Thời gian qua, để hạn chế rủi ro cho
mình, các NHTM thường ký hợp đồng ba
bên là ngân hàng, nhà đầu tư và người thế
chấp là người mua nhà của nhà đầu tư, theo
đó thỏa thuận: khi nhận Giấy chứng nhận thì
nhà đầu tư có nghĩa vụ chuyển cho ngân
hàng để bổ sung hồ sơ, thay vì giao cho
người mua nhà. Sau khi có Giấy chứng
nhận, ngân hàng chỉ ký bản bổ sung hay ký
lại hợp đồng thế chấp để đưa vào đó các
thông tin chính xác về nhà ở hình thành
trong tương lai đã hình thành nhằm tránh các
xung đột về thứ tự ưu tiên với các bên thứ
ba. Điều đó cho thấy, pháp luật vẫn còn
thiếu những quy định trong điều chỉnh vấn
đề này. Pháp luật cần quy định nghĩa vụ, chế
tài cụ thể đối với chủ đầu tư về việc hỗ trợ
ngân hàng hoàn thành hồ sơ thế chấp nhà ở
khi nhà ở đã hình thành, nhằm bảo vệ lợi ích
chính đáng của bên nhận thế chấp.
Ngoài ra, không có một quy định nào
trong Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLTNHNN-BXD-BTP-BTNMT quy định Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất phải ghi
nội dung gì trên Giấy chứng nhận khi thực
hiện thủ tục đăng ký chuyển tiếp. Điều này
dẫn tới một thực tế là một số Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất vẫn từ chối hồ
sơ đăng ký chuyển tiếp trong khi đợi hướng
dẫn20. Với quy định và thực tiễn này cho
thấy, việc chuyển tiếp đăng ký gặp khó
khăn. Để thuận lợi cho ngân hàng và bên thế
chấp, pháp luật cần có những quy định cụ
thể về nghĩa vụ của chủ đầu tư trong việc
phối hợp, hỗ trợ bên thế chấp (mua nhà) và
ngân hàng thực hiện thủ tục chuyển tiếp
đăng ký thế chấp. Một giải pháp khác có thể
lựa chọn: nhà ở được hình thành đương
nhiên là tài sản thế chấp21; do vậy, thay vì
quy định đăng ký chuyển tiếp, vẫn có thể
quy định khi cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở, cơ quan cấp Giấy phải ghi nội
dung thế chấp này. Tất nhiên, khi đó cũng
không cần ký hợp đồng mới, đăng ký giao
dịch bảo đảm mới hoặc sửa đổi, bổ sung hợp
đồng, giao dịch bảo đảm đã ký hoặc đăng
ký, trừ trường hợp các bên có nhu cầu sửa
đổi, bổ sung theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, để bảo đảm có sự thống nhất trong
quản lý, các cơ quan có thẩm quyền cần
nhanh chóng ban hành mẫu chung thống
nhất trong việc chuyển đổi này
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề pháp lý về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai tại ngân hàng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 19(323) T10/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
MÖÅT SÖË VÊËN ÀÏÌ PHAÁP LYÁ VÏÌ THÏË CHÊËP NHAÂ ÚÃ HÒNH
THAÂNH TRONG TÛÚNG LAI TAÅI NGÊN HAÂNG THÛÚNG MAÅI
HuỳnH anH*
* ThS, GV. Trường Đại học An Giang.
1 Xem thêm Điều 61 Nghị định số 71/2010/NĐ- CP, quy định “Tổ chức, cá nhân mua nhà ở hình thành trong tương lai của
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản được quyền thế chấp nhà ở tại tổ chức tín dụng để vay vốn. Thủ tục thế chấp
nhà ở hình thành trong tương lai được thực hiện theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước”.
2 Xem Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về Giao dịch nhà ở và và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày
22/02/2012 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 136; Thông tư số 08/2014/TT-BTP ngày 26/02/2014 của Bộ Tư pháp và Công
văn số 232/ĐKGDBĐ-NV ngày 4/10/2007 của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp.
1. nhận diện nhà ở hình thành trong
tương lai là đối tượng của hợp đồng thế
chấp
Lần đầu tiên, thuật ngữ “nhà ở hình
thành trong tương lai” xuất hiện trong văn
bản quy phạm pháp luật như là đối tượng
của giao dịch bảo đảm được nhắc đến trong
Nghị định số 71/2010/NĐ-CP của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật Nhà ở (Nghị định số 71/2010/NĐ-CP).
Tuy nhiên, thuật ngữ này không được giải
thích trong Nghị định1.
Trước đó, ngày 29/11/2005, Quốc hội
đã thông qua Luật Nhà ở, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/7/2006. Luật không đưa
ra khái niệm về nhà ở hình thành trong
tương lai, do đó các giao dịch liên quan đến
nhà ở hình thành trong tương lai chủ yếu
dựa vào luật chung - Bộ luật Dân sự (BLDS)
năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi
hành2. BLDS năm 2005 và các văn bản
hướng dẫn thi hành Bộ luật này cũng không
đề cập đến thuật ngữ “nhà ở hình thành
trong tương lai”, thay vào đó là những quy
định chung về “tài sản hình thành trong
Trong giao dịch bảo đảm, nhà ở hình thành trong tương lai là một dạng tài sản
bảo đảm có tính chất đặc thù, đòi hỏi phải có những cơ chế pháp lý riêng biệt, cụ
thể để điều chỉnh, nhằm đảm bảo an toàn cho các giao dịch dân sự, thương mại
nói chung, giao dịch thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai tại các ngân hàng
thương mại (NHTM) nói riêng, cũng như bảo đảm an toàn cho các thiết chế tài
chính. Thời gian qua, những quy định về giao dịch thế chấp liên quan đến loại tài
sản này chủ yếu dựa vào các quy định chung, nên có quá nhiều bất cập chưa giải
quyết được khi áp dụng, thêm vào đó là những vấn đề mới tiếp tục phát sinh. Trong
đó, vấn đề nhận diện nhà ở hình thành trong tương lai, vấn đề xác lập giao dịch
và đăng ký thế chấp đang là những vấn đề đáng quan tâm.
3 BLDS năm 2005 khi quy định về phân loại tài sản có nhắc đến tài sản có thể được hình thành trong tương lai tại Điều
320 và khẳng định tài sản hình thành trong tương lai cũng có thể thế chấp (Điều 342).
4 Nhà ở được hình thành qua hợp đồng chuyển nhượng nhưng chưa được sang tên chẳng hạn.
5 Xem Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT: “Nhà ở hình thành trong tương lai làm tài sản
thế chấp là nhà ở được tổ chức, cá nhân mua của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án đầu tư xây dựng
nhà ở mà tại thời điểm xác lập hợp đồng thế chấp nhà ở đó đang trong quá trình đầu tư xây dựng theo hồ sơ thiết kế
được duyệt và Giấy phép xây dựng (đối với trường hợp phải có Giấy phép xây dựng) hoặc đã hoàn thành việc xây dựng
theo quy định của pháp luật về xây dựng nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất...’’ Theo Điều 5 có quy định nhà ở hình thành trong tương lai được phép thế chấp chỉ
bao gồm đối tượng “căn hộ chung cư xây dựng trong các dự án xây dựng nhà; nhà ở riêng lẻ được xây dựng trong dự
án đầu tư xây dựng nhà ở”.
52
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 19(323) T10/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
tương lai”, nhưng cũng không có mô tả cụ
thể về khái niệm tài sản hình thành trong
tương lai3. Tuy nhiên, Điều 4 Nghị định số
163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày
29/12/2006 về giao dịch bảo đảm (Nghị
định số 163/2006/NĐ-CP) có quy định
“...Tài sản hình thành trong tương lai bao
gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời
điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau
thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới
thuộc sở hữu của bên bảo đảm”. Với quy
định “tài sản đã được hình thành” nhưng
chưa thuộc sở hữu của bên bảo đảm cũng
được xem là tài sản hình thành trong tương
lai mà không có giải thích gì thêm nên khi
vận dụng vào thế chấp tài sản là nhà ở hình
thành trong tương lai đã gây nhầm lẫn với
một số dạng nhà ở khác4, dường như không
còn đúng nghĩa nhà ở “tương lai”. Vì thế
trong quá trình áp dụng quy định chung này
đối với thế chấp nhà ở hình thành trong
tương lai cũng đã gặp những vấn đề vướng
mắc, cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Đến năm 2014, Thông tư liên tịch số
01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT
ngày 25/4/2014 của Ngân hàng Nhà nước,
Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên
và Môi trường hướng dẫn thủ tục thế chấp
nhà ở hình thành trong tương lai theo Nghị
định số 71/2010/NĐ-CP (Thông tư liên tịch
số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-
BTNMT) ra đời đã giải thích thuật ngữ nhà
ở “hình thành trong tương lai”. Theo đó, nhà
ở hình thành trong tương lai được hiểu là
“nhà ở đang trong quá trình đầu tư xây dựng
hoặc đã hoàn thành việc xây dựng theo quy
định pháp luật nhưng chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu”. Bên cạnh đó,
Thông tư cũng giới hạn nhà ở hình thành
trong tương lai là đối tượng của hợp đồng
thế chấp chỉ gồm nhà do các tổ chức kinh
doanh bất động sản xây dựng và bán cho tổ
chức, cá nhân5.
Ngày 25/11/2014, Quốc hội đã thông
qua Luật Nhà ở có hiệu lực vào ngày
01/7/2015 đã giải thích rất cô đọng và ngắn
gọn về khái niệm nhà ở hình thành trong
tương lai là “nhà ở đang trong quá trình đầu
tư xây dựng và chưa được nghiệm thu đưa
vào sử dụng”. Thông qua quy định về điều
kiện thế chấp nhà ở hình thành trong tương
lai, Luật cũng cho thấy thế nào là nhà ở đang
trong quá trình xây dựng. Theo đó, nếu đối
với dự án nhà ở hình thành trong tương lai
thì phải có những giấy tờ cần thiết thể hiện
nhà ở sẽ hình thành gồm: hồ sơ dự án, thiết
kế kỹ thuật của dự án được phê duyệt và
Giấy chứng nhận hoặc quyết định giao đất,
cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền; đối với nhà ở hình thành trong tương
lai được xây dựng trong dự án thì phải xây
xong phần móng; đối với nhà ở hình thành
trong tương lai do tổ chức, cá nhân xây dựng
trên thửa đất ở hợp pháp của mình thì vào
53
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 19(323) T10/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
thời điểm xác lập giao dịch đã có giấy phép
xây dựng6.
Từ đó, có thể nhận diện nhà ở hình
thành trong tương lai là đối tượng của hợp
đồng thế chấp như sau:
Thứ nhất, nhà ở hình thành trong tương
lai đang trong quá trình xây dựng (yếu tố
đang trong quá trình xây dựng được xác
định trên cơ sở đáp ứng những quy định cụ
thể của pháp luật như có hồ sơ dự án, thiết
kế kỹ thuật của dự án được phê duyệt,)
hoặc đã hoàn thành việc xây dựng nhưng
chưa được đưa vào sử dụng. Quy định này
loại trừ những tài sản đã hiện hữu có được
do mua bán, tặng cho, thừa kế, trao đổi,..
nhưng chưa hoàn thành việc chuyển quyền
sở hữu.
Thứ hai, nhà ở hình thành trong tương
lai dùng vào việc bảo đảm sẽ thuộc quyền
sở hữu của bên thế chấp nhưng hiện tại chưa
có giấy chứng nhận quyền sở hữu. Tức nhà
ở cụ thể này chưa từng được cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu trước đây.
2. Một số vấn đề cụ thể trong việc áp dụng
pháp luật liên quan đến thế chấp nhà ở
hình thành trong tương lai
2.1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
đã được khắc phục
2.1.1 Phân biệt nhà ở hình thành trong
tương lai với dạng nhà ở đã hình thành
nhưng vì lý do nào đó chưa có giấy chứng
nhận quyền sở hữu
Theo Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
của Chính phủ, “Tài sản hình thành trong
tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình
thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo
đảm” và theo Nghị định số 11/2012/NĐ-CP
sửa đổi, bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-
CP, tài sản bảo đảm là tài sản hình thành
trong tương lai bao gồm “Tài sản đã hình
thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền
sở hữu, nhưng sau thời điểm giao kết giao
dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng
ký theo quy định của pháp luật”. Với các quy
định này, nhà ở hình thành trong tương lai
được hiểu căn cứ vào quy định chung về tài
sản hình thành trong tương lai như trên. Điều
đó có thể hiểu rằng, nhà ở hình thành trong
tương lai có thể bao gồm “tài sản đã hình
thành” và “chưa có giấy chứng nhận quyền
sở hữu”. Trong thực tiễn, có những trường
hợp nhà ở đã hình thành và đã được sử dụng
từ lâu nhưng vì lý do này hay lý do khác mà
không được cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu. Nếu căn cứ vào quy định trên để xác
định đây là nhà ở hình thành trong tương lai
thì vô lý, không phù hợp. Bởi thực tế trong
trường hợp này nhà ở đã hình thành ổn định.
Ngân hàng và cả cơ quan công chứng đều
gặp lúng túng trong trường hợp này.
Ngoài ra, một số trường hợp còn có sự
nhầm lẫn về đối tượng là nhà ở hình thành
trong tương lai và nhà ở gắn liền với quyền
sử dụng đất khi thế chấp tài sản là nhà ở gắn
liền với quyền sử dụng đất. Thực tế có nhiều
trường hợp thế chấp tài sản là nhà ở gắn liền
với quyền sử dụng đất, hồ sơ chỉ có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không
có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở trên
đất. Điều này đã dẫn đến những tranh cãi,
nếu theo hướng dẫn của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP thì rõ ràng đây vẫn có thể
xem là nhà ở hình thành trong tương lai vì
thỏa mãn quy định về tài sản hình thành
trong tương lai theo Nghị định số
163/2006/NĐ-CP. Tuy nhiên, quan điểm
khác cho rằng, trên thực tế, đây là một giao
dịch liên quan đến nhà ở đã tồn tại và trong
hồ sơ thiếu phần giấy chứng nhận quyền sở
6 Xem thêm Điều 147. Thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai; Điều 148.
Điều kiện thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai.
54
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 19(323) T10/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
7 Xem thêm Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, Nghị định số 71/2010/NĐ-CP, Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 27/3/2010 về
đăng ký giao dịch bảo đảm và Thông tư số 20 TNMT ngày 18/11/2011 hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng
đất, tài sản gắn liền với đất.
8 Xem thêm: Võ Đình Nho và Tuấn Đạo Thanh, Luận bàn về thế chấp tài sản hình thành trong tương lai, Tạp chí Dân chủ
và Pháp luật, số 10 năm 2009, tr. 3-11.
9 Xem điểm a khoản 2 Điều 118 Luật Nhà ở năm 2014.
hữu nhà theo Luật Nhà ở năm 2005. Bởi lẽ
Luật Nhà ở năm 2005 quy định giao dịch về
nhà ở phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà. Mặc dù sau đó cũng có những văn bản
dưới luật đề cập đến thế chấp nhà ở hình
thành trong lai, thế chấp tài sản hình thành
trong tương lai gắn liền với quyền sử dụng
đất nhưng vẫn không làm sáng tỏ vấn đề
này7. Như vậy, trong trường hợp này có
được xem là dạng nhà ở hình thành trong
tương lai hay không vẫn có những quan
điểm khác nhau. Đâu mới là tài sản bảo đảm
trong trường hợp này? Ngân hàng có được
xem nhà ở đã hình thành trên phần đất đã
được thế chấp là tài sản bảo đảm không?
Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-
NHNN-BXD-BTP-BTNMT ra đời đã xác
định nhà ở hình thành trong tương lai tại thời
điểm xác lập hợp đồng thế chấp là “nhà ở
đang trong quá trình đầu tư, xây dựng” hoặc
“đã hoàn thành việc xây dựng theo quy định
của pháp luật về việc xây dựng nhưng chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn
liền với đất”. Quy định này vẫn chưa thực
sự rõ ràng vì vẫn cho rằng, nhà ở đã hoàn
thành việc xây dựng cũng là nhà ở hình
thành trong tương lai. Đến Luật Nhà ở năm
2014 khẳng định, nhà ở hình thành trong
tương lai là nhà ở “đang trong quá trình đầu
tư xây dựng’’ và ‘‘chưa được nghiệm thu và
đưa vào sử dụng”. Yếu tố này đã xác định
rõ những đối tượng là nhà ở hình thành và
đã đưa vào sử dụng không thuộc dạng nhà ở
hình thành trong tương lai, từ đó không còn
có sự nhầm lẫn về đối tượng là nhà ở hình
thành trong tương lai trong những trường
hợp như đã nêu trên.
2.1.2 Phân biệt thế chấp nhà ở dưới
dạng quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và
thế chấp trực tiếp nhà ở hình thành trong
tương lai
Theo Luật Nhà ở năm 2005, muốn thế
chấp nhà ở phải có giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà ở. Do vậy, căn cứ vào quy định
này, chủ thể có nhà ở hình thành trong tương
lai không thể thực hiện thế chấp tài sản này
vì chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu.
Thế nên, để thỏa mãn nhu cầu về vốn, người
có nhà ở hình thành trong tương lai áp dụng
quy định của pháp luật dân sự và các văn
bản dưới luật để thế chấp quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng mua nhà, đối tượng giao
dịch ở đây là quyền tài sản chứ không phải
là tài sản - nhà ở hình thành trong tương lai.
Trong khi hai chế định “quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng” và “tài sản hình thành
trong tương lai” là hai chế định hoàn toàn
khác nhau8. Nhưng bởi vướng quy định của
pháp luật trong quá trình vận dụng thế chấp
nhà ở trong tương lai, khó thể giao kết hợp
đồng thế chấp đúng luật, cơ quan công
chứng cũng e ngại và từ chối việc công
chứng. Do vậy, ngân hàng cũng chọn lựa
hình thức nhận thế chấp quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng.
Tuy nhiên, Luật Nhà ở năm 2014 đã
quy định việc mua bán, thế chấp nhà ở hình
thành trong tương lai không buộc phải có
giấy chứng nhận quyền sở hữu9. Điều đó đã
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thế
chấp nhà ở hình thành trong tương lai, trong
đó nhà ở hình thành trong tương lai là đối
tượng thực sự của hợp đồng thế chấp.
55
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 19(323) T10/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
10 Xem Điều 342 BLDS năm 2005.
Ngoài ra, Luật Nhà ở năm 2014 đã góp
phần quan trọng phân biệt nhà ở hình thành
trong tương lai và quyền tài sản phát sinh từ
hợp đồng liên quan đến nhà ở đã hình thành.
Bởi thông qua việc xác định nhà ở hình
thành trong tương lai là nhà ở “...chưa được
đưa vào sử dụng” nên những nhà ở đã hình
thành, sử dụng không thuộc phạm vi điều
chỉnh này. Chẳng hạn trường hợp một người
ký kết hợp đồng mua nhà ở đã hình thành và
đã sử dụng nhưng chưa hoàn tất thủ tục
chuyển quyền sở hữu thì đối với chủ thể này,
đây không phải là dạng nhà ở hình thành
trong tương lai. Và nếu chủ thể mua nhà
muốn thế chấp thì trong trường hợp này chỉ
có thể thế chấp quyền tài sản phát sinh từ
hợp đồng.
2.1.3 Tạo được sự thống nhất giữa văn
bản hướng dẫn trong đăng ký thế chấp nhà
ở hình thành trong tương lai và luật chuyên
ngành
Khoản 2 Điều 320 BLDS năm 2005 quy
định cho phép mua bán, thế chấp tài sản
hình thành trong tương lai10. Đến năm 2010,
Chính phủ ban hành Nghị định số
71/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật Nhà ở năm 2005, tại
khoản 2 Điều 61 quy định “tổ chức cá nhân
mua nhà ở hình thành trong tương lai của
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản được
quyền thế chấp nhà ở tại tổ chức tín dụng để
vay vốn”, sau đó là Thông tư liên tịch số
01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT
đã xác định nhà ở hình thành trong tương lai
tại thời điểm xác lập hợp đồng thế chấp là
nhà ở “chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài
sản khác gắn liền với đất”. Trong khi đó, tại
điểm a khoản 1 Điều 91 Luật Nhà ở năm
2005 là luật chuyên ngành có quy định một
trong các điều kiện để thực hiện giao dịch
về nhà ở, trong đó có thế chấp về nhà ở là
cá nhân, tổ chức phải “có giấy chứng nhận
về nhà ở theo quy định của pháp luật”. Như
vậy, không thể thực hiện thủ tục thế chấp
nhà ở hình thành trong tương lai theo Luật
Nhà ở 2005. Do vậy, trong thực tiễn thế chấp
liên quan đến nhà ở, tổ chức, cá nhân, chủ
dự án hoặc người mua nhà thế chấp nhà của
dự án hình thành trong tương lai dưới dạng
thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp
đồng. Điều này cho thấy sự thiếu nhất quán
giữa các văn bản luật, giữa văn bản luật và
văn bản dưới luật khiến cho quy định thế
chấp nhà ở hình thành trong tương lai không
thể thực hiện trong thực tiễn với tư cách nhà
ở hình thành trong tương lai là đối tượng
trực tiếp của hợp đồng thế chấp. Vấn đề này
đã được giải quyết khi Quốc hội ban hành
Luật Nhà ở năm 2014 với việc bổ sung định
nghĩa và điều kiện giao dịch về nhà ở hình
thành trong tương lai, theo đó nhà ở hình
thành trong tương lai được mua bán, thế
chấp và không yêu cầu giấy chứng nhận
quyền sở hữu. Quy định này đã góp phần tạo
được sự thống nhất giữa Luật Nhà ở và văn
bản hướng dẫn thi hành, góp phần giải quyết
được sự vướng mắc cả lý luận và thực tiễn
áp dụng văn bản pháp luật.
2.2 Một số vấn đề vướng mắc phát sinh
trong áp dụng
2.2.1 Vấn đề đăng ký thế chấp nhà ở
hình thành trong tương lai
Thứ nhất, có sự thiếu nhất quán về thủ
tục đăng ký thế chấp nhà ở hình thành trong
tương lai.
Thực tiễn lại tiếp tục đặt ra vấn đề mới,
hiện nay bên cạnh Thông tư liên tịch số
56
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 19(323) T10/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
11 Thông tư số 05/2011/TT-BTP ngày 16/02/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông
tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện,
fax, thư điện tử tại trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp
được sửa đổi bởi Thông tư số 08/2014/TT-BTP ngày 26/02/2014 của Bộ Tư pháp.
12 Xem Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT.
13 Xem khoản 6 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT có quy định “Trường hợp Nhà ở hình
thành trong tương lai đang được thế chấp theo hình thức thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở
hình thành trong tương lai thì không được tiếp tục thế chấp nhà ở đó tại tổ chức tín dụng theo quy định tại Thông tư này.
Trường hợp nhà ở hình thành trong tương lai đang được thế chấp theo quy định tại Thông tư này thì không được tiếp
tục thế chấp theo hình thức thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở đó”.
14 Theo khoản 2 Điều 148 Luật Nhà ở hiện hành thì “Việc thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình
thành trong tương lai chỉ được thực hiện theo quy định tại Luật này; các trường hợp thế chấp tài sản là dự án đầu tư xây
dựng nhà ở hoặc nhà ở hình thành trong tương lai không đúng với quy định tại Luật này thì không có giá trị pháp lý”.
15 Tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT.
16 Xem thêm Bùi Đức Giang, Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai... vẫn đợi,
121966/The-chap-nha-o-hinh-thanh-trong-tuong-lai-van-doi.html, truy cập ngày 10/8/2015.
17 Luật Nhà ở còn có thể yêu cầu điều kiện nhiều hơn, chẳng hạn giấy tờ chứng minh nhà ở đã giải chấp đối với nhà ở nằm
trong dự án đầu tư đã thế chấp.
01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT,
Thông tư số 05/2011/TT-BTP do Bộ Tư
pháp ban hành ngày 16/02/2011 được sửa
đổi, bổ sung năm 2014 (Thông tư 05)11 đồng
thời đang có hiệu lực. Tuy nhiên, thủ tục
đăng ký thế chấp tài sản là nhà ở hình thành
trong tương lai là khác nhau. Thông tư liên
tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-
BTNMT cũng quy định rõ là không điều
chỉnh giao dịch thế chấp quyền tài sản phát
sinh từ nhà ở hình thành trong tương lai và
cũng không phủ nhận sự tồn tại của loại giao
dịch này12 và có thể nói đã gián tiếp thừa
nhận sự tồn tại đồng thời này13. Do vậy, theo
quy định hiện hành thì người muốn thế chấp
nhà có thể chọn một trong hai cách trên để
thế chấp. Theo đó, với quy định trên người
thế chấp có thể lựa chọn phương án thế chấp
nhà ở hình thành trong tương lai theo dạng
quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, dẫn đến
không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh và
kiểm soát về thế chấp nhà ở, trong khi đó,
nhà ở hình thành trong tương lai chính là đối
tượng thế chấp theo quy định mới. Luật Nhà
ở hiện hành cũng có quy định về áp dụng
luật nhưng chưa thật sự rõ ràng và việc thế
chấp theo hướng quyền tài sản cũng không
thể cho là trái luật, với lập luận trường hợp
này là thế chấp quyền tài sản mà không phải
là thế chấp nhà ở14.
Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-
NHNN-BXD-BTP-BTNMT đã yêu cầu khá
nhiều điều kiện đối với đối tượng nhà ở
được thế chấp15. Điều này đã khiến cho bên
thế chấp cũng gặp khó khăn trong việc đáp
ứng yêu cầu trong hồ sơ thế chấp16. Mặc dù,
trong kinh doanh, tài sản thế chấp vốn luôn
có nguy cơ rủi ro về mặt thương mại. Tuy
nhiên, chúng tôi cho rằng, xuất phát từ việc
hạn chế rủi ro trong việc thế chấp nhà ở hình
thành trong tương lai, tính toán đến khả
năng xử lý tài sản thế chấp thì việc đưa ra
những điều kiện xác định nhà ở hình thành
trong tương lai là đối tượng của hợp đồng
thế chấp là nhà ở chắc chắn sẽ hình thành là
cần thiết, bởi đây là tài sản tiềm ẩn nhiều rủi
ro hơn so với các loại tài sản đã hiện hữu.
Quy định này của Thông tư liên tịch số
01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT
về những điều kiện thế chấp cũng phù hợp
với Điều 148 Luật Nhà ở năm 201417.
Theo chúng tôi, trong các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở liên quan
đến vấn đề thế chấp nhà ở hình thành trong
tương lai, cần quy định các nội dung sau:
57
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 19(323) T10/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
18 Xem điểm a khoản 2 Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT.
19 Xem Điều 6, Điều 7, Điều 12, Điều 19 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT quy định về hồ sơ thế
chấp, hồ sơ công chứng và hồ sơ đăng ký thế chấp.
Một là, quy định cụ thể hơn nữa nghĩa
vụ của nhà đầu tư trong hỗ trợ người mua
nhà cung cấp giấy tờ liên quan trong việc thế
chấp nhà ở. Có thể thấy, Thông tư liên tịch
số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-
BTNMT cũng đã có những quy định về
nghĩa vụ này của doanh nghiệp kinh doanh
bất động sản (nhà đầu tư) có nhà ở hình
thành trong tương lai bán cho tổ chức, cá
nhân được dùng để thế chấp vay vốn tại tổ
chức tín dụng18. Tuy nhiên, có lẽ chưa có cơ
chế hay chế tài ràng buộc nên nhà đầu tư
chưa hết lòng hỗ trợ người mua nhà trong
việc cung cấp giấy tờ phục vụ cho việc thế
chấp nhà ở tại NHTM. Bởi lẽ, việc nhà đầu
tư chuẩn bị sẵn những bản giấy tờ có công
chứng19 là điều không hề khó khăn, không
nhất thiết phải đưa bản gốc cho người mua
nhà thực hiện công chứng.
Hai là, cần phải khẳng định rõ các giao
dịch về thế chấp nhà ở hình thành trong
tương lai phải được thực hiện theo quy định
mới, tức là nhà ở hình thành trong tương lai
là đối tượng thật sự của hợp đồng thế chấp,
không được thế chấp nhà ở hình thành trong
tương lai dưới dạng quyền tài sản phát sinh
từ hợp đồng theo Thông tư 05. Từ đó tạo hẳn
một cơ chế pháp lý riêng đối với loại tài sản
này, tránh nhập nhằng như hiện nay. Điều
này cũng phù hợp với tinh thần của khoản 2
Điều 148 Luật Nhà ở năm 2014.
Thứ hai, chưa có hướng cụ thể xử lý hậu
quả vấn đề một tài sản là nhà ở hình thành
trong tương lai bị thế chấp nhiều lần
Trên thực tế thời gian qua, chủ đầu tư
có thể sử dụng dự án đang xây dựng để thế
chấp vay vốn tại ngân hàng, còn khách hàng,
sau khi ký hợp đồng mua căn hộ thuộc công
trình trên, có thể đem thế chấp căn hộ để vay
tiền ngân hàng trả tiền mua căn hộ. Điều này
dẫn đến tình trạng mâu thuẫn lợi ích trong
trường hợp ngân hàng cần xử lý tài sản thế
chấp.
Để tránh trường hợp một tài sản thế
chấp nhiều lần bởi chính chủ đầu tư dự án,
nên trong quy định về điều kiện thế chấp tài
sản tại Điều 148 Luật Nhà ở năm 2014, Luật
chỉ cho phép chủ đầu tư thế chấp nhà ở hình
thành trong tương lai trong dự án đầu tư
không nằm trong phần dự án mà chủ đầu tư
đã thế chấp. Đồng thời, đối với người mua
nhà của chủ đầu tư muốn thế chấp nhà ở đã
mua phải thỏa mãn điều kiện không nằm
trong phần dự án hoặc toàn bộ dự án mà chủ
đầu tư đã thế chấp.
Quy định như vậy có thể sẽ góp phần
ngăn chặn hiện tượng một tài sản bị đem thế
chấp nhiều lần. Tuy nhiên, hệ quả còn lại
trong thực tiễn thế chấp nhà ở hình thành
trong tương lai trong thời gian qua vẫn còn
chưa khắc phục được, chưa có hướng dẫn
cách xử lý, đồng thời những tài sản được thế
chấp nhiều lần có khả năng gặp khó khăn
khi xử lý tài sản bảo đảm. Như đã nêu, phổ
biến là trường hợp tài sản thế chấp là một dự
án tổng thể thuộc sở hữu của chủ đầu tư bất
động sản, trong đó có tài sản thế chấp là căn
hộ, nhà ở cụ thể do cá nhân mua. Do vậy,
trong văn bản hướng dẫn cần quy định cần
làm rõ cách thức xử lý và trình tự ưu tiên
trong xử lý tài sản thế chấp giữa ngân hàng
của chủ đầu tư và ngân hàng của cá nhân
người mua nhà để tránh nhập nhằng, mâu
thuẫn đối với giao dịch đã xác lập trước
ngày Luật này có hiệu lực.
2.2.2 Vấn đề đăng ký chuyển đổi thế
chấp nhà ở hình thành trong tương lai sau
khi nhà ở hoàn thành
Điều 16 Thông tư liên tịch số
01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT
có quy định, các bên trong quan hệ thế chấp
nhà ở hình thành trong tương lai dưới dạng
58
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 19(323) T10/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
tài sản phát sinh từ hợp đồng hoặc thế chấp
trực tiếp nhà ở hình thành trong tương lai có
thể yêu cầu Văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất thực hiện việc đăng ký chuyển tiếp
trước khi trao Giấy chứng nhận cho chủ sở
hữu nhà ở đã hình thành.
Khoản 8 Điều 4 Thông tư liên tịch số
01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-BTNMT
quy định, trước khi thực hiện thủ tục cấp
Giấy chứng nhận, các bên có thể thỏa thuận
sửa đổi, bổ sung nội dung hợp đồng thế chấp
đã ký hoặc ký hợp đồng thế chấp mới. Điều
này cũng không có gì khác biệt so với quy
định chung của pháp luật dân sự. Nguyên
tắc chung trong giao dịch dân sự là các bên
hoàn toàn có thể điều chỉnh, sửa đổi hợp
đồng khi họ muốn (tất nhiên không được
gây thiệt hại cho lợi ích của người thứ ba).
Tuy nhiên, vấn đề ở đây là khi cơ quan nhà
nước cấp giấy chứng nhận nhà ở đã hình
thành, tức có những thông tin mới liên quan
đến tài sản thế chấp thì điều này tất yếu dẫn
đến nhu cầu điều chỉnh, nhưng việc này các
bên không thể thực hiện được khi chưa có
Giấy chứng nhận. Do vậy, quy định này
không có ý nghĩa trong thực tiễn.
Thời gian qua, để hạn chế rủi ro cho
mình, các NHTM thường ký hợp đồng ba
bên là ngân hàng, nhà đầu tư và người thế
chấp là người mua nhà của nhà đầu tư, theo
đó thỏa thuận: khi nhận Giấy chứng nhận thì
nhà đầu tư có nghĩa vụ chuyển cho ngân
hàng để bổ sung hồ sơ, thay vì giao cho
người mua nhà. Sau khi có Giấy chứng
nhận, ngân hàng chỉ ký bản bổ sung hay ký
lại hợp đồng thế chấp để đưa vào đó các
thông tin chính xác về nhà ở hình thành
trong tương lai đã hình thành nhằm tránh các
xung đột về thứ tự ưu tiên với các bên thứ
ba. Điều đó cho thấy, pháp luật vẫn còn
thiếu những quy định trong điều chỉnh vấn
đề này. Pháp luật cần quy định nghĩa vụ, chế
tài cụ thể đối với chủ đầu tư về việc hỗ trợ
ngân hàng hoàn thành hồ sơ thế chấp nhà ở
khi nhà ở đã hình thành, nhằm bảo vệ lợi ích
chính đáng của bên nhận thế chấp.
Ngoài ra, không có một quy định nào
trong Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-
NHNN-BXD-BTP-BTNMT quy định Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất phải ghi
nội dung gì trên Giấy chứng nhận khi thực
hiện thủ tục đăng ký chuyển tiếp. Điều này
dẫn tới một thực tế là một số Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất vẫn từ chối hồ
sơ đăng ký chuyển tiếp trong khi đợi hướng
dẫn20. Với quy định và thực tiễn này cho
thấy, việc chuyển tiếp đăng ký gặp khó
khăn. Để thuận lợi cho ngân hàng và bên thế
chấp, pháp luật cần có những quy định cụ
thể về nghĩa vụ của chủ đầu tư trong việc
phối hợp, hỗ trợ bên thế chấp (mua nhà) và
ngân hàng thực hiện thủ tục chuyển tiếp
đăng ký thế chấp. Một giải pháp khác có thể
lựa chọn: nhà ở được hình thành đương
nhiên là tài sản thế chấp21; do vậy, thay vì
quy định đăng ký chuyển tiếp, vẫn có thể
quy định khi cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở, cơ quan cấp Giấy phải ghi nội
dung thế chấp này. Tất nhiên, khi đó cũng
không cần ký hợp đồng mới, đăng ký giao
dịch bảo đảm mới hoặc sửa đổi, bổ sung hợp
đồng, giao dịch bảo đảm đã ký hoặc đăng
ký, trừ trường hợp các bên có nhu cầu sửa
đổi, bổ sung theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, để bảo đảm có sự thống nhất trong
quản lý, các cơ quan có thẩm quyền cần
nhanh chóng ban hành mẫu chung thống
nhất trong việc chuyển đổi này n
20 Xem thêm: Bùi Đức Giang, Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai... vẫn đợi,
The-chap-nha-o-hinh-thanh-trong-tuong-lai-van-doi.html, truy cập ngày 10/8/2015.
21 Xem thêm: Phạm Thu Giang, Nguyễn Ngọc Lương, Thực thi pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng
của các NHTM - một số vướng mặt pháp lý và đề xuất hướng hoàn thiện, Tạp chí Luật học, số 10, năm 2011, tr. 53.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_phap_ly_ve_the_chap_nha_o_hinh_thanh_trong_tuo.pdf