳng định họ có
tài năng gì. Việc tuyển dụng những trường
hợp này theo quy định tại khoản 2 Điều 37
trong Dự thảo Luật vì sao lại thực hiện xét
tuyển; thuật ngữ “cán bộ khoa học trẻ” được
hiểu thế nào và cần phải được giải thích.
Thứ ba, khoản 2 Điều 6 Dự thảo Luật
giao Chính phủ quy định khung cơ chế, chính
sách phát hiện, thu hút, trọng dụng và chế độ
đãi ngộ đối với người có tài năng trong hoạt
động công vụ. Vậy, cần giải thích thuật ngữ
“khung cơ chế, chính sách” là thế nào; khác
“cơ chế” ở điểm gì. Đề nghị cần quy định
vấn đề này ngay tại Luật sửa đổi lần này mà
không nên giao cho Chính phủ quy định vì
Luật CBCC năm 2008 đã giao cho Chính
phủ nhưng sau hơn 10 năm vẫn chưa quy
định được chính sách đối với người có tài
năng. Lý do là Luật chưa định nghĩa và nêu
được tiêu chí để xác định người có tài năng
trong hoạt động công vụ là thế nào.
5. Xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức
Luật CBCC hiện nay quy định:
+ Cán bộ: có bốn hình thức kỷ luật là
khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi nhiệm.
Trong đó, cách chức chỉ áp dụng đối với cán
bộ được phê chuẩn giữ chức vụ theo nhiệm kỳ;
+ Công chức: có sáu hình thức kỷ luật
là khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng
chức, cách chức, buộc thôi việc.
Việc quy định sáu hình thức kỷ luật
như vậy, có “miền” tương đối rộng, để thuận
lợi và bảo đảm công bằng, chính xác trong
việc áp dụng các hình thức kỷ luật phù hợp
với các mức độ sai phạm, khuyết điểm của
công chức. Hình thức giáng chức và cách
chức để áp dụng đối với công chức lãnh đạo,
quản lý.
Chúng tôi cho rằng, Dự thảo Luật lược
bỏ đi một hình thức kỷ luật (giáng chức) trong
các hình thức kỷ luật đối với công chức lãnh
đạo, quản lý là không phù hợp. Cán bộ được
hình thành thông qua con đường bầu cử tại
các kỳ họp của Quốc hội, HĐND,... Nếu sai
phạm, khuyết điểm đến mức không thể cho
giữ chức vụ đó nữa thì phải thực hiện cách
chức (đối với chức vụ phê chuẩn) hoặc bãi
nhiệm (đối với chức vụ bầu). Còn đối với
công chức lãnh đạo, quản lý được bổ nhiệm
theo quá trình phấn đấu từ chuyên viên lên
phó trưởng phòng, rồi trưởng phòng, phó vụ
trưởng, vụ trưởng,... Khi vi phạm kỷ luật ở
mức độ mà nếu áp dụng hình thức cách chức
thì quá nặng đối với sai phạm, nếu áp dụng
cảnh cáo thì lại quá nhẹ đối với sai phạm thì
có thể áp dụng hình thức giáng chức là phù
hợp. Vì thế, không nên bỏ hình thức kỷ luật
giáng chức
Về việc quy định xử lý kỷ luật CBCC
đã nghỉ việc, nghỉ hưu mới phát hiện vi
phạm: đây là việc làm cần thiết để tránh tình
trạng “hạ cánh an toàn” hoặc thiếu trách
nhiệm trong thời gian sắp nghỉ hưu quyết
bừa, quyết ẩu. Nên giao cho Chính phủ quy
định chi tiết ở văn bản hướng dẫn thi hành,
không nên quy định trực tiếp vấn đề này
trong Dự thảo Luật.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 14(390) T7/2019
6. Hợp đồng làm việc đối với viên chức
Luật Viên chức năm 2010 đã quy
định việc tuyển dụng viên chức được thực
hiện thông qua ký kết hợp đồng làm việc
với 2 loại: có thời hạn (từ 12 đến 36 tháng)
và không xác định thời hạn. Nghị quyết số
19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị
lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và
quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của các đơn vị SNCL đã đưa ra
chủ trương: “Thực hiện chế độ hợp đồng
viên chức có thời hạn đối với những trường
hợp tuyển dụng mới (trừ các đơn vị SNCL
ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn)”.
Vì vậy, việc sửa đổi Luật Viên chức
cần được thực hiện theo hướng thể chế hóa
chủ trương này. Theo Nghị quyết số 19-NQ/
TW, “thực hiện chế độ hợp đồng có thời hạn
đối với các trường hợp tuyển dụng mới” có
nghĩa là, từ nay trở đi, các trường hợp tuyển
dụng mới đều phải thực hiện chế độ hợp
đồng có thời hạn, trừ các trường hợp đơn vị
SNCL đóng ở vùng sâu, vùng xa, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
thì có thể vẫn thực hiện cả hợp đồng có thời
hạn và không xác định thời hạn. Nghị quyết
cũng không nêu phải bỏ chế độ hợp đồng
không xác định thời hạn. Như vậy, Điều
25 của Luật Viên chức cần được bổ sung
một khoản như sau: “Tất cả các trường hợp
tuyển dụng mới đều phải thực hiện chế độ
hợp đồng có thời hạn, trừ các trường hợp
tuyển dụng vào đơn vị SNCL ở vùng sâu,
vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn”. Bên cạnh đó, cần tiếp
tục duy trì chế độ hợp đồng không xác định
thời hạn trong Luật Viên chức hiện hành.
Bên cạnh các vấn đề nêu trên, để thể
chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng về xây
dựng đội ngũ CBCC viên chức đáp ứng yêu
cầu hiện nay, việc sửa đổi Luật CBCC và
Luật Viên chức lần này cần tập trung vào
một số nội dung chính sau:
Một là, quy định thống nhất đội ngũ
CBCC làm việc trong tất cả các cơ quan của
Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội
từ Trung ương cho tới cấp xã; không tách
CBCC cấp xã ra làm 2 nhóm như hiện nay.
Hai là, đổi mới cơ chế quản lý CBCC
viên chức theo hướng gắn thẩm quyền tuyển
dụng với thẩm quyền sử dụng. Ai sử dụng
thì người đó tuyển dụng và phải chịu trách
nhiệm về chất lượng công tác tuyển dụng.
Lấy vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh
là hạt nhân, là cơ sở để thực hiện các nội
dung của công tác tuyển dụng, sử dụng và
quản lý CBCC viên chức. Lấy việc kiểm
định đầu vào tuyển dụng công chức làm
cơ sở để đổi mới công tác tuyển dụng công
chức. Nghiên cứu bỏ chế độ tập sự (để phù
hợp với cơ chế tuyển dụng và quản lý theo
vị trí việc làm)
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011).
2. Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
3. Luật Viên chức năm 2010.
4. Nghị định số 06/2010/NĐ-CP quy định những người là công chức.
5. Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 6 Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức
và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị SNCL.
6. Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 7 Khóa XII về về tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
7. Thông tư số 08/2011/TT-BNV của Bộ Nội vụ hướng dẫn một số điều của Nghị định số 06/2010/NĐ-CP
quy định những người là công chức.
8. Sắc lệnh số 76-SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Quy chế
công chức.
9. Luật Công vụ của Trung Quốc.
10. Luật Công vụ của Hàn Quốc.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 14(390) T7/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_noi_dung_sua_doi_luat_can_bo_cong_chuc_va_luat_vien_c.pdf