Một là, tất cả các tổ chức trọng tài
thương mại hiện nay đều là các tổ chức phi
chính phủ, là các tổ chức xã hội-nghề nghiệp,
tham gia giải quyết các tranh chấp theo sự
thỏa thuận, yêu cầu của các bên. Trong hoạt
động, các tổ chức trọng tài thương mại hiện
nay không được nhân danh quyền lực nhà
nước, hoàn toàn khác với hoạt động của hệ
thống Trọng tài kinh tế nhà nước trước đây.
Hai là, các tổ chức trọng tài thương mại
này phần lớn là những tổ chức trọng tài thường
trực. Các Trung tâm Trọng tài có tư cách pháp
nhân, có con dấu và tài khoản riêng, có trụ sở,
có thể có chi nhánh, văn phòng đại diện, có
Điều lệ, Quy tắc tố tụng trọng tài, có Ban điều
hành với danh sách các Trọng tài viên, tồn tại
độc lập với các tranh chấp.
Tóm lại, giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài thương mại được đánh giá là phương
thức giải quyết tranh chấp của hiện tại và
tương lai với nhiều ưu thế nổi trội. Pháp luật
Việt Nam về trọng tài thương mại đã có những
quy định tiến bộ khá phù hợp với quy định của
pháp luật trọng tài quốc tế. Do vậy, Việt Nam
muốn hội nhập ngày càng sâu, rộng và bền
vững vào nền kinh tế thế giới thì phải thường
xuyên hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung
và pháp luật về trọng tài nói riêng cho phù hợp
với xu thế phát triển chung, đồng thời tổ chức
thực hiện tốt các quy định đã ban hành, tuyên
truyền để cộng đồng doanh nghiệp thấy được
những lợi ích của trọng tài thương mại như là
một phương thức giải quyết tranh chấp hiện
đại, minh bạch, công bằng và thuận lợi. Hiệu
quả hoạt động của trọng tài còn phụ thuộc vào
thái độ của cộng đồng doanh nghiệp. Do đó,
việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp
luật trọng tài cũng như nâng cao chất lượng
dịch vụ của các Trung tâm trọng tài sẽ giúp
doanh nghiệp hiểu hơn về bản chất và ưu thế
của trọng tài thương mại, từ đó tạo điều kiện
cho phương thức giải quyết tranh chấp này
ngày càng phát triển.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
76 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
SOME THEORETICAL ISSUES ON DISPUTE RESOLUTION
BY COMMERCIAL ARBITRATION IN VIETNAM
Đào Lộc Bình*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 6/02/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 6/8/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 29/8/2019
Tóm tắt: Trọng tài có lịch sử hình thành từ rất sớm, hình thức giải quyết tranh chấp
này xuất hiện trước khi có tòa án. Hiện nay, trọng tài thương mại mang tính toàn cầu và là
phương thức giải quyết tranh chấp được sử dụng khá phổ biến trên thế giới, nhất là những
nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tại Việt Nam, trọng tài thương mại tuy mới được
hình thành nhưng đã góp phần tích cực vào việc giải quyết nhanh chóng, kịp thời các tranh
chấp trong hoạt động kinh doanh. Pháp luật Việt Nam điều chỉnh lĩnh vực này đang từng
bước được hoàn thiện theo hướng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và các cam kết của
Nhà nước ta trong các điều ước quốc tế. Để làm rõ và đánh giá một cách khách quan về
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam, bài viết tập trung
phân tích ưu nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp này từ đó đưa ra một số
khuyến nghị đối với các bên tranh chấp khi lựa chọn sử dụng phương thức giải quyết này.
Từ khóa: tranh chấp, trọng tài thương mại, khuyến nghị, phương thức.
Abstract: Arbitration has a history of very early formation. Dispute resolution by
arbitration appears before the court. Currently, commercial arbitration is global and is a
common method of dispute resolution used in the world, especially those with developed market
economies. In Vietnam, commercial arbitration has just been formed but has contributed
positively to the quick and timely settlement of disputes in business operations. The law of
Vietnam adjusting this field is gradually being improved in accordance with international
standards and our commitments in international treaties. In order to clarify and objectively
evaluate the method of resolving disputes by commercial arbitration in Vietnam, the article
focuses on analyzing the pros and cons of this method, thereby giving some recommendations
to the disputing parties when choosing to use this method of settlement.
Keywords: disputes, commercial arbitration, recommendations, methods.
* Học viện Chính trị khu vực IV
Tạp chí Khoa ọc - Viện Đại học Mở Hà Nội 58 (08/2019) 76-84
77Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
1. Khái quát về trọng tài thương mại
1.1. Khái niệm trọng tài thương mại
Theo từ điển Chính trị vắn tắt của Liên
Xô thì: “Trọng tài là một hình thức tòa án
phân xử, trong đó sự tranh chấp được giải
quyết nhờ một quan tòa (trọng tài) do các
bên tranh chấp thỏa thuận với nhau bầu ra”†
Đại từ điển kinh tế thị trường định nghĩa
trọng tài như sau: “trọng tài là phương pháp
giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp. Là
chỉ đôi bên đương sự tự nguyên đem những
sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho
người thứ ba có tư cách công bằng, chính
trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa
ra có hiệu lực rang buộc cả hai bên”‡. Theo
quy định của Luật Trọng tài thương mại Việt
Nam năm 2010 thì: “trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp do các
bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy
định của luật này”§.
Về thuật ngữ“thương mại”: việc phân
biệt các hợp đồng được coi là “hợp đồng
thương mại” và những hợp đồng không phải
hợp đồng “thương mại” có ý nghĩa quan trọng
vì nhiều quốc gia chỉ cho phép những tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng “thương mại”
được đưa ra giải quyết tại trọng tài. Theo
chú thích Điều 1 (1) Luật Mẫu UNCITRAL,
thuật ngữ “thương mại” được giải thích theo
nghĩa rộng để có thể bao hàm các vấn đề phát
sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương
mại, dù có quan hệ hợp đồng hay không. Các
quan hệ có bản chất thương mại bao gồm
† Từ điển Chính trị vắn tắt, Nxb. Tiến Bộ Matxcova và NXb. Sự Thật, 1988, In tại Liên Xô
‡ Nguyễn Hữu Quỳnh (1998), Đại từ điển Kinh tế thị trường, Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa,
Hà Nội, tr.1989.
§ Khoản 1, Điều 3, Luật Trọng tài thương mại 2010.
¶ Khoản 1, Điều 3, Luật Thương mại năm 2005
** Điều 2, Luật Trọng tài thương mại 2010.
các giao dịch sau: bất kỳ giao dịch nào về
mua bán hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch
vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại
lý thương mại; môi giới; cho thuê; xây dựng;
tư vấn; kỹ thuật; li xăng; đầu tư; tài chính;
ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác
hoặc nhượng quyền khai thác; liên doanh
hoặc các hình thức hợp tác kinh doanh khác;
vận chuyển hàng hóa hoặc hành khách bằng
đường hàng không, đường biển, đường sắt
hoặc đường bộ. Pháp luật Việt Nam không
quy định riêng thuật ngữ “thương mại” mà
quy định về “hoạt động thương mại”, theo
đó: “Hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác”¶. Và Luật Trọng tài thương mại
năm 2010 quy định về phạm vi thẩm quyền
giải quyết của trọng tài bao gồm: Tranh chấp
giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương
mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong
đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại;
Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật
quy định được giải quyết bằng Trọng tài**.
Như vậy, có thể thấy thuật ngữ “thương mại”
ở Việt Nam đang được hiểu theo nghĩa rộng
tương tự cách hiểu của pháp luật trọng tài
quốc tế.
Từ các định nghĩa và phân tích nêu
trên chúng ta có thể rút ra khái niệm trọng tài
thương mại như sau: Trọng tài thương mại
là một phương pháp pháp lý để giải quyết
tranh chấp thương mại ngoài tòa án, theo
78 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
đó các bên tranh chấp thỏa thuận đưa tranh
chấp của mình đến một trọng tài viên hay
một hội đồng trọng tài để giải quyết theo
quy định của luật áp dụng và chấp nhận
chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý, tuân thủ
phán quyết của trọng tài viên hay hội đồng
trọng tài. Thuật ngữ trọng tài thương mại
gắn liền với thẩm quyền của trọng tài, đó là
trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp thương mại.
1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại
Việc lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp nói riêng cũng như mọi vấn đề liên
quan đến quá trình giải quyết các tranh chấp
trong kinh doanh, thương mại nói chung dựa
trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định
đoạt của các bên. Cơ quan nhà nước và trọng
tài thương mại chỉ can thiệp theo yêu cầu của
các bên tranh chấp. Kể cả khi Toà án hoặc
trọng tài đã can thiệp thì trong quá trình tố
tụng, quyền tự định đoạt biểu hiện bằng những
hành vi đơn phương hoặc thỏa thuận của các
bên vẫn luôn được ghi nhận và tôn trọng.
Quyền tự định đoạt của các bên được coi là
một nội dung của quyền tự do kinh doanh và
được pháp luật bảo hộ. Pháp luật hiện hành
của Việt Nam, trong các văn bản pháp luật
quốc gia cũng như trong các Điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên đều đã ghi nhận
nguyên tắc này. Theo thông lệ quốc tế và quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các
phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh, thương mại bao gồm: Thương lượng;
Hòa giải; Trọng tài thương mại và Tòa án.
Từ khái niệm đã nêu cho thấy hình
thức giải quyết tranh chấp này có các đặc
điểm sau:
Thứ nhất, trọng tài chỉ có thẩm quyền
giải quyết một tranh chấp thương mại cụ thể
nào đó khi các bên tranh chấp tự nguyện thỏa
thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết. Tuy
nhiên, khi các bên đã thỏa thuận lựa chọn
trọng tài theo quy định của pháp luật thì việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài lại trở
thành yêu cầu bắt buộc khi có tranh chấp xảy
ra. Khi đó tòa án sẽ được coi là không có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó nữa.
Thứ hai, trọng tài cũng là hình thức
giải quyết tranh chấp với sự tham gia của
bên thứ ba khách quan để giúp các bên giải
quyết bất đồng. Tuy nhiên, khác với việc bên
thứ ba làm trung gian hòa giải- người không
có quyền đưa ra quyết định giải quyết tranh
chấp có tính chất ràng buộc các bên, quyết
định của trọng tài (trọng tài viên hoặc hội
đồng trọng tài) là chung thẩm và có tính chất
ràng buộc pháp lý đối với các bên tranh chấp
tương tự như một bản án của tòa án.
Thứ ba, trọng tài là một phương thức
giải quyết phi nhà nước nên trọng tài không
mang tính quyền lực nhà nước như Tòa án.
Tuy nhiên, do phán quyết của trọng tài là
chung thẩm và ràng buộc các bên như một
bản án của tòa án nên trọng tài khác với
phương thức thương lượng hay hòa giải.
Hiện nay, nhiều quốc gia ban hành những
quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động
của trọng tài. Ủy ban Luật Thương mại quốc
tế của Liên Hiệp quốc (UNCITRAL) cũng đã
ban hành Luật Mẫu về trọng tài thương mại
được nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có
Việt Nam dựa vào để ban hành đạo luật về
trọng tài thương mại riêng của nước mình.
2. Ưu nhược điểm của phương thức
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
thương mại
So với các phương thức giải quyết
tranh chấp khác, phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại có các
ưu điểm như sau:
79Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Một là, tính linh hoạt; tiết kiệm thời
gian; không bị ràng buộc bởi nguyên tắc lãnh
thổ. Các bên tranh chấp được chủ động lựa
chọn thời gian, địa điểm cũng như có quyền
lựa chọn mô hình trọng tài, lựa chọn trọng
tài viên để giải quyết vụ tranh chấp. Thủ
tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, không
trải qua nhiều cấp xét xử như ở toà án, hơn
nữa các bên có thể thỏa thuận về thủ tục giải
quyết tranh chấp (miễn là các bên được đối
xử công bằng, thủ tục giải quyết trọng tài có
thể được xây dựng phù hợp với những yêu
cầu cụ thể của tranh chấp, hơn là phù hợp với
những quy tắc cố định của luật tố tụng) giúp
cho quá trình giải quyết tranh chấp nhanh
gọn hơn hạn chế tốn kém về thời gian và chi
phí cho doanh nghiệp, cũng như cho họ hi
vọng về một phán quyết thỏa đáng.
Hai là, tính bí mật của trọng tài thương
mại. Sự riêng tư của thủ tục trọng tài và tính
bảo mật bao trùm toàn bộ quá trình tố tụng
trọng tài là một điểm hấp dẫn đối với các
doanh nghiệp và các tổ chức có thể bị liên
quan (thường là trái với ý chí của họ) trong
các quy trình pháp lý. Ví dụ: Có thể có những
bí mật kinh doanh hoặc kế hoạch cạnh tranh
cần được bảo vệ, hoặc có thể chỉ là các bên
không muốn chi tiết của vụ tranh chấp thương
mại (hoặc việc đưa ra những quyết định sai
lầm) trở thành đề tài bàn tán trong dư luận.
Nguyên tắc trọng tài xét xử không công khai,
phần nào giúp các bên giữ được uy tín trên
thương trường. Các bên tranh chấp có khả
năng tác động đến quá trình trọng tài, kiểm
soát được việc cung cấp chứng cứ của mình
và điều này giúp các bên giữ được bí quyết
kinh doanh. Đây được coi là ưu điểm được
các bên tranh chấp ưa chuộng nhất.
Ba là, tính trung lập, phương thức trọng
tài trao cho các bên cơ hội chọn một địa điểm
“trung lập” và một hội đồng trọng tài”trung lập”
để giải quyết tranh chấp của họ. Các bên tranh
chấp có thể có trụ sở ở các địa bàn khác nhau,
do đó việc lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp khác (như tòa án) thì địa điểm xét
xử các bên sẽ không có quyền lựa chọn mà phải
theo quy định của pháp luật tố tụng. Ngược lại,
việc dẫn chiếu tới trọng tài có nghĩa là tranh
chấp sẽ được phân xử tại một địa điểm trọng
tài trung lập chứ không phải là sân nhà của một
trong các bên. Mỗi bên sẽ được trao cơ hội tham
gia vào việc lựa chọn thành phần của Hội đồng
trọng tài. Nếu hội đồng trọng tài chỉ gồm một
trọng tài viên thì trọng tài viên đó sẽ được lựa
chọn trên cơ sở thỏa thuận của các bên (hoặc
bằng cách để trung tâm trọng tài lựa chọn nếu
các bên đồng ý), và trọng tài viên được yêu cầu
sẽ phải hành xử độc lập và vô tư. Nếu hội đồng
trọng tài gồm ba trọng tài viên, hai người trong
số họ có thể được lựa chọn bởi các bên, nhưng
mỗi người sẽ được yêu cầu phải hành xử độc
lập và vô tư (đây là đạo đức, uy tín nghề nghiệp
của họ và trọng tài viên có thể bị bãi nhiệm nếu
bị chứng minh rằng không hành xử như vậy).
Như vậy, dù gồm một hay ba trọng tài viên, hội
đồng trọng tài phải hoàn toàn khách quan và
“trung lập”.
Bốn là, tranh chấp được giải quyết bởi
các trọng tài viên là chuyên gia trong lĩnh
vực liên quan đến vụ việc do chính các bên
lựa chọn. Việc lựa chọn này rất có lợi cho các
bên trong tranh chấp vì trọng tài viên được
lựa chọn là các chuyên gia có chuyên môn,
có nhiều kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực
khác nhau như: thuế, xuất nhập khẩu hàng
hóa, ngân hàng, sở hữu trí tuệ, chứng khoán,
kiểm toán, kiểm định..., phù hợp để bảo vệ
lợi ích chính đáng của mỗi bên trong các loại
tranh chấp có tính chất đặc thù, phức tạp. Khi
các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi,
nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề
đang tranh chấp, thì họ có thể đưa ra các phán
quyết giải quyết tranh chấp nhanh chóng,
chính xác và công bằng.
Năm là, hiệu lực thi hành của phán quyết
80 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
trọng tài. Sau khi kết thúc quá trình trọng tài
(nếu không có thỏa thuận nào được lập giữa
các bên), hội đồng trọng tài sẽ đưa ra quyết
định của họ dưới hình thức một phán quyết.
Trong vấn đề này có ba điểm sau cần chú ý:
Thứ nhất, Phán quyết này có giá trị ràng buộc
và không phải là một khuyến nghị mà các bên
có thể chấp nhận làm theo hoặc từ chối nếu họ
muốn (như trong phương thức trung gian hay
hòa giải); thứ hai, phán quyết trọng tài sẽ là
phán quyết cuối cùng (không giống như bản
án của Tòa án là nấc thang đầu tiên trong quá
trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm và các
trình tự tố tụng khác) như một quá trình lâu dài
và phức tạp; thứ ba, một khi phán quyết trọng
tài (nhất là phán quyết trọng tài quốc tế) đã
được lập, nó sẽ được Tòa án công nhận hiệu
lực và có giá trị thi hành cả ở phạm vi quốc gia
và quốc tế††. Trong khi đó, một bản án của Tòa
án quốc gia nếu muốn được công nhận và thi
hành ở nước ngoài cần phụ thuộc vào các điều
ước quốc tế cụ thể ký kết giữa quốc gia đó và
quốc gia nơi bản án muốn được thi hành.
Ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật
hiện hành, phán quyết trọng tài là chung thẩm
và có hiệu lực kể từ ngày ban hành‡‡. Sau khi
có phán quyết trọng tài một hoặc các bên tranh
chấp có quyền yêu cầu đăng ký tại Tòa án nơi
†† Tính tới năm 2018, đã có 159 quốc gia, vùng lãnh thổ trong đó có Việt Nam là thành viên của Công
ước New York 1958 - Công ước về Công nhận và Thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài.
‡‡ Khoản 5, Điều 61, Luật Trọng Tài thương mại 2010.
§§ Khoản 1, Điều 62, Luật Trọng tài thương mại 2010.
¶¶ Điều 65, 66, 67, Luật Trọng tài thương mại 2010.
*** Theo Biểu phí Trọng tài của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) (Ban hành kèm theo
Quyết định số 89/QĐ-VIAC ngày 25/01/2016 của Chủ tịch VIAC) thì mức phí thấp nhất là 16.500.000
đồng đối với các tranh chấp có giá trị dưới 100.000.000 đồng và cao nhất đối với các tranh chấp có giá
trị trên 500.000.000.000 đồng là 3.609.300.000 + 0,3% số tiền vượt quá 500.000.000.000. Trong khi đó
mức án phí trong vụ án kinh doanh thương mại của Tòa án ược quy định tại Nghị quyết số 326/2016/
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 thấp nhất là 3.000.000 đồng đối với tranh chấp không có giá ngạch và
tranh chấp có giá trị dưới 60.000.000 đồng; mức án phí cao nhất đối với các tranh chấp có giá trị trên
4.000.000.000 đồng là 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng.
Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết (việc đăng
ký hoặc không đăng ký phán quyết trọng tài
không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp
lý của phán quyết trọng tài), trước khi yêu cầu
Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ
chức thi hành phán quyết trọng tài đó§§. Việc
thi hành phán quyết trọng tài được thực hiện
trên cơ sở tự nguyện giữa các bên, trường
hợp hết thời hạn thi hành mà các bên không
tự nguyện thi hành thì bên được thi hành có
quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài theo
quy định của pháp luật về thi hành án dân sự¶¶.
Như vậy, giá trị và hiệu lực pháp lý của phán
quyết trọng tài được bảo đảm thi hành như đối
với bản án của Tòa án.
Tuy nhiên, bên cạnh đó phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
cũng có một số hạn chế (khuyết điểm) sau:
Thứ nhất, chi phí cho việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại là khá
cao (thường cao hơn mức án phí giải quyết
tranh chấp bằng phương thức tòa án) nên đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như ở Việt
Nam hiện nay thường khó có khả năng chi
trả***. Một số lý do khiến cho chi phí trọng
tài cao hơn, đầu tiên là phí và các chi phí
cho trọng tài viên (không giống như lương
81Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
của thẩm phán) phải được trả bởi các bên và
những khoản chi phí này thường rất lớn (bởi
các trọng tài viên thường là chuyên gia có uy
tín trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp); thứ
hai, các bên có thể phải trả phí hành chính
cho trung tâm trọng tài, hoặc chi phí cho một
thư ký được chỉ định để quản lý quá trình tố
tụng trọng tài; ngoài ra còn có thể có chi phí
thuê địa điểm, phí dịch vụ ghi biên bản trong
phiên xử, cũng như các khoản chi phí cho
các cố vấn pháp lý của các bên và các nhân
chứng chuyên gia...
Thứ hai, những phán quyết trọng tài
mâu thuẫn, thiếu chính xác. Khuỵết điểm
này được phát sinh do các nguyên nhân sau:
Một là, do tính chất nhanh chóng của cách
thức giải quyết vụ việc, trọng tài tuyên án chỉ
sau một cấp xét xử duy nhất nên khó tránh
khỏi có những sai sót; Hai là, không tồn tại
một hệ thống án lệ nào có giá trị ràng buộc
trong tố tụng trọng tài - nghĩa là, không có
quy định nào về việc một phán quyết trọng
tài đối với một vấn đề cụ thể, hoặc một tình
tiết cụ thể, có thể ràng buộc các trọng tài viên
khác khi họ gặp phải các vấn đề hoặc tình
tiết tương tự. Mỗi phán quyết trọng tài đều
độc lập, phán quyết của các hội đồng trọng
tài trước đó (đối với các vụ việc tương tự),
nếu có được biết đến (mà điều này thường ít
có khả năng vì tính bảo mật của trọng tài), có
thể chỉ có giá trị tham khảo, khuyến nghị chứ
không hơn không kém.
Do đó, đôi khi các quyết định của trọng
tài có thể chưa chính xác hoặc mâu thuẫn,
gây thiệt hại đối với doanh nghiệp (trong
††† Điều 68, 69 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
‡‡‡ Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao trong năm 2018, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã xét xử
16.490 vụ án trong đó có 580 vụ án kinh doanh thương mại; trong 06 tháng đầu năm 2019, Tòa án
nhân dân cấp tỉnh đã xét xử 5.698 vụ án trong đó có 162 vụ án kinh doanh thương mại (Nguồn: https://
congbobanan.toaan.gov.vn/6tatcvn/Thong-ke),
trường hợp này các bên tranh chấp có quyền
yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài†††).
Thứ ba, trường hợp các bên không thoả
thuận sử dụng phương trọng tài thương mại
để giải quyết tranh chấp kinh doanh trong
hợp đồng thì khi xảy ra tranh chấp, trọng tài
không có thẩm quyền giải quyết ngay cả khi
một trong các bên tranh chấp hoặc cả hai bên
tranh chấp có ý định hoặc có mong muốn giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
3. Kết luận và khuyến nghị
Trên cơ sở, các ưu nhược điểm nêu trên,
cho thấy giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại mặc dù vẫn có những nhược
điểm nhất định nhưng đây là phương thức giải
quyết có nhiều ưu thế mà các doanh nghiệp
nên lựa chọn, bởi lẽ khuyết điểm lớn nhất của
phương thức này có lẽ nằm ở chỗ chi phí khá
cao. Tuy nhiên, nếu đánh giá dựa trên chỉ số
tương quan giữa chi phí, thời gian và hiệu quả
thì đây là nhược điểm có thể chấp nhận được,
bởi vì phương thức giải quyết tranh chấp bằng
tòa án tuy án phí có thể thấp hơn nhưng thời
gian giải quyết kéo dài (do qua nhiều cấp xét
xử cũng như sự quá tải của hệ thống tòa án về
số lượng các vụ án‡‡‡). Hơn nữa, các bên sẽ
không cần phải tiêu tốn thêm chi phi sau khi
có phán quyết trọng tài như chi phí cho việc
nộp đơn kháng cáo tại Tòa. Trong khi giá trị
và hiệu lực của bản án và phán quyết trọng tài
đều được đảm bảo như nhau.
Trong khi các quan điểm khác nhau còn
tranh luận về tương quan giữa hiệu quả và chi
phí khi giải quyết tranh chấp bằng phương
82 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
thức trọng tài, thì điều quan trọng chúng ta
cần nhớ là mục đích của trọng tài thương mại
không chỉ đơn giản là kết thúc một vụ tranh
chấp theo cách càng nhanh và càng rẻ thì càng
tốt mà mục đích của trọng tài thương mại là
đưa đến một phán quyết công bằng và hợp lý
cho tranh chấp, dựa trên cách đánh giá phù
hợp với hợp đồng có liên quan, sự việc thực
tế và quy định của pháp luật. Đây cũng là một
lý do quan trọng mà trong những năm gần đây
ở Việt Nam các tổ chức, cá nhân và doanh
nghiệp ngày càng quan tâm đến hoạt động
trọng tài thương mại và lựa chọn phương thức
trọng tài để giải quyết những tranh chấp phát
sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh§§§.
Trong quá trình hình thành và phát
triển của trọng tài thương mại, ở Việt Nam
đã và đang có các tổ chức Trọng tài thương
mại sau đây:
- Các Trung tâm Trọng tài kinh tế
thành lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương theo Nghị định số 116/CP ngày
05/9/1994 của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của Trọng tài kinh tế. Trước đây, đã có
06 Trung tâm Trọng tài kinh tế được thành lập
với thẩm quyền là giải quyết các tranh chấp
kinh tế không có yếu tố quốc tế. Sự ra đời của
các Trung tâm Trọng tài kinh tế với tính chất
và tố tụng trọng tài hoàn toàn khác, đồng thời
cũng để thay thế cho hệ thống Trọng tài kinh
tế nhà nước đã tồn tại nhiều năm trước đó (đã
được giải thể từ tháng 7/1994).
§§§ Theo thống kê của Viac, trong thời gian 20 năm từ 1993 đến 2013, Viac giải quyết tổng cộng 738
vụ tranh chấp (bình quân 37 vụ/năm), nhưng chỉ trong 04 năm từ 2014 đến 2017 Viac đã giải quyết
576 vụ tranh chấp (bình quân 144 vụ/năm) tức gấp hơn 4 lần.
Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, từ năm 2011 đến tháng 6-2015, các trung tâm trọng tài đã thụ lý 897
vụ việc, ban hành 586 phán quyết. Sau bốn năm triển khai thi hành Luật Trọng tài thương mại, số vụ
việc thụ lý và giải quyết tại VIAC tăng hơn 30%. (Nguồn:
doanh-nghiep-nho-co-che-trong-tai-579625.html)
- Các Trung tâm Trọng tài được thành
lập tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ
Chí Minh. Căn cứ vào tình hình phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, tại các địa
phương khác có thể thành lập thêm các Trung
tâm Trọng tài. Các Trung tâm Trọng tài này
được thành lập và hoạt động theo Pháp lệnh
Trọng tài thương mại năm 2003 và Nghị định
số 25/2004/NĐ-CP ngày 15/01/2004 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp
lệnh Trọng tài thương mại.
- Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam-VIAC (trên cơ sở hợp nhất
Hội đồng Trọng tài Ngoại thương và Hội
đồng Trọng tài Hàng hải), được thành lập và
hoạt động theo Quyết định số 204/TTg ngày
28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về tổ
chức Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam
và Quyết định số 114/TTg ngày 16/02/1996
của Thủ tướng Chính phủ về việc mở rộng
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam.
Các Trung tâm Trọng tài kinh tế và
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam là các
Trung tâm Trọng tài được thành lập trước
ngày Pháp lệnh Trọng tài thương mại có hiệu
lực (01/7/2003) không phải làm thủ tục thành
lập lại nhưng phải sửa đổi, bổ sung Điều lệ,
Quy tắc tố tụng trọng tài cho phù hợp với quy
định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003. Đến năm 2010, Quốc hội đã ban hành
83Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Luật Trọng tài thương mại thay thế cho Pháp
lệnh Trọng tài thương mại (Luật có hiệu lực từ
ngày 01/01/2011). Do đó, các trung tâm trọng
tài hiện nay đang hoạt động theo quy định của
Luật Trọng tài thương mại năm 2010¶¶¶.
Theo quy định của Luật Trọng tài
thương mại năm 2010, hiện nay trọng tài
thương mại ở Việt Nam được tổ chức theo
hai mô hình: Thứ nhất, Trọng tài thường trực
với hình thức thành lập là Trung tâm trọng
tài thương mại. Mô hình trọng tài thứ hai
là trọng tài vụ việc (ad hoc), mô hình trọng
tài này không có trụ sở thường trực, chỉ giải
quyết các vụ việc theo yêu cầu và tự giải tán
khi giải quyết xong. Thực tiễn ở Việt Nam,
mô hình trọng tài này ít hoạt động.
Một số khuyến nghị đối với các bên
tranh chấp, các doanh nghiệp trong việc sử
dụng dịch vụ giải quyết tranh chấp từ các tổ
chức trọng tài thương mại của Việt Nam hiện
nay cần chú ý:
Một là, tất cả các tổ chức trọng tài
thương mại hiện nay đều là các tổ chức phi
chính phủ, là các tổ chức xã hội-nghề nghiệp,
tham gia giải quyết các tranh chấp theo sự
thỏa thuận, yêu cầu của các bên. Trong hoạt
động, các tổ chức trọng tài thương mại hiện
nay không được nhân danh quyền lực nhà
nước, hoàn toàn khác với hoạt động của hệ
thống Trọng tài kinh tế nhà nước trước đây.
Hai là, các tổ chức trọng tài thương mại
này phần lớn là những tổ chức trọng tài thường
trực. Các Trung tâm Trọng tài có tư cách pháp
nhân, có con dấu và tài khoản riêng, có trụ sở,
có thể có chi nhánh, văn phòng đại diện, có
Điều lệ, Quy tắc tố tụng trọng tài, có Ban điều
¶¶¶ Theo thống kê của Bộ Tư pháp, tính đến tháng 7/2019 cả nước có 15 Trung tâm trọng tài được cấp
phép hoạt động.động (trong đó Trung tâm Trọng tài Mê Kông mới được cấp phép đầu tháng 7/2019).
hành với danh sách các Trọng tài viên, tồn tại
độc lập với các tranh chấp.
Tóm lại, giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài thương mại được đánh giá là phương
thức giải quyết tranh chấp của hiện tại và
tương lai với nhiều ưu thế nổi trội. Pháp luật
Việt Nam về trọng tài thương mại đã có những
quy định tiến bộ khá phù hợp với quy định của
pháp luật trọng tài quốc tế. Do vậy, Việt Nam
muốn hội nhập ngày càng sâu, rộng và bền
vững vào nền kinh tế thế giới thì phải thường
xuyên hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung
và pháp luật về trọng tài nói riêng cho phù hợp
với xu thế phát triển chung, đồng thời tổ chức
thực hiện tốt các quy định đã ban hành, tuyên
truyền để cộng đồng doanh nghiệp thấy được
những lợi ích của trọng tài thương mại như là
một phương thức giải quyết tranh chấp hiện
đại, minh bạch, công bằng và thuận lợi. Hiệu
quả hoạt động của trọng tài còn phụ thuộc vào
thái độ của cộng đồng doanh nghiệp. Do đó,
việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp
luật trọng tài cũng như nâng cao chất lượng
dịch vụ của các Trung tâm trọng tài sẽ giúp
doanh nghiệp hiểu hơn về bản chất và ưu thế
của trọng tài thương mại, từ đó tạo điều kiện
cho phương thức giải quyết tranh chấp này
ngày càng phát triển.
Tài liệu tham khảo:
1. Công ước Geneva năm 1927 về việc thi hành
Phán quyết trọng tài ở nước ngoài.
2. Công ước New York 1958 về Công nhận và thi
hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
3. Đỗ Văn Đại, Trần Hoàng Hải (2011), Pháp luật
Việt Nam về trọng tài thương mại, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
4. Trần Thị Lan Hương (2014), Giải quyết tranh
84 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
chấp thương mại bằng trọng tài và thực tiễn tại
Việt Nam, Tạp chí Tài chính số 4/2014.
5. Nguyễn Ngọc Lâm (2014), Giải quyết tranh
chấp hợp đồng thương mại quốc tế, nhận dạng
tranh chấp, biện pháp ngăn ngừa và phương thức
giải quyết, NXb. Hồng Đức.
6. Tưởng Duy Lượng (2016), Bình luận Bộ luật
Tố tụng dân sự, Luật Trọng tài thương mại và
thực tiễn xét xử, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
7. Nigel Blackaby, Constantine Partasides QC &
Alan Redfern, Martin Hunter (2015), Trọng tài
quốc tế (ấn bản lần thứ sáu), Nxb. Thanh niên.
8. Luật Thương mại năm 2005.
9. Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
10. Nghị định thư Geneva về Điều khoản trọng
tài năm 1923.
11. Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.
12. Luật Mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế được
thông qua bởi Ủy ban của Liên hợp Quốc về Luật
thương mại quốc tế - Luật Mẫu UNCITRAL (Luật
Mẫu) ban hành năm 1985 (sửa đổi năm 2006).
13. Nguyễn Hữu Quỳnh (1998), Đại từ điển Kinh
tế thị trường, Viện nghiên cứu và phổ biến tri
thức bách khoa, Hà Nội.
14. Từ điển Chính trị vắn tắt, Nxb. Tiến Bộ
Matxcova và NXb. Sự Thật, 1988, In tại Liên Xô.
Địa chỉ tác giả: Khoa Nhà nước và pháp luật -
Học viện Chính trị khu vực IV
Email: locbinhhv4@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ly_luan_ve_giai_quyet_tranh_chap_bang_trong_ta.pdf