Tiêu chí giám sát, đánh giá việc tổ chức
áp dụng luật
Tiêu chí này đặt ra yêu cầu phải giám
sát, đánh giá xem các cơ quan, cá nhân được
giao nhiệm vụ áp dụng luật (luật và văn bản
quy định chi tiết luật) như thế nào? Việc áp
dụng luật có thể được coi là hoạt động then
chốt để đưa luật vào cuộc sống. Nếu như các
công đoạn: xây dựng, ban hành một đạo luật
có chất lượng, làm tốt công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, ban hành văn bản quy
định chi tiết các điều khoản của luật kịp thời,
bảo đảm chất lượng, nhưng các cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền không tổ chức tốt việc
áp dụng luật thì giá trị thu được từ đạo luật
đó cũng rất hạn chế, làm giảm vai trò, hiệu
quả, kết quả hoạt động của Quốc hội và các
cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác
xây dựng luật. Do đó, tiêu chí giám sát, đánh
giá việc áp dụng luật cần làm rõ các vấn đề
sau đây:
- Giám sát, đánh giá các cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền tổ chức tập huấn cho
đội ngũ thi hành, áp dụng luật như thể nào,
có kịp thời không, có đúng các đối tượng
cần tập huấn không? nội dung tập huấn có
đáp ứng với yêu cầu, quy định của pháp luật
không và chất lượng, kết quả tập huấn như
thế nào?
- Giám sát, đánh giá trình độ, năng lực
của đội ngũ cán bộ, công chức thi hành, áp
dụng luật trên thực tế; xem xét luật đi vào đời
sống như thế nào. Chẳng hạn giám sát, đánh
giá đội ngũ cán bộ, chiến sỹ công an áp dụng
Luật Xử lý vi phạm hành chính và văn bản
quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật để
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; xử phạt
vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân
có hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
giao thông đường bộ; xem xét họ có áp dụng
pháp luật không? có xử phạt hay làm ngơ
các hành vi vi phạm pháp luật không, khi xử
phạt thì có xử phạt đúng hình thức, mức độ
xử phạt đối với hành vi vi phạm không, có
đúng người, đúng hành vi vi phạm không?
có nhũng nhiễu, gây khó dễ cho người vi
phạm, nhận hối lộ, tham nhũng không?
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề đặt ra và kiến nghị xây dựng tiêu chí giám sát, đánh giá việc thực hiện luật từ thực tiễn thi hành luật hành tiết kiệm, chống lãng phí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG TIÊU CHÍ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ
VIỆC THỰC HIỆN LUẬT TỪ THỰC TIỄN THI HÀNH LUẬT HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ1
1 Nghiên cứu này là kết quả thuộc phạm vi Đề tài NCKH cấp Bộ “Xây dựng tiêu chí giám sát, đánh giá thực hiện luật
từ thực tiễn thi hành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí” của Viện Nghiên cứu Lập pháp năm 2017 do TS. Bùi
Đặng Dũng làm Chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Giám sát việc thực hiện luật là một trong những hoạt động giám sát
quan trọng của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH. Để
góp phần vào việc xây dựng tiêu chí giám sát, đánh giá việc thực
hiện luật từ thực tiễn thi hành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, bài viết này đề cập đến một số vấn đề sau đây: (i) Khái quát
các quy định của pháp luật về giám sát việc thực hiện luật; (ii) Khái
quát thực trạng giám sát, đánh giá việc thực hiện Luật thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí; (iii) Một số kiến nghị xây dựng tiêu chí
giám sát, đánh giá việc thực hiện luật.
Đặng Đình Luyến*
Bùi Đặng Dũng**
* Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội.
** TS. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội.
Abstract
Supervision of the law enforcement is one of the crucial activities of
the National Assembly, the National Assembly's agencies, and the
National Assembly deputies. In order to provide technical assistance
to development of supervision and evaluation criteria for the law
enforcement of the Law on Saving Enforcement and Wastefulness
Prevention, this article provides the following issues: (i) Discussions
on the law on supervision of law enforcement; (ii) Overview of
the status of supervision and evaluations of the enforcement of the
Law on Saving Enforcement and Wastefulness Prevention; (iii)
Recommendations for development of supervision and evaluation
criteria for the law enforcement.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: giám sát, đánh giá việc thực
hiện luật; tiêu chí giám sát việc thực
hiện luật; Luật Thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 08/05/2019
Biên tập : 25/05/2019
Duyệt bài : 31/05/2019
Article Infomation:
Keywords: supervision and evaluation
criteria for the law enforcement;
supervision criteria criteria for the law
enforcement; Law on Saving Enforcement
and Wastefulness Prevention
Article History:
Received : 08 May 2019
Edited : 25 May 2019
Approved : 31 May 2019
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 10(386) T5/2019
1. Khái quát các quy định của pháp luật
về giám sát việc thực hiện luật
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
khẳng định vị trí, vai trò của Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam; thực hiện quyền giám
sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
đại biểu Quốc hội (ĐBQH) giám sát việc
thực hiện các luật không chỉ được quy định
trong Hiến pháp, mà còn được quy định cụ
thể trong Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội và các văn bản
pháp luật khác. Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH giám
sát việc thực hiện các luật, cụ thể như sau:
1.1 Các quy định của Hiến pháp, pháp luật
về Quốc hội giám sát việc thực hiện luật
Khoản 2 Điều 70 Hiến pháp năm 2013
quy định Quốc hội “thực hiện quyền giám
sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội. Như vậy, đối với
các luật do Quốc hội ban hành, Quốc hội đều
giám sát tối cao đối với các cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong việc thực hiện các luật, xem
họ có tuân theo đúng các quy định của luật
không? Nếu không thực hiện đúng, Quốc
hội ra nghị quyết xử lý hành vi vi phạm -
không tuân theo đúng quy định của luật.
- Pháp luật đã quy định Quốc hội giám
sát việc ban hành các văn bản quy định chi
tiết các luật; xem xét các cơ quan, cá nhân
được giao nhiệm vụ có ban hành kịp thời các
văn bản quy định chi tiết luật không, các văn
bản được ban hành có phù hợp với quy định
của luật không?
- Ngoài các quy định nêu trên, Hiến
pháp, các luật còn quy định Quốc hội có một
số thẩm quyền giám sát khác nhằm bảo đảm
việc thực hiện các luật, như:
+ Xem xét việc trả lời chất vấn của
những người bị chất vấn về vấn đề liên quan
đến việc thực hiện các luật.
+ Xem xét báo cáo giám sát chuyên đề
liên quan đến thực hiện các luật.
+ Xem xét báo cáo của Ủy ban lâm
thời do Quốc hội thành lập để điều tra về
một vấn đề nhất định liên quan đến thực
hiện luật.
+ Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc
hội bầu hoặc phê chuẩn.
+ Xem xét báo cáo của Ủy ban thường
vụ Quốc hội (UBTVQH) về kiến nghị giám
sát của UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH
về vấn đề liên quan đến thực hiện luật.
+ Một số hoạt động giám sát khác có
liên quan đến thực hiện luật.
Tất cả các quy định nêu trên đều nhằm
giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối
cao việc tuân theo các luật đã được Quốc hội
ban hành.
1.2 Các quy định của Hiến pháp, pháp luật
về UBTVQH giám sát việc thực hiện luật
- Với vai trò là cơ quan thường trực
của Quốc hội, khoản 3 Điều 74 Hiến pháp
quy định UBTVQH giám sát việc thi hành
luật. UBTVQH có trách nhiệm giám sát các
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi hành
các luật, nhằm góp phần bảo đảm các luật
thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất.
- Pháp luật quy định UBTVQH giám
sát việc ban hành các văn bản quy định chi
tiết các luật để xem xét các văn bản này có
ban hành kịp thời không, có phù hợp với
luật không. Trong trường hợp UBTVQH
phát hiện văn bản quy định chi tiết trái với
luật, UBTVQH ra nghị quyết đình chỉ việc
thi hành và trình Quốc hội xem xét bãi bỏ
văn bản đó tại kỳ họp gần nhất.
- Ngoài các quy định nêu trên, pháp
luật còn quy định UBTVQH thực hiện các
hoạt động giám sát khác nhằm góp phần
giúp UBTVQH giám sát việc thực hiện luật,
như:
+ Xem xét báo cáo công tác của Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, cơ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 10(386) T5/2019
quan khác do Quốc hội thành lập và các báo
cáo khác.
+ Xem xét việc trả lời chất vấn của
những người bị chất vấn trong thời gian giữa
hai kỳ họp Quốc hội về vấn đề liên quan đến
thực hiện luật.
+ Giám sát chuyên đề về vấn đề liên
quan đến thực hiện luật.
+ Xem xét báo cáo hoạt động của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh; xem xét nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có dấu hiệu
trái với luật.
+ Giám sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị của công dân về vấn đề liên
quan đến thực hiện luật.
+ Thực hiện các hoạt động giám sát
khác.
1.3 Các quy định của pháp luật về Hội
đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội
giám sát việc thực hiện luật
Luật Tổ chức Quốc hội và các văn bản
pháp luật khác quy định về thẩm quyền giám
sát của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội đối với việc thực hiện các luật như sau:
- Hội đồng Dân tộc giám sát việc thực
hiện các luật thuộc lĩnh vực dân tộc.
- Ủy ban Pháp luật giám sát việc thực
hiện các luật về dân sự, hành chính, về tổ
chức bộ máy nhà nước, trừ tổ chức bộ máy
của cơ quan tư pháp.
- Ủy ban Tư pháp giám sát việc thực
hiện các luật về hình sự, tố tụng hình sự, tố
tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án,
bổ trợ tư pháp, phòng, chống tham nhũng, tổ
chức bộ máy của cơ quan tư pháp.
- Ủy ban Kinh tế giám sát việc thực
hiện các luật thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế,
đất đai, tiền tệ, ngân hàng, hoạt động kinh
doanh.
- Ủy ban Tài chính - Ngân sách giám
sát việc thực hiện các luật thuộc lĩnh vực tài
chính, ngân sách, kiểm toán nhà nước.
- Ủy ban Quốc phòng - An ninh giám
sát việc thực hiện các luật thuộc lĩnh vực
quốc phòng và an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng giám sát việc
thực hiện các luật thuộc lĩnh vực văn hoá,
giáo dục, thông tin, truyền thông, tín ngưỡng,
tôn giáo, du lịch, thể thao, thanh niên, thiếu
niên, nhi đồng.
- Ủy ban về Các vấn đề xã hội giám
sát việc thực hiện các luật thuộc lĩnh vực lao
động, việc làm, y tế, dân số, an sinh xã hội,
bình đẳng giới, thi đua, khen thưởng, phòng,
chống tệ nạn xã hội.
- Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi
trường giám sát việc thực hiện các luật thuộc
lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên,
bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí
hậu, phòng, chống thiên tai.
- Ủy ban Đối ngoại giám sát việc thực
hiện các luật thuộc lĩnh vực đối ngoại.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định theo
lĩnh vực phụ trách, Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội giám sát các cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền trong việc ban hành
các văn bản quy định chi tiết luật để bảo
đảm các văn bản này phù hợp với quy định
của các luật.
Trong quá trình giám sát, Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có quyền
kiến nghị với các cơ quan, cá nhân chịu sự
giám sát phải thực hiện nghiêm chỉnh, thống
nhất các luật và ban hành văn bản quy định
chi tiết luật phải kịp thời và phù hợp với quy
định của luật; nếu các cơ quan, cá nhân này
không thực hiện thì kiến nghị với UBTVQH
xem xét xử lý.
1.4 Các quy định của pháp luật về ĐBQH,
Đoàn ĐBQH giám sát việc thực hiện luật
- Pháp luật quy định ĐBQH, Đoàn
ĐBQH giám sát việc thực hiện luật và việc
ban hành văn bản quy định chi tiết luật ở địa
phương.
- Chất vấn những người bị chất vấn về
vấn đề liên quan đến thực hiện luật; giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân có liên quan đến việc thực hiện luật.
Trong quá trình giám sát, ĐBQH,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 10(386) T5/2019
Đoàn ĐBQH có quyền kiến nghị, yêu cầu
cơ quan, cá nhân chịu sự giám sát thực hiện
đúng quy định của luật và ban hành văn bản
quy định chi tiết phải phù hợp với quy định
của luật.
Như vậy, pháp luật đã quy định khá cụ
thể về thẩm quyền giám sát của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội, ĐBQH đối với việc
thực hiện các luật. Đối với mỗi hoạt động
giám sát của Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, ĐBQH
thì pháp luật còn quy định cụ thể về thẩm
quyền, quy trình, thủ tục tiến hành giám sát
việc thực hiện các luật; hoạt động giám sát
của các chủ thể giám sát có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau; tôn trọng quyền, trách nhiệm
của cơ quan, cá nhân thi hành luật, cũng
như phân định rõ thẩm quyền của các chủ
thể giám sát trong quá trình giám sát việc
thực hiện luật về xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật. Chẳng hạn, một trong những hoạt
động giám sát việc thực hiện luật đó là giám
sát việc ban hành văn bản quy định chi tiết
luật, pháp luật giao cho nhiều chủ thể giám
sát (Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
ĐBQH và cơ quan, tổ chức khác) thực hiện.
Thẩm quyền, quy trình, thủ tục giám sát của
các chủ thể giám sát đối với việc ban hành
văn bản quy định chi tiết luật có khác nhau.
Đối với thẩm quyền xử lý vi phạm trong ban
hành văn bản quy định chi tiết luật thì: Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,
ĐBQH giám sát việc ban hành văn bản quy
định chi tiết luật mà phát hiện văn bản quy
định chi tiết này không phù hợp với luật thì
kiến nghị cơ quan, cá nhân đã ban hành văn
bản đó sửa đổi, bãi bỏ một phần hoặc toàn
bộ văn bản trái với luật; nếu quá thời gian
quy định mà không sửa đổi, bãi bỏ hoặc thực
hiện không đúng với yêu cầu, kiến nghị thì
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội,
ĐBQH đề nghị UBTVQH xem xét quyết
định. UBTVQH tổ chức xem xét đề nghị
này, nếu thấy văn bản quy định chi tiết luật
trái với quy định của luật, thì đình chỉ việc
thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản đó
và đề nghị Quốc hội bãi bỏ tại kỳ họp gần
nhất. Quốc hội tổ chức xem xét văn bản quy
định chi tiết luật, nếu thấy văn bản quy định
chi tiết trái với quy định của luật thì Quốc
hội quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ
văn bản đó.
Các quy định nêu trên là cơ sở pháp lý
quan trọng để các chủ thể giám sát việc thực
hiện các luật, nhằm bảo đảm các luật được
thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
2. Khái quát thực trạng giám sát, đánh
giá việc thực hiện Luật Thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí được Quốc hội khóa XIII thông ngày
26/11/2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2014. Luật này gồm có 5 chương với 80
điều, quy định về thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí trong quản lý, sử dụng ngân sách
nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước,
lao động, thời gian lao động trong khu vực
nhà nước; quản lý, khai thác và sử dụng tài
nguyên; hoạt động sản xuất, kinh doanh và
tiêu dùng của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
Tính đến nay, Luật Thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí đã có hiệu lực và được
thực hiện hơn 4 năm. Khoảng thời gian này
là đủ thực tiễn trải nghiệm để giám sát, đánh
giá việc thực hiện luật, làm cơ sở cho việc
xây dựng các tiêu chí giám sát, đánh giá việc
thực hiện các luật nói chung.
Việc giám sát, đánh giá thực trạng
thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí theo các tiêu chí sau đây:
- Xem xét việc phổ biến, giáo dục Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí như thế
nào. Bởi vì, để Luật được thực hiện nghiêm
chỉnh thì một trong những yêu cầu đặt ra
là phải phổ biến, tuyên truyền Luật để mọi
cơ quan, tổ chức, cá nhân biết và thực hiện.
Nếu không làm tốt công đoạn này thì các cơ
quan, tổ chức, cá nhân không biết về Luật
và sẽ không thực hiện Luật tốt được. Vì vậy,
cần phải giám sát, đánh giá thực trạng công
tác phổ biến, giáo dục Luật Thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí.
- Giám sát, đánh giá việc ban hành các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 10(386) T5/2019
văn bản quy định chi tiết Luật Thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí, vì trong Luật này
có một số điều khoản giao cho Chính phủ,
bộ ngành quy định chi tiết.
- Giám sát, đánh giá việc tổ chức áp
dụng Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí trong thực tiễn; xem xét các cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền áp dụng Luật và xem
xét Luật này được các cơ quan, tổ chức, cá
nhân thực hiện như thế nào?
- Tổng kết đánh giá kết quả Luật Thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí đi vào đời
sống, tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả như
thế nào? những kết quả thu được, những hạn
chế, bất cập
- Xem xét, đánh giá những vấn đề
khác có liên quan trong thực tiễn thực hiện
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Từ thực trạng giám sát, đánh giá việc
thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí để rút ra những giá trị thực tiễn,
kinh nghiệm phục vụ cho việc nghiên cứu
xây dựng các tiêu chí giám sát, đánh giá việc
thực hiện các luật nói chung.
3. Một số kiến nghị xây dựng tiêu chí
giám sát, đánh giá việc thực hiện luật
Để đưa luật vào cuộc sống và được
thực hiện nghiêm chỉnh, khả thi, sau khi luật
được Quốc hội thông qua phải thực hiện
nhiều công việc khác nhau, từ việc công bố
luật, phổ biến, giáo dục để mọi cơ quan, tổ
chức, cá nhân biết thực hiện; ban hành các
văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
luật; tổ chức thực hiện luật; đôn đốc, kiểm
tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện luật,
Vì vậy, việc xây dựng các tiêu chí giám sát,
đánh giá việc thực hiện luật cũng phải dựa
vào các hoạt động nêu trên, cụ thể như sau:
3.1 Về tiêu chí giám sát, đánh giá việc phổ
biến, giáo dục luật
Sau khi luật được Quốc hội thông qua,
Chủ tịch nước công bố thì nhiệm vụ quan
trọng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm là phải phổ biến, giáo dục luật
để mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân biết, thực
hiện. Đây là giai đoạn khởi đầu của quy trình
đưa luật vào cuộc sống được triển khai thực
hiện, là giai đoạn quan trọng; nếu không
thực hiện tốt công việc này thì các cơ quan,
tổ chức, cá nhân không biết luật, không hiểu
các quy định của luật để thực hiện. Do đó,
đối với các chủ thể có thẩm quyền giám sát
việc thực hiện luật cần có tiêu chí giám sát,
đánh giá xem các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có trách nhiệm theo quy định của Luật Phổ
biến, giáo dục pháp luật đã tổ chức việc phổ
biến, giáo dục luật như thế nào. Có thực hiện
đầy đủ các hình thức phổ biến, giáo dục luật
không. Đặc biệt là tiêu chí giám sát, đánh
giá này cần làm rõ xem các bộ ngành, Ủy
ban nhân dân các cấp (cơ quan quản lý nhà
nước) và các cơ quan, tổ chức khác có liên
quan đã tổ chức phổ biến, giáo dục luật có
bảo đảm chất lượng không? Các hình thức
phổ biến, giáo dục luật có phù hợp với các
đối tượng được phổ biến, giáo dục không?
chất lượng, hiệu quả, kết quả phổ biến, giáo
dục có đáp ứng yêu cầu theo quy định của
pháp luật không, v.v.. Trong tiêu chí giám
sát, đánh giá này cũng phải đưa ra biện pháp
xử lý trong trường hợp việc phổ biến, giáo
dục luật không đáp ứng yêu cầu, vi phạm
quy định của pháp luật (như vi pham các
quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp
luật).
3.2 Tiêu chí giám sát, đánh giá việc ban
hành văn bản quy định chi tiết
Ở nước ta, trong các luật có không
ít quy định còn mang tính nguyên tắc, quy
định chung chung và giao cho UBTVQH,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ
ngành, thậm chí giao cho cả chính quyền địa
phương quy định chi tiết luật. Những quy
định trong các luật chỉ được thực hiện sau
khi có văn bản quy định chi tiết luật. Mặt
khác, pháp luật hiện hành đang giao cho
Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc,
các Ủy ban của Quốc hội, ĐBQH và các
cơ quan, tổ chức có liên quan giám sát việc
ban hành các văn bản quy định chi tiết luật.
Vì vậy, cần có tiêu chí giám sát, đánh giá
việc ban hành văn bản quy định chi tiết luật.
Đây có thể coi là một trong những tiêu chí
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 10(386) T5/2019
quan trọng, vì nếu không giám sát tốt việc
ban hành văn bản sẽ dẫn đến tình trạng chậm
ban hành hoặc không ban hành văn bản quy
định chi tiết luật hoặc có ban hành văn bản
quy định chi tiết nhưng trái với quy định
của luật, làm cho quy định của luật không
được thực hiện; có không ít trường hợp là
đã ban hành văn bản quy định chi tiết luật,
nhưng văn bản này lại không phù hợp với
quy định của luật, dẫn đến quy định của luật
không được thực hiện mà thực hiện những
quy định không phải là quy định của luật do
Quốc hội ban hành, v.v.. Do đó, xây dựng
tiêu chí giám sát, đánh giá việc ban hành văn
bản quy định chi tiết luật cần làm rõ các vấn
đề sau:
- Giám sát, đánh giá xem cơ quan, cá
nhân được giao nhiệm vụ ban hành văn bản
quy định chi tiết các điều khoản của luật có
kịp thời ban hành văn bản để có hiệu lực
cùng với luật không?
- Giám sát, đánh giá xem cơ quan, cá
nhân được giao nhiệm vụ đã ban hành văn
bản để quy định chi tiết tất cả các vấn đề
(quy định) được giao quy định chi tiết chưa?
có đúng vấn đề (quy định) được giao không?
Thực tiễn cho thấy, đã có không ít trường
hợp quy định không đầy đủ hoặc không
đúng vấn đề cần được quy định chi tiết nên
đã làm sai lệch nội dung của luật.
- Giám sát, đánh giá xem nội dung của
văn bản quy định chi tiết luật có phù hợp với
quy định của luật không. Qua thực tế giám
sát văn bản cho thấy, có nhiều quy định trong
các văn bản quy định chi tiết luật không phù
hợp với quy định của luật, thường là quy
định chi tiết có thuận lợi cho cơ quan quản
lý hơn so với quy định của luật hoặc bổ sung
thêm những thẩm quyền cho cơ quan quản
lý, thi hành luật, gây bất lợi cho tổ chức, cá
nhân phải thực hiện luật hoặc còn quy định
thêm cả những vấn đề không được luật giao
hoặc có những quy định chồng chéo, mâu
thuẫn với luật, v.v.. Có thể coi đây là một
nội dung quan trọng trong giám sát thực
hiện luật.
3.3 Tiêu chí giám sát, đánh giá việc tổ chức
áp dụng luật
Tiêu chí này đặt ra yêu cầu phải giám
sát, đánh giá xem các cơ quan, cá nhân được
giao nhiệm vụ áp dụng luật (luật và văn bản
quy định chi tiết luật) như thế nào? Việc áp
dụng luật có thể được coi là hoạt động then
chốt để đưa luật vào cuộc sống. Nếu như các
công đoạn: xây dựng, ban hành một đạo luật
có chất lượng, làm tốt công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, ban hành văn bản quy
định chi tiết các điều khoản của luật kịp thời,
bảo đảm chất lượng, nhưng các cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền không tổ chức tốt việc
áp dụng luật thì giá trị thu được từ đạo luật
đó cũng rất hạn chế, làm giảm vai trò, hiệu
quả, kết quả hoạt động của Quốc hội và các
cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác
xây dựng luật. Do đó, tiêu chí giám sát, đánh
giá việc áp dụng luật cần làm rõ các vấn đề
sau đây:
- Giám sát, đánh giá các cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền tổ chức tập huấn cho
đội ngũ thi hành, áp dụng luật như thể nào,
có kịp thời không, có đúng các đối tượng
cần tập huấn không? nội dung tập huấn có
đáp ứng với yêu cầu, quy định của pháp luật
không và chất lượng, kết quả tập huấn như
thế nào?
- Giám sát, đánh giá trình độ, năng lực
của đội ngũ cán bộ, công chức thi hành, áp
dụng luật trên thực tế; xem xét luật đi vào đời
sống như thế nào. Chẳng hạn giám sát, đánh
giá đội ngũ cán bộ, chiến sỹ công an áp dụng
Luật Xử lý vi phạm hành chính và văn bản
quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật để
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; xử phạt
vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân
có hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
giao thông đường bộ; xem xét họ có áp dụng
pháp luật không? có xử phạt hay làm ngơ
các hành vi vi phạm pháp luật không, khi xử
phạt thì có xử phạt đúng hình thức, mức độ
xử phạt đối với hành vi vi phạm không, có
đúng người, đúng hành vi vi phạm không?
có nhũng nhiễu, gây khó dễ cho người vi
phạm, nhận hối lộ, tham nhũng không?
(Xem tiếp trang 27)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 10(386) T5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_dat_ra_va_kien_nghi_xay_dung_tieu_chi_giam_sat.pdf