Có thể thấy, dù áp dụng căn cứ nào
thì trong trường hợp người khởi kiện
khởi kiện vụ án hành chính tại tòa khi đơn
khiếu nại đã được cơ quan có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại thụ lý và đang trong
thời hạn giải quyết khiếu nại theo luật
định thì đều thuộc trường hợp trả lại đơn
khởi kiện theo Điều 123 Luật TTHC. Tuy
nhiên, nhận thức căn cứ trả lại đơn khởi
kiện vụ án hành chính trong trường hợp
này chưa thống nhất do vẫn còn các quy
định chồng chéo, dẫn đến việc áp dụng
pháp luật trong hoạt động tố tụng hành
chính cũng như hoạt động kiểm sát việc
giải quyết của VKSND không thống nhất,
ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ
án hành chính nói chung.
Từ thực tiễn hoạt động giải quyết
vụ án hành chính, để đảm bảo tính khoa
học, khả thi và thống nhất trong việc áp
dụng pháp luật tố tụng hành chính, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cần tiếp
tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật tố
tụng hành chính nói chung, quy định về
trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính nói
riêng nhằm làm rõ quy định về “điều kiện
khởi kiện vụ án hành chính”, về quyền
khởi kiện vụ án hành chính. Trên cơ sở
đó, đảm bảo việc nhận thức và áp dụng
được thống nhất, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 264 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về hoạt động kiểm sát việc xử lý đơn khởi kiện vụ án hành chính trong trường hợp vừa có đơn khởi kiện vừa có đơn khiếu nại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
33Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ THẾ
Số chuyên đề 2 - 2019
Khi cho rằng quyết định, hành vi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan Nhà nước xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, cá
nhân, cơ quan, tổ chức có thể gửi đơn
khởi kiện vụ án hành chính theo trình
tự luật định để yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình theo quy định của pháp luật tố tụng
hành chính.
Sau khi nhận đơn khởi kiện vụ án
hành chính của người khởi kiện, Chánh
án Tòa án đã nhận đơn phân công thẩm
phán xem xét đơn khởi kiện, trong thời
hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được
phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn
khởi kiện và có một trong các quyết định
sau đây: Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn
khởi kiện; tiến hành thủ tục thụ lý vụ án
theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ
tục rút gọn; chuyển đơn khởi kiện cho
Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho
người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án khác; trả lại
đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Một
trong những vấn đề còn nhiều lúng túng
trong hoạt động xử lý đơn khởi kiện vụ
án hành chính dẫn đến việc áp dụng pháp
luật còn chưa thống nhất trong thực tiễn,
đó là việc xử lý đơn khởi kiện vụ án hành
chính trong trường hợp người khởi kiện
vừa có đơn khởi kiện vụ án hành chính,
vừa có đơn khiếu nại đến cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC XỬ LÝ
ĐƠN KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TRONG TRƯỜNG HỢP
VỪA CÓ ĐƠN KHỞI KIỆN VỪA CÓ ĐƠN KHIẾU NẠI
NGUYỄN THỊ THẾ*
* Thạc sĩ, Phó Trưởng khoa Pháp luật dân sự và
Kiểm sát dân sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
Xử lý đơn khởi kiện vụ án hành chính là hoạt động của Tòa án nhân dân
sau khi đã nhận đơn khởi kiện vụ án hành chính của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào việc xử lý đơn khởi kiện của Tòa án
cũng chính xác, đặc biệt là việc xử lý đơn trong trường hợp vừa có đơn khởi
kiện, vừa có đơn khiếu nại. Kiểm sát viên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ
cần nhận thức đầy đủ, chính xác nhằm đảm bảo việc xử lý đơn khởi kiện của
Tòa án đúng căn cứ pháp luật.
Từ khóa: Vụ án hành chính, khởi kiện vụ án hành chính, xử lý đơn khởi
kiện hành chính, Kiểm sát viên.
After receiving administrative cases lawsuit petitions of individuals and
authorities, the Court has to settle lawsuit petitions of administrative cases.
However, not all lawsuit petitions settlements are correct, especially in case
both complaint and lawsuit petitions are filed. When performing their duties,
Prosecutors need to have fully awareness to ensure the legality of the Court’s
lawsuit petitions settlements.
Keywords: Administrative cases, suing administrative cases, lawsuit
petitions settlement of administrative cases, Prosecutors.
34
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC XỬ LÝ ĐƠN...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
Theo quy định tại Điều 33 Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 (Luật TTHC
năm 2015): Trường hợp người khởi kiện có
đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án
có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại
đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại thì Tòa án phải yêu cầu người khởi kiện
lựa chọn cơ quan giải quyết và có văn bản
thông báo cho Tòa án. Trường hợp người
khởi kiện không thể tự mình làm văn bản
thì đề nghị Tòa án lập biên bản về việc lựa
chọn cơ quan giải quyết. Tùy từng trường
hợp cụ thể, Tòa án xử lý như sau:
a) Trường hợp người khởi kiện lựa
chọn Tòa án giải quyết thì Tòa án thụ lý giải
quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời
thông báo cho người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại và yêu cầu người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại chuyển toàn bộ
hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Tòa án.
b) Trường hợp người khởi kiện lựa
chọn người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại giải quyết thì Tòa án căn cứ
vào quy định tại điểm e khoản 1 Điều 123
Luật TTHC năm 2015 để trả lại đơn khởi
kiện và các tài liệu kèm theo cho người
khởi kiện.
Trường hợp hết thời hạn giải quyết
khiếu nại mà khiếu nại không được giải
quyết hoặc đã được giải quyết nhưng
người khiếu nại không đồng ý với việc
giải quyết khiếu nại và có đơn khởi kiện
vụ án hành chính thì Tòa án xem xét để
tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
Như vậy, về nguyên tắc, khi không
đồng ý với quyết định hành chính, hành
vi hành chính của cơ quan nhà nước hoặc
người có thẩm quyền thì cá nhân, cơ quan,
tổ chức có quyền lựa chọn cơ chế bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp theo quy định của
pháp luật bằng một trong các hình thức:
Khiếu nại hành chính hoặc khởi kiện hành
chính. Thực tiễn công tác kiểm sát việc giải
quyết vụ án hành chính cho thấy, do nhiều
lý do khác nhau, đương sự thực hiện cả
hai hình thức - vừa khởi kiện, vừa khiếu
nại. Trong trường hợp này, việc xác định
cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết sẽ
thuộc quyền lựa chọn của đương sự. Theo
đó, khi thuộc trường hợp này, có thể dẫn
đến hai kết quả xử lý: hoặc Tòa án thụ lý để
giải quyết theo thủ tục chung hoặc trả lại
đơn khởi kiện vụ án hành chính. Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra là có phải trong mọi trường
hợp, đương sự vừa có đơn khởi kiện tại
Tòa án, vừa có đơn khiếu nại tại cơ quan có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì Tòa án
đều có thể áp dụng Điều 33 để đương sự
lựa chọn cơ quan giải quyết không? Việc áp
dụng được thực hiện như thế nào? Nhằm
đảm bảo việc áp dụng thống nhất và nâng
cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải
quyết vụ án hành chính nói chung, kiểm
sát việc xử lý đơn khởi kiện vụ án hành
chính nói riêng, khi kiểm sát việc xử lý đơn
khởi kiện trong trường hợp vừa có đơn
khởi kiện, vừa có đơn khiếu nại, VKSND
cần làm rõ các nội dung sau:
1. Trường hợp Tòa án áp dụng Điều
33 Luật TTHC năm 2015 để đương sự lựa
chọn cơ quan giải quyết
Thực tiễn công tác kiểm sát việc giải
quyết vụ án hành chính cho thấy, trường
hợp đương sự vừa gửi đơn khởi kiện tại
Tòa án, vừa gửi đơn khiếu nại hành chính
tại cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại thì Tòa án sẽ áp dụng Điều 33
Luật TTHC năm 2015 để người khởi kiện
lựa chọn cơ quan giải quyết; nếu người
khởi kiện Tòa án thì Tòa án sẽ thực hiện
các thủ tục để thụ lý giải quyết theo thủ
tục chung. Trường hợp người khởi kiện
lựa chọn giải quyết bằng con đường
35Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ THẾ
Số chuyên đề 2 - 2019
khiếu nại hành chính thì Tòa án sẽ trả lại
đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Việc
nhận thức và áp dụng quy định tại Điều
33 Luật TTHC năm 2015 của Tòa án không
phải lúc nào cũng chính xác, thể hiện qua
2 tình huống sau đây:
Tình huống 1: Ngày 15/5/2019, ông
Nguyễn Văn An nhận được Quyết định
thu hồi đất số 05/QĐ - UBND của Ủy ban
nhân dân (UBND) huyện A, tỉnh H về việc
thu hồi 25m2 đất thổ cư để thực hiện dự
án mở rộng đường quốc lộ. Không đồng ý
với Quyết định số 05/QĐ - UBND nói trên,
ngày 20/5/2019 ông An đã gửi đơn khiếu
nại đến UBND huyện A, tỉnh H để yêu cầu
xem xét giải quyết. Đến ngày 25/5/2019,
ông An tiếp tục gửi đơn khởi kiện vụ án
hành chính tại Tòa án nhân dân (TAND)
tỉnh H yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số
05/QĐ - UBND nói trên. Sau khi được ông
An cho biết ngoài việc ông gửi đơn khởi
kiện vụ án hành chính, ông cũng gửi đơn
khiếu nại tại UBND huyện A tỉnh H để
yêu cầu giải quyết khiếu nại, TAND tỉnh
H đã giải thích quyền cho ông An biết và
áp dụng Điều 33 Luật TTHC năm 2015 để
ông An lựa chọn cơ quan giải quyết.
Tình huống 2: Ngày 15/5/2019, ông
Nguyễn Văn An nhận được Quyết định
thu hồi đất số 05/QĐ - UBND của Ủy
ban nhân dân (UBND) huyện A, tỉnh H
về việc thu hồi 25m2 đất thổ cư để thực
hiện dự án mở rộng đường quốc lộ.
Không đồng ý với Quyết định số 05/QĐ
- UBND nói trên, ngày 20/5/2019 ông An
đã gửi đơn khiếu nại đến UBND huyện
A, tỉnh H để yêu cầu xem xét giải quyết.
Ngày 28/5/2019, UBND huyện A đã thụ lý
khiếu nại và thông báo cho ông An được
biết. Ngày 25/6/2019, ông An chưa nhận
được bất kỳ văn bản giải quyết khiếu nại
nào nên ông đã gửi đơn khởi kiện vụ án
hành chính tại TAND tỉnh H yêu cầu Tòa
án hủy Quyết định số 05/QĐ - UBND nói
trên. TAND tỉnh H đã giải thích quyền
cho ông An biết và áp dụng Điều 33 Luật
TTHC năm 2015 để ông An lựa chọn cơ
quan giải quyết.
Như vậy, với nội dung vụ việc tại hai
tình huống trên, có quan điểm cho rằng,
Tòa án quy định tại Điều 33 Luật TTHC
năm 2015 để đương sự lựa chọn cơ quan
giải quyết là đúng căn cứ, bởi lẽ rõ ràng
trong cả hai trường hợp, người khởi kiện
khi khởi kiện đến Tòa án đều đã gửi đơn
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại. Tuy nhiên, việc nhận thức
và áp dụng căn cứ pháp luật như nhau để
xử lý đơn khởi kiện trong cả hai trường
hợp trên của Tòa án chưa chính xác. Việc
áp dụng Điều 33 Luật TTHC năm 2015
để đương sự lựa chọn cơ quan có thẩm
quyền giải quyết chỉ đúng trong tình
huống 1, còn trong tình huống 2 không
thuộc trường hợp quy định tại Điều 33
của Luật TTHC. Bởi lẽ, theo quy định tại
khoản 1 Điều 33 Luật TTHC: Trường hợp
người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành
chính tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có
đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại thì Tòa án phải yêu cầu người
khởi kiện lựa chọn cơ quan giải quyết và có
văn bản thông báo cho Tòa án. Như vậy, Tòa
án chỉ áp dụng khoản 1 Điều 33 khi người
khởi kiện “đồng thời” có đơn khởi kiện
vụ án hành chính tại Tòa án và đơn khiếu
nại đến người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại.
Theo Từ điển Tiếng Việt, đồng thời
có nghĩa là xảy ra cùng một lúc1, hành
vi, hoạt động được thực hiện cùng một
thời điểm; trong thực tiễn đời sống nói
1 Từ điển Tiếng Việt – NXB Hồng Đức
36
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC XỬ LÝ ĐƠN...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
chung, hoạt động tố tụng hành chính nói
riêng, khái niệm “đồng thời” thường chỉ
được áp dụng ở mức tương đối, VKSND
(cụ thể là Kiểm sát viên, Kiểm tra viên) khi
kiểm sát nội dung này cần xác định khi
nào hoạt động vừa có đơn khởi kiện vừa
có đơn khiếu nại được coi là đồng thời.
Đối với trường hợp nêu tại tình huống 2,
người khởi kiện gửi đơn khởi kiện vụ án
hành chính tại Tòa án khi đơn khiếu nại
đã được người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại thụ lý và đang trong quá trình
giải quyết, chưa hết thời hạn giải quyết
khiếu nại theo quy định của Luật khiếu
nại2, vì vậy người khởi kiện chưa được
quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu
cầu Tòa án giải quyết theo quy định của
Luật TTHC năm 2015, đương sự chỉ được
quyền khởi kiện vụ án hành chính khi đã
hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà khiếu
nại không được giải quyết hoặc đã được
giải quyết nhưng không đồng ý với quyết
định giải quyết khiếu nại đó3. Vì vậy,
trong trường hợp này, Tòa án đã áp dụng
Điều 33 Luật TTHC năm 2015 để đương
sự lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải
quyết là chưa chính xác vì không đảm bảo
tính “đồng thời” và không phù hợp với
quy định của Luật Khiếu nại về trình tự,
thủ tục giải quyết khiếu nại. Bởi lẽ, trường
hợp người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại đang giải quyết khiếu nại và
trong thời hạn giải quyết khiếu nại, chỉ khi
người khiếu nại rút khiếu nại thì người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại mới dừng
việc giải quyết khiếu nại, trong tình huống
trên nếu đương sự lựa chọn cơ quan Tòa
án giải quyết thì “Tòa án thụ lý giải quyết
vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo
2 Điều 28 Luật Khiếu nại năm 2011
3 Khoản 2 Điều 115 - Luật TTHC năm 2015
cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
và yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết
khiếu nại cho Tòa án”4 lại không phù hợp
với quy định của Luật Khiếu nại.
Vì vậy, đương sự được quyền lựa
chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết
trong trường hợp vừa có đơn khởi kiện
vụ án hành chính, đồng thời vừa có đơn
khiếu nại chỉ được áp dụng trong trường
hợp người khởi kiện đã gửi đơn khiếu
nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại nhưng khiếu nại chưa được thụ
lý (đang trong thời gian xử lý đơn khiếu
nại) mà gửi đơn khởi kiện vụ án hành chính
đến Tòa án có thẩm quyền. Trường hợp
đơn khiếu nại đã được thụ lý và đang trong
thời hạn giải quyết khiếu nại mà người
khởi kiện gửi đơn khởi kiện vụ án hành
chính, Tòa án áp dụng Điều 33 Luật TTHC
năm 2015 để người khởi kiện lựa chọn cơ
quan giải quyết, VKSND cần yêu cầu Tòa
án khắc phục vi phạm nhằm đảm bảo tính
phù hợp giữa các quy định của Luật TTHC
với các quy định khác của Luật Khiếu nại
hay các văn bản pháp luật liên quan.
2. Áp dụng quy định của pháp luật để
xử lý đơn khởi kiện trong trường hợp vừa
có đơn khởi kiện, vừa có đơn khiếu nại
Như nội dung trên đã trình bày, khi
người khởi kiện gửi đơn khởi kiện vụ án
hành chính tại Tòa án và đã có đơn khiếu
nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tùy từng trường hợp việc xử lý
đơn khởi kiện vụ án hành chính của Tòa
án khác nhau, thể hiện các trường hợp sau:
- Trường hợp đơn khiếu nại chưa
được cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại thụ lý. Tòa án áp dụng Điều 33
Luật TTHC năm 2015 để đương sự lựa
4 Điểm a khoản 1 Điều 33 Luật TTHC năm 2015
37Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ THẾ
Số chuyên đề 2 - 2019
chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Trường hợp người khởi kiện không thể
tự mình làm văn bản thì đề nghị Tòa án
lập biên bản về việc lựa chọn cơ quan giải
quyết. Tùy từng trường hợp cụ thể Tòa án
xử lý như sau:
“a) Trường hợp người khởi kiện lựa chọn
Tòa án giải quyết thì Tòa án thụ lý giải quyết
vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo
cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
và yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết
khiếu nại cho Tòa án;
b) Trường hợp người khởi kiện lựa chọn
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải
quyết thì Tòa án căn cứ vào quy định tại điểm
e khoản 1 Điều 123 Luật TTHC trả lại đơn
khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người
khởi kiện”5.
- Trường hợp đơn khiếu nại đã được
cơ quan có thẩm quyền giải quyết thụ lý,
đang trong thời hạn giải quyết khiếu nại
mà gửi đơn khởi kiện vụ án hành chính
tại Tòa án: Trường hợp này, Tòa án phải
trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính cho
người khởi kiện theo quy định tại Điều
123 Luật TTHC năm 2015. Tuy nhiên,
Tòa án cần áp dụng căn cứ nào để trả lại
đơn khởi kiện? Theo quy định tại khoản
1 Điều 123 Luật TTHC năm 2015, Thẩm
phán trả lại đơn khởi kiện trong những
trường hợp sau đây:
“a) Người khởi kiện không có quyền khởi
kiện;
b) Người khởi kiện không có năng lực
hành vi tố tụng hành chính đầy đủ;
c) Trường hợp pháp luật có quy định về
điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã
khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong
các điều kiện đó;
5 Điều 33 Luật TTHC năm 2015
d) Sự việc đã được giải quyết bằng bản
án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật;
đ) Sự việc không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án;
e) Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ
việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong
trường hợp quy định tại Điều 33 của Luật này;
g
h”.
Hiện nay, liên quan đến nội dung này,
có hai quan điểm khác nhau về xác định
căn cứ trả lại đơn khởi kiện, cụ thể:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Cần áp
dụng điểm a khoản 1 Điều 123 “người
khởi kiện không có quyền khởi kiện” để
trả lại đơn khởi kiện cho đương sự; bởi lẽ,
theo quy định tại khoản 1 Điều 115 Luật
TTHC năm 2015 về “quyền khởi kiện vụ
án hành chính”: Cơ quan, tổ chức, cá nhân
có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính,
quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong
trường hợp không đồng ý với quyết định,
hành vi đó hoặc đã khiếu nại với người
có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời
hạn giải quyết theo quy định của pháp
luật mà khiếu nại không được giải quyết
hoặc đã được giải quyết nhưng không
đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về
quyết định, hành vi đó. Như vậy, trong
trường hợp này, người khởi kiện chỉ có
quyền khởi kiện vụ án hành chính khi
đã hết thời hạn giải quyết theo quy định của
pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết
hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng
ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định,
hành vi đó. Điều này có nghĩa trường hợp
chưa hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà
khởi kiện vụ án hành chính thì đương
sự không có quyền khởi kiện vụ án theo
38
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC XỬ LÝ ĐƠN...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
khoản 1 Điều 115 Luật TTHC năm 2015.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: Tòa án cần
áp dụng điểm c khoản 1 Điều 123 Luật
TTHC năm 2015 “trường hợp pháp luật
có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng
người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án
khi còn thiếu một trong các điều kiện đó”
để trả lại đơn khởi kiện cho người khởi
kiện; bởi lẽ hiện nay chưa có văn bản dưới
luật nào quy định cụ thể thế nào là “điều
kiện khởi kiện” để hướng dẫn áp dụng
điểm c khoản 1 Điều 123 Luật TTHC. Hơn
nữa, mặc dù tên Điều 115 Luật TTHC là
“quyền khởi kiện vụ án” nhưng nội dung
dường như chứa đựng những quy định về
“điều kiện” để người khởi kiện có quyền
khởi kiện hay được hiểu như chứa đựng
quy định mang tính “tiền đề”, ví dụ như:
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi
kiện vụ án khi hoặc đã khiếu nại với
người có thẩm quyền giải quyết, nhưng
hết thời hạn giải quyết theo quy định của
pháp luật mà khiếu nại không được giải
quyết Như vậy, có thể hiểu hết thời hạn
giải quyết khiếu nại mà khiếu nại không
được giải quyết là một trong những điều
kiện để người khởi kiện có quyền khởi
kiện vụ án hành chính tại Tòa án.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ
nhất, trong trường hợp này, Tòa án đã
nhận đơn khởi kiện cần áp dụng quy định
tại Điều 123 Luật TTHC năm 2015 để trả
lại đơn khởi kiện, căn cứ trả lại đơn khởi
kiện do “người khởi kiện không có quyền
khởi kiện” theo điểm a khoản 1 Điều 123,
bởi lẽ: theo quy định tại khoản 1 Điều 115
Luật TTHC năm 2015, đối với quyết định
hành chính, hành vi hành chính, quyết
định kỷ luật buộc thôi việc, trường hợp
không đồng ý với quyết định, hành vi đó,
người khởi kiện có quyền khởi kiện vụ
án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền
ngay hoặc thực hiện quyền khiếu nại theo
quy định của Luật khiếu nại. Nếu người
khởi kiện đã lựa chọn thủ tục khiếu nại
thì chỉ được quyền khởi kiện trong các
trường hợp sau: 1. Khi đã hết thời hạn giải
quyết khiếu nại mà khiếu nại không được
giải quyết; 2. Khiếu nại đã được giải quyết
nhưng không đồng ý với kết quả giải
quyết khiếu nại đó. Do đó, trong trường
hợp này, điều luật điều chỉnh trực tiếp
được áp dụng sẽ đảm bảo tính phù hợp.
Có thể thấy, dù áp dụng căn cứ nào
thì trong trường hợp người khởi kiện
khởi kiện vụ án hành chính tại tòa khi đơn
khiếu nại đã được cơ quan có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại thụ lý và đang trong
thời hạn giải quyết khiếu nại theo luật
định thì đều thuộc trường hợp trả lại đơn
khởi kiện theo Điều 123 Luật TTHC. Tuy
nhiên, nhận thức căn cứ trả lại đơn khởi
kiện vụ án hành chính trong trường hợp
này chưa thống nhất do vẫn còn các quy
định chồng chéo, dẫn đến việc áp dụng
pháp luật trong hoạt động tố tụng hành
chính cũng như hoạt động kiểm sát việc
giải quyết của VKSND không thống nhất,
ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ
án hành chính nói chung.
Từ thực tiễn hoạt động giải quyết
vụ án hành chính, để đảm bảo tính khoa
học, khả thi và thống nhất trong việc áp
dụng pháp luật tố tụng hành chính, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cần tiếp
tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật tố
tụng hành chính nói chung, quy định về
trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính nói
riêng nhằm làm rõ quy định về “điều kiện
khởi kiện vụ án hành chính”, về quyền
khởi kiện vụ án hành chính. Trên cơ sở
đó, đảm bảo việc nhận thức và áp dụng
được thống nhất, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_hoat_dong_kiem_sat_viec_xu_ly_don_khoi_kien.pdf