Một số vấn đề pháp lý về quản lý thuế hộ kinh doanh cá thể hiện nay ở Việt Nam

Một số ý kiến đề xuất Từ những hạn chế trên, bài viết đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần giúp hoàn thiện hơn nữa pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh trên những nội dung sau: Thứ nhất, cải cách bộ máy quản lý và cơ chế hoạt động. Trước những khó khăn trong công tác quản lý thuế, việc cải cách là hoạt động cần thiết của cơ quan Thuế. Tổ chức bộ máy quản lý cần kết hợp đan xen với nguyên tắc quản lý thuế theo nhóm đối tượng và theo sắc thuế để phát huy toàn diện được mô hình quản lý thuế theo chức năng. Thường xuyên nâng cao chất lượng chuyên môn và kỹ năng quản lý thuế hiện đại, khoa học cho mỗi cán bộ thuế để xây dựng bộ máy quản lý thuế ngày càng hoàn thiện hơn. Thứ hai, cần quản lý chặt chẽ quản lý việc đăng ký thuế, khai thuế, ấn định thuế. Cơ quan thuế cần thực hiện một cửa liên thông trong cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và Giấy chứng nhận đăng ký thuế. Việc tổ chức quản lý hồ sơ đăng ký thuế cần phân loại theo chủ thể tạo lập như: Hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ, Hộ gia đình làm chủ, do một nhóm người làm chủ. Bên cạnh đó cần áp dụng đồng thời các căn cứ ấn định thuế đối với hộ kinh doanh ổn định để xác định số thuế được chính xác như: Cơ sở dữ liệu của Chi cục thuế, so sánh số thuế phải nộp của cơ sở kinh doanh cùng mặt hàng, cùng ngành nghề, cùng quy mô và tài liệu và kết quả kiểm tra, thanh tra còn hiệu lực. Minh bạch việc xác định doanh thu khoán và số thuế khoán phải nộp với sự tham gia của các cấp, ngành. Thứ ba, siết chặt quản lý thông tin hộ kinh doanh. Theo Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006, “Thông tin về người nộp thuế là cơ sở để thực hiện quản lý thuế, đánh giá mức độ chấp hành pháp luật của người nộp thuế, ngăn ngừa, phát hiện vi phạm pháp luật về thuế.” Vì vậy, siết chặt việc quản lý thông tin về hộ kinh doanh có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý thuế. Với số lượng các hộ kinh doanh ngày càng nhiều làm cho công tác quản lý thông tin về hộ kinh doanh gặp khó khăn yêu cầu Chi cục Thuế cần tích cực nêu cao vai trò, trách nhiệm của từng hộ kinh doanh trong việc cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế sao cho hệ thống thông tin về người nộp thuế phải đầy đủ, đảm bảo tính chính xác, trung thực, kịp thời. Bên cạnh đó, phát huy tối đa các mối quan hệ với các ngành và ủy ban nhân dân xã, phường và tiến hành kiểm tra, giám sát diễn biến hoạt động của các hộ. Để từ đó, sắp xếp phân loại các hộ kinh doanh theo ngành nghề kinh doanh, mặt hàng kinh doanh, quy mô kinh doanh và theo phương pháp tính thuế. Đồng thời với sự phát triển của khoa học kỹ thuật nên áp dụng các ứng dụng công nghệ thông tin quản lý danh bạ hộ kinh doanh theo địa bàn, công khai trên Website giúp việc kiểm tra, giám sát thuận tiện, minh bạch.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 243 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề pháp lý về quản lý thuế hộ kinh doanh cá thể hiện nay ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 2354-0575 Khoa học & Công nghệ - Số 20/Tháng 12 - 2018 Journal of Science and Technology 55 MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ THUẾ HỘ KINH DOANH CÁ THỂ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM Nguyễn Thị Hải Yến Trường Đại học sư phạm kỹ thuật Hưng Yên Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 02/11/2018 Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 16/11/2018 Ngày bài báo được duyệt đăng: 23/11/2018 Tóm tắt: Hành lang pháp lý về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh đến nay đã dần được hoàn thiện, góp phần giúp Nhà nước thực hiện được mục đích động viên nguồn thu ngân sách từ hộ kinh doanh; đồng thời, giúp cơ quan quản lý thuế dễ dàng quản lý thuế đối với hộ kinh doanh. Từ những tồn tại và khó khăn trong công tác quản lý thuế, bài viết đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh. Từ khóa: Thuế, quản lý thuế, hộ kinh doanh cá thể. 1. Sự cần thiết của việc xây dựng hành lang pháp lý về quản lý thuế hộ kinh doanh cá thể Trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, Thuế luôn được coi là mối quan tâm hàng đầu của mọi Nhà nước, bởi nó không chỉ là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước mà còn được sử dụng làm công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua công cụ thuế, Nhà nước không chỉ tăng thu cho ngân sách, qua đó nhằm đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới, mà còn thực hiện mục tiêu bình đẳng và bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn cho xã hội đồng thời bảo vệ tài nguyên, môi trường của đất nước. Để đảm bảo mục tiêu thu đúng, đủ thuế nhằm phát huy đầy đủ vai trò của thuế trong phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước phải đề ra các quy định, luật pháp nhằm tạo một hành lang thống nhất, buộc mọi tổ chức, cá nhân kinh doanh phải thực hiện theo. Để Luật pháp về thuế được đảm bảo thực hiện, Nhà nước phải tổ chức ra bộ máy để quản lý thu thuế và giám sát thực hiện đối với bộ máy này. Do bản chất của thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp nên việc yêu cầu người nộp thuế tự giác khi không có hệ thống luật pháp để bắt buộc là điều không thể thực hiện, thậm chí kể cả khi có hệ thống luật pháp về thuế, nhiều tổ chức cá nhân nộp thuế vẫn cố tình không thực hiện hoặc lợi dụng kẽ hở của chính sách để tư lợi. Vì vậy, vai trò quản lý thuế của Nhà nước mang tính áp đặt và là một tất yếu khách quan trong quá trình quản lý. “Quản lý thuế là hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát của cơ quan thuế nhằm đảm bảo người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ thuế vào ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật”1. Do đó, quản lý thu thuế hộ kinh doanh cá thể là hoạt động quản lý thuế trong đó đối tượng nộp thuế là các hộ kinh doanh cá thể. Thu thuế là hoạt động trọng tâm, quyết định hiệu quả của quản lý thuế nên từ khái niệm quản lý thu thuế ta có thể hiểu quản lý thu thuế là việc Nhà nước sử dụng các phương tiện, cách thức, biện pháp nhằm thực hiện việc thu thuế sao cho đạt hiệu quả, đúng mục tiêu, mục đích đề ra trong việc xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Quá trình này được biểu hiện cụ thể thành một hệ thống, từ việc Nhà nước ban hành chính sách, tổ chức bộ máy, triển khai thực hiện, kiểm tra giám sát kết quả đến việc chỉnh sửa chính sách và ban hành chính sách mới cho phù hợp với thực tiễn đang quản lý. Quản lý thuế có vai trò bảo đảm cho chính sách thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội. Chính sách thuế thường được thiết kế nhằm thực hiện những chức năng của thuế. Tuy nhiên, các mục tiêu đó chỉ trở thành hiện thực nếu quản lý thuế thực hiện điều hành, giám sát tốt để người nộp thuế phải nộp đủ và nộp đúng hạn số thuế phải nộp vào Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, có thể khẳng định Quản lý thuế có vai trò quyết định cho sự thành công của từng chính sách thuế. Thời gian qua công tác quản lý thu thuế nói chung và công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể nói riêng trên cả nước đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận góp phần không nhỏ vào nguồn thu ngân sách Nhà nước cũng như nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về thuế của các hộ kinh doanh, hạn chế thất thu, tăng thu cho ngân 1 Lê Xuân Trường, Giáo trình Quản lý thuế, NXB Tài Chính, Hà Nội, 2010. ISSN 2354-0575 Journal of Science and Technology56 Khoa học & Công nghệ - Số 20/Tháng 12 - 2018 sách. Tuy nhiên, tiềm năng ở các hộ kinh doanh cá thể vẫn còn và có thể khai thác thu để đạt ở mức cao hơn. Vì vậy việc tìm hiểu thực trạng về pháp luật quản lý thuế đối với cá hộ kinh doanh cá thể để biết được những khó khăn trong công tác quản lý thuế, từ đó đề xuất một số kiến nghị về hành lang quản lý thuế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế với đối tượng này. 2. Thực trạng về pháp luật quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể ở Việt Nam hiện nay Quy trình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh nhằm hướng dẫn các bộ phận tại Chi cục Thuế thực hiện và phối hợp thực hiện các công việc quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh; đảm bảo công khai, minh bạch trong quá trình quản lý, lập bộ, tính thuế theo đúng các quy định của Luật Quản lý thuế, các Luật thuế, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật. Quản lý thuế đối với hộ kinh doanh được thực hiện theo quy định về pháp luật quản lý thuế. Bên cạnh đó, Thông tư 92/2015/TT-BTC về hướng dẫn thực hiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân cư trú có hoạt động kinh doanh; hướng dẫn thực hiện một số nội dung sửa đổi, bổ sung về thuế thu nhập cá nhân quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế số 71/2014/QH13 và Nghị định số 12/2015/ NĐ-CP ngày 12/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế được Bộ Tài chính ban hành ngày 15/06/2015 ra đời nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. Với việc ban hành chính sách thuế trên đã thay đổi cơ bản về chính sách thuế đối với hộ kinh doanh cá thể, nhằm giúp cho công tác quản lý thuế hoàn thiện một số vấn đề sau: Thứ nhất, tăng cường sự minh bạch khi xác định doanh thu khoán, số thuế phải nộp. Theo cách tính thuế trước khi Thông tư 92/2015/TT-BTC được ban hành là dựa vào doanh thu của cá nhân kinh doanh khi đã trừ đi các chi phí để tạo lập nên doanh thu và các khoản giảm trừ. Cùng với đó, doanh thu này được áp dụng theo biểu thuế lũy tiến từng phần và cuối năm phải làm quyết toán thuế. Tuy nhiên, cách tính thuế trên áp dụng với cá nhân kinh doanh đã không còn phù hợp nữa. Bởi lẽ, trình độ hiểu biết pháp luật, trình độ về kế toán - tài chính của cá nhân kinh doanh không phải ai cũng giống nhau và không phải ai cũng tự xác định được số thuế phải nộp của mình, nhất là khi tính các chi phí và khoản giảm trừ gia cảnh được trừ. Mặt khác, từ phía cơ quan thuế việc ấn định mức thuế khoán của cơ quan thuế cũng chưa chắc đạt được sự công bằng giữa cá nhân kinh doanh này với cá nhân kinh doanh khác (tuy cùng quy mô ngành nghề) bởi còn vướng các yếu tố đã phân tích nói trên. Để giải quyết vấn đề này, Thông tư 92/2015/TT-BTC công khai minh bạch các thông tin về doanh thu, mức thuế khoán để cá nhân kinh doanh, các cơ quan các cấp cùng giám sát thực hiện. Theo đó, niêm yết công khai mức do- anh thu dự kiến, mức thuế dự kiến, cá nhân thuộc diện phải nộp, không phải nộp thuế tại bộ phận một cửa của chi cục thuế. Sau đó, danh sách này được gửi tới Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc cấp huyện, xã để xin ý kiến. Đồng thời, chậm nhất đến ngày 20/12 hàng năm Chi cục thuế gửi thông báo mức doanh thu dự kiến, mức thuế dự kiến phải nộp trực tiếp cho từng cá nhân kinh doanh. Sau đó, danh sách này gửi tới Hội đồng tư vấn thuế để xin ý kiến và lập sổ bộ thuế. Sau cùng, cơ quan thuế thông báo số thuế phải nộp chính thức tới từng cá nhân kinh doanh. Việc công khai trên sẽ giúp cơ quan thuế cấp trên, các cơ quan có trách nhiệm liên quan dễ dàng giám sát các hoạt động của cơ quan thuế cấp dưới. Đồng thời, bản thân cá nhân kinh doanh cũng tự tính toán số thuế phải nộp và so sánh với số thuế mà cơ quan thuế đã thông báo để có phản hồi kịp thời. Thứ hai, cách xác định doanh thu chịu thuế nhằm hướng tới quản lý chặt chẽ hơn việc sử dụng hóa đơn và hạn chế tình trạng sử dụng hóa đơn để giúp các doanh nghiệp trốn thuế, lậu thuế. Theo quy định trước đây (Thông tư số 111/2013/TT- BTC), khi cá nhân kinh doanh vừa có doanh thu khoán vừa sử dụng hóa đơn của cơ quan thuế thì nếu số doanh thu trên hóa đơn cao hơn doanh thu khoán mà không phải do thay đổi quy mô ngành nghề thì cá nhân kinh doanh nộp bổ sung số thuế tương ứng với phần tăng thêm. Thông tư 92/2015/ TT-BTC quy định “trường hợp cá nhân nộp thuế khoán có sử dụng hóa đơn quyển thì doanh thu tính thuế được căn cứ theo doanh thu khoán và doanh thu trên hóa đơn”2. Cùng với đó, theo hướng dẫn tại Khoản 1.2, Điều 1, Mục I của Công văn số 2994/ TCT-TNCN ngày 24/7/2015 của Tổng cục Thuế thì doanh thu tính thuế không phân biệt hóa đơn quyển hay hóa đơn lẻ theo từng số. Điều này có nghĩa là cá nhân kinh doanh phải nộp thuế cho doanh thu khoán riêng và doanh thu trên hóa đơn riêng. Quy định trên có thể dẫn tới tình trạng số doanh thu chịu thuế cao hơn so với cách tính quy định tại Thông tư 111/2013/TT-BTC nhưng sẽ hạn chế được tình 2 Thông tư 92/2015/TT – BTC ngày 15/6/2015 ISSN 2354-0575 Khoa học & Công nghệ - Số 20/Tháng 12 - 2018 Journal of Science and Technology 57 trạng “việc hộ khoán lợi dụng hoá đơn của cơ quan thuế vì các mục đích hợp thức hoá chi phí đầu vào cho doanh nghiệp hoặc các đơn vị sử dụng tiền ngân sách nhà nước”3. Thứ ba, dễ dàng khi xác định số thuế phải nộp từ đó giúp cá nhân kinh doanh giảm thiểu các chi phí để hoàn thành nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Về lý thuyết, thu nhập chịu thuế là thu nhập sau khi đã trừ đi các chi phi để tạo ra thu nhập đó và các khoản giảm trừ. Trước năm 2015, cá nhân kinh doanh áp dụng thuế thu nhập cá nhân theo biểu thuế lũy tiến từng phần trên thu nhập. Tuy nhiên, trình độ pháp luật và kế toán, tài chính của cá nhân kinh doanh hạn chế, không phải ai cũng có thể tính được số thuế phải nộp. Bởi lẽ nhiều cá nhân kinh doanh không thể hiểu được đâu là chi phí kinh doanh để được trừ. Nếu thuê dịch vụ thuế thì lại tốn thêm chi phí để chi cho dịch vụ này, còn nếu tự tính thì khó có thể tính chính xác số thuế phải nộp và kê khai không đúng, không đủ rồi chịu truy thu thuế và bị phạt hành chính thuế. Mặt khác, chi phí về thời gian để làm tất cả công việc trên để hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước là rất lớn. Để dễ dàng trong việc xác định số thuế phải nộp, minh bạch trong việc xác định thu nhập chịu thuế, Thông tư 92/2015/ TT-BTC quy định cách tính thuế dựa trên doanh thu với thuế suất được ấn định theo từng lĩnh vực ngành nghề kinh doanh. Bên cạnh đó, “trong thuế suất ấn định như trên được xây dựng theo hướng đã tính một khoản chi phí và giảm trừ gia cảnh cố định”4. Thứ tư, tăng cường quản lý thuế đối với hộ kinh doanh có quy mô kinh doanh lớn nhằm tăng khả năng tuân thủ pháp luật thuế và tạo ra sự bình đẳng đối với chủ thể kinh doanh có cùng quy mô. Nếu cá nhân kinh doanh sử dụng trên 10 lao động phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Nếu chưa thành lập doanh nghiệp thì vẫn nộp thuế theo phương pháp khoán. Trong trường hợp này, cơ quan thuế có trách nhiệm thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh. Sau đó, cá nhân kinh doanh buộc phải chuyển đổi thành doanh nghiệp và khi đó việc nộp thuế chuyển sang tự tính, tự khai, tự nộp thuế, đồng thời đưa các đối tượng này vào danh sách quản lý thuế theo tiêu chí rủi ro. Quy định này vô cùng cần thiết, giúp tạo ra sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh có cùng quy mô. Trên thực tế, có nhiều cá nhân kinh doanh quy mô còn lớn hơn cả các doanh nghiệp. Do vậy, phải bắt buộc thành lập doanh nghiệp để xác lập quy trình quản lý thuế bình đẳng; Cá nhân kinh doanh như trên có quy mô lớn, thường xuyên sử dụng hóa đơn chứng từ trong các giao dịch do vậy cần phải quản lý chặt chẽ hơn; Khi đã thành lập doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh không còn phụ thuộc vào việc ấn định thuế của cơ quan thuế nữa mà tự chủ động vào thực tế kinh doanh của mình để tự tính, tự khai và nộp thuế. Tất nhiên, uy tín về thuế là một tiêu chí để đưa hay không đưa cá nhân kinh doanh đó vào quản lý thuế theo tiêu chí rủi ro. Từ đó, tăng cường tính chủ động, tự giác tuân thủ pháp luật thuế. Những đổi mới về chính sách trên đã giúp cho người nộp thuế thuận lợi hơn trong việc tính, kê khai, nộp thuế đầy đủ và chính xác. Bên cạnh đó, giúp các cơ quan quản lý thuế dễ dàng quản lý, xử phạt những trường hợp trốn thuế, lậu thuế. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai còn có một số vướng mắc như pháp luật về thuế cho hộ kinh doanh chưa thực sự chi tiết, minh bạch dẫn tới tình trạng thỏa thuận ngầm về ấn định mức thuế khoán; quy định xử phạt đối với chậm nộp tiền thuế còn thấp dẫn tới tình trạng nợ đọng thuế còn cao. 3. Những khó khăn trong vấn đề quản lý thuế hộ kinh doanh cá thể Từ thời điểm ban hành cho tới nay, về cơ bản hành lang pháp lý về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh đã hoàn thiện, giúp Nhà nước thực hiện được mục đích động viên nguồn thu ngân sách từ hộ kinh doanh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn gặp một số khó khăn sau: Thứ nhất: Về vấn đề quản lý kê khai thuế. Quy định đăng ký kinh doanh tách rời đăng ký thuế dẫn tới một số hộ kinh doanh cố tình không đi đăng ký thuế, dẫn tới tình trạng chênh lệch giữa số hộ kinh doanh đăng ký kinh doanh và số hộ đăng ký thuế. Theo Khoản 3 Điều 6 Thông tư số 95/2016/ TT-BTC hướng dẫn về đăng ký thuế (có hiệu lực từ ngày 12/08/2016) thì “Hộ gia đình, nhóm cá nhân, cá nhân kinh doanh thực hiện đăng ký thuế cùng với thời hạn nộp hồ sơ khai thuế lần đầu. Trường hợp được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh thì hộ gia đình, nhóm cá nhân, cá nhân kinh doanh phải thực hiện đăng ký thuế trực tiếp với cơ quan thuế trong thời hạn 10 (mười) ngày làm việc kể từ ngày ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh”5. Khác với việc đăng ký thuế của doanh nghiệp được hiện đồng thời với đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh, thì việc đăng ký thuế và đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh lại tách rời. Tình trạng này khiến số hộ kinh doanh đã đăng ký 3 Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 4 Thông tư 92/2015/TT – BTC ngày 15/6/2015 5 Thông tư số 95/2016/TT-BTC ngày 28/6/2016 ISSN 2354-0575 Journal of Science and Technology58 Khoa học & Công nghệ - Số 20/Tháng 12 - 2018 kinh doanh và số hộ đăng ký thuế có sự chênh lệch về số lượng. Từ đó dẫn tới công tác quản lý hộ kinh doanh không chặt chẽ, tốn kém thời gian, chi phí, bỏ lọt đối tượng thu thuế và làm thất thu cho nguồn thu ngân sách nhà nước. Thứ hai: Về vấn đề quản lý số thuế phải nộp của các hộ kinh doanh cá thể. Với hình thức cho phép hộ kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế và chịu trách nhiệm về các khoản kê khai nhưng do ý thức người nộp thuế tự giác chưa cao nhất là hộ kinh doanh cá thể, trình độ hiểu biết pháp luật về thuế còn kém nên đa số không thực hiện ghi chép sổ sách, hoặc khai báo không trung thực về doanh thu đạt được trong kỳ. Điều đó khiến cho cơ quan thuế rất khó để quản lý đúng số thuế của các hộ kinh doanh. Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 2 Thông tư 92/2015/TT-BTC thì “trường hợp cá nhân nộp thuế khoán có sử dụng hóa đơn quyển thì doanh thu tính thuế được căn cứ theo doanh thu khoán và doanh thu trên hóa đơn”6. Tức là hộ kinh doanh phải nộp cả thuế khoán và thuế dựa trên doanh thu theo hóa đơn. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay nhiều hộ kinh doanh không có đủ kiến ý thức về tài chính kế toán nên việc ghi chép lại sổ sách kế toán gặp khó khăn. Ngoài ra, do khách hàng sử dụng dịch vụ, hàng hóa của hộ kinh doanh thường không lấy hóa đơn nên hộ kinh doanh cũng không xuất hóa đơn (ví dụ như nhà hàng, khách sạn, quán karaoke), từ đó dẫn tới khó kiểm soát được doanh thu theo hóa đơn để tính thuế. Thứ ba: Về vấn đề ý thức chấp hành pháp luật về quản lý thuế của hộ kinh doanh cá thể. Bên cạnh một số hộ kinh doanh cá thể không có đủ kiến thức về tài chính kế toán, cũng như hiểu biết về pháp luật quản lý thuế dẫn đến tình trạng vi phạm các quy định về thuế, thì vẫn còn những hộ có đủ hiểu biết nhưng cố tình không chấp hành theo các quy định. Đây là một vấn đề khó giải quyết vì nó phụ thuộc vào ý thức của mỗi cá nhân. Khi họ cố tình sai phạm thì nhà nước cần xây dựng hành lang pháp lý và chế tài xử lý nghiêm ngặt hơn rất nhiều. 4. Một số ý kiến đề xuất Từ những hạn chế trên, bài viết đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần giúp hoàn thiện hơn nữa pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh trên những nội dung sau: Thứ nhất, cải cách bộ máy quản lý và cơ chế hoạt động. Trước những khó khăn trong công tác quản lý thuế, việc cải cách là hoạt động cần thiết của cơ quan Thuế. Tổ chức bộ máy quản lý cần kết hợp đan xen với nguyên tắc quản lý thuế theo nhóm đối tượng và theo sắc thuế để phát huy toàn diện được mô hình quản lý thuế theo chức năng. Thường xuyên nâng cao chất lượng chuyên môn và kỹ năng quản lý thuế hiện đại, khoa học cho mỗi cán bộ thuế để xây dựng bộ máy quản lý thuế ngày càng hoàn thiện hơn. Thứ hai, cần quản lý chặt chẽ quản lý việc đăng ký thuế, khai thuế, ấn định thuế. Cơ quan thuế cần thực hiện một cửa liên thông trong cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và Giấy chứng nhận đăng ký thuế. Việc tổ chức quản lý hồ sơ đăng ký thuế cần phân loại theo chủ thể tạo lập như: Hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ, Hộ gia đình làm chủ, do một nhóm người làm chủ. Bên cạnh đó cần áp dụng đồng thời các căn cứ ấn định thuế đối với hộ kinh doanh ổn định để xác định số thuế được chính xác như: Cơ sở dữ liệu của Chi cục thuế, so sánh số thuế phải nộp của cơ sở kinh doanh cùng mặt hàng, cùng ngành nghề, cùng quy mô và tài liệu và kết quả kiểm tra, thanh tra còn hiệu lực. Minh bạch việc xác định doanh thu khoán và số thuế khoán phải nộp với sự tham gia của các cấp, ngành. Thứ ba, siết chặt quản lý thông tin hộ kinh doanh. Theo Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006, “Thông tin về người nộp thuế là cơ sở để thực hiện quản lý thuế, đánh giá mức độ chấp hành pháp luật của người nộp thuế, ngăn ngừa, phát hiện vi phạm pháp luật về thuế.” Vì vậy, siết chặt việc quản lý thông tin về hộ kinh doanh có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý thuế. Với số lượng các hộ kinh doanh ngày càng nhiều làm cho công tác quản lý thông tin về hộ kinh doanh gặp khó khăn yêu cầu Chi cục Thuế cần tích cực nêu cao vai trò, trách nhiệm của từng hộ kinh doanh trong việc cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế sao cho hệ thống thông tin về người nộp thuế phải đầy đủ, đảm bảo tính chính xác, trung thực, kịp thời. Bên cạnh đó, phát huy tối đa các mối quan hệ với các ngành và ủy ban nhân dân xã, phường và tiến hành kiểm tra, giám sát diễn biến hoạt động của các hộ. Để từ đó, sắp xếp phân loại các hộ kinh doanh theo ngành nghề kinh doanh, mặt hàng kinh doanh, quy mô kinh doanh và theo phương pháp tính thuế. Đồng thời với sự phát triển của khoa học kỹ thuật nên áp dụng các ứng dụng công nghệ thông tin quản lý danh bạ hộ kinh doanh theo địa bàn, công khai trên Website giúp việc kiểm tra, giám sát thuận tiện, minh bạch. Thứ tư, tiếp tục ban hành, hoàn thiện, triển khai đồng bộ quyết liệt các quy định của pháp luật về “siết chặt” hóa đơn bán lẻ của các hộ kinh 6 Thông tư 92/2015/TT – BTC ngày 15/6/2015 ISSN 2354-0575 Khoa học & Công nghệ - Số 20/Tháng 12 - 2018 Journal of Science and Technology 59 doanh. Hiện nay việc “siết” hóa đơn được thực hiện theo Công văn số 5156/TCT-KTNB ngày 7/11/2016. Tuy nhiên, cần phải nâng hiệu lực của các quy định này lên bằng cách sửa đổi đổi bổ sung Thông tư 92/2015/TT-BTC và đưa các tiêu chí này vào. Mặt khác, để đảm bảo sự thống nhất trong các quy định của pháp luật, nên đưa các dấu hiệu này vào trong các thông tư, nghị định quy định về hóa đơn, thanh tra, kiểm tra thuế. Tóm lại: Nhìn chung, trong thời gian qua hành lang pháp lý về thuế dành cho hộ kinh doanh đã tương đối đầy đủ, tuy nhiên, do sự phát triển không ngừng của các hoạt động kinh doanh cũng như các chính sách kinh tế, pháp luật dành cho đối tượng này cũng thay đổi, nên cần nhanh chóng tạo lập một hành lang pháp lý mới để điều chỉnh, giúp cho các cơ quan thuế đạt được mục tiêu khi động viên nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Bài viết đề xuất một số kiến nghị như cải cách bộ máy quản lý và cơ chế hoạt động, quản lý chặt chẽ quản lý việc đăng ký thuế, khai thuế, ấn định thuế, siết chặt quản lý thông tin hộ kinh doanh, siết chặt hóa đơn bán lẻ của các hộ kinh doanh nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thu và quản lý thuế. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên thông qua đề tài mã số UTEHY.T004.P1718.02. Tài liệu tham khảo [1]. Công văn số 5156/TCT-KTNB ngày 7/11/2016 của Tổng cục Thuế về việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng lợi dụng bán, cấp hóa đơn lẻ để hợp thức thóa chứng từ mua vào, bán ra gây thất thu ngân sách Nhà nước. [2]. Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006. [3]. Thông tư 92/2015/TT – BTC ngày 15/6/2015 về hướng dẫn thực hiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân cư trú có hoạt động kinh doanh. [4]. Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 về việc hướng dẫn thực hiện luật thuế thu nhập cá nhân. [5]. Thông tư số 95/2016/TT-BTC ngày 28/6/2016 hướng dẫn về đăng ký thuế. [6]. Lê Xuân Trường. Giáo trình Quản lý thuế, NXB Tài Chính, Hà Nội, 2010. SOME LEGAL ISSUES ON THE CURRENT MANAGEMENT OF TAX INDIVIDUAL BUSINESS HOUSEHOLDS IN VIETNAM Abstract: The legal framework on tax administration for individual business households has been gradually improved, contributing to the State’s purpose of mobilizing the budget revenue from business households; At the same time, it helps tax administration agencies to easily manage taxes for individual business households. From the problems and difficulties in tax administration, the paper proposes a number of recommendations to further improve regulations on tax administration for business households. Keywords: Taxes, tax administration, individual business households.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_van_de_phap_ly_ve_quan_ly_thue_ho_kinh_doanh_ca_the_h.pdf
Tài liệu liên quan