Đối với Nhà nước, các cơ quan chức năng và hiệp hội vận tải
Nhà nước cần đầu tư hợp lý cho các cảng, sân bay, cảng thông quan nội địa gọi tắt là
ICD, đường bộ, đường sắt, đường sông, kho bãi, trang thiết bị, ngân hàng, bảo hiểm theo
một kế hoạch tổng thể, có khả năng tương tác và hỗ trợ qua lại lẫn nhau một cách hiệu quả.
Đầu tư và nâng cấp hạ tầng giao thông vận tải, khuyến khích vận tải container đường sắt,
chú trọng đầu tư xây dựng cảng nước sâu trung chuyển khu vực. Xây dựng hành lang,
khung pháp lý mở và chọn lọc, đảm bảo tính nhất quán, thông thoáng và hợp lý trong các
văn bản, quy định liên quan đến lĩnh vực logistics với mục đích tạo cơ sở cho một thị
trường logistics minh bạch. Đẩy mạnh công tác đào tạo logistics tại các trường cao đẳng,
đại học, chương trình đào tạo sau đại học. [3]
Thúc đẩy và phát triển công nghệ thông tin, trao đổi dữ liệu điện tử trong thương mại,
khai quan điện tử gọi tắt là EDI, để tận dụng ưu thế của công nghệ thông tin nhằm mang lại
năng suất lao động cao, tiết kiệm chi phí, giảm thiểu tình trạng tiêu cực, gian lận trong
thương mại, xuất nhập khẩu và hải quan. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam cần năng
động hơn trong việc quản lý bảo vệ quyền lợi hội viên, đặc biệt là trong việc đào tạo, gắn
kết, thông tin, điều phối, hướng dẫn các thành viên tiếp cận và xâm nhập các thị trường
nước ngoài. Cải tiến quy trình thủ tục hải quan - xuất nhập khẩu. Chính phủ cần có chính
sách và biện pháp hướng dẫn, thúc đẩy sự liên kết các doanh nghiệp giao nhận kho vận với
nhau để có những doanh nghiệp có đủ quy mô, đủ điều kiện cạnh tranh với các doanh
nghiệp cùng loại trong khu vực và trên thế giới.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về lịch sử hình thành và phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
72 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM
Đào Trường Thành
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Tóm tắt: Cùng với quá trình phát triển của các lĩnh vực kinh tế quốc tế, logistics đã được
chuyên môn hóa và phát triển trở thành một ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong
giao thương quốc tế. Một điều khá thú vị là logistics được phát minh và ứng dụng lần đầu
tiên không phải trong hoạt động thương mại mà là trong lĩnh vực quân sự. Logistics được
các quốc gia ứng dụng rất rộng rãi trong hai cuộc Đại chiến thế giới để di chuyển lực
lượng quân đội cùng với vũ khí có khối lượng lớn và đảm bảo hậu cần cho lực lượng
tham chiến, tác chiến tại chiến trường. Hiệu quả của hoạt động logistics là yếu tố có tác
động rất lớn tới thành bại trên chiến trường. Ngày nay, các lĩnh vực của nền kinh tế thế
giới, khu vực và trong các nước phát triển, logistics đã được vận dụng một cách rộng rãi
trong sự phát triển kinh tế thế giới.
Từ khóa: Lịch sử, phát triển, dịch vụ logistics, Việt Nam.
Nhận bài ngày: 12.3.2020; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày: 25.3.2020
Liên hệ tác giả: Đào Trường Thành; Email: dtthanh@daihocthudo.edu.vn
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cơ sở hạ tầng là một trong bốn yếu tố nền tảng để phát triển hệ thống dịch vụ logistics
quốc gia. Cơ sở hạ tầng, thể chế pháp luật, doanh nghiệp cung ứng và sử dụng các dịch vụ
logistics. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, cơ sở hạ tầng phát triển chưa đáp ứng nhu cầu
và trở thành lực cản không nhỏ cho sự phát triển của ngành dịch vụ đầy tiềm năng này.
Chính vì vậy, trong những năm qua, cơ sở hạ tầng của dịch vụ logistics đã có những thay
đổi đáng kể. Đặc biệt có nhiều công trình giao thông cao tốc nối các cảng biển với các
trung tâm kinh tế chiến lược của quốc gia được đầu tư xây dựng cơ bản. Các cảng nội địa,
và cảng biển trung chuyển quốc tế được nâng cấp, công nghệ thông tin phát triển mạnh và
ngày càng được ứng dụng sâu, rộng trong nhiều lĩnh vực của cảng biển. Hạ tầng phần cứng
của hệ thống dịch vụ logistics hiện nay còn nghèo nàn. Trong lịch vực vận tải biển chưa có
những cảng nước sâu đi vào hoạt động, cảng trung chuyển quốc tế để thu hút tàu biển có
trọng tải lớn và hàng hoá trung chuyển giữa các quốc gia vào cảng biển Việt Nam. Để hỗ
trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dịch vụ cảng biển phát triển, nhà nước cũng như
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 38/2020 73
các doanh nghiệp cần có sự đầu tư hiệu quả để khắc phục những hạn chế, yếu kém cũng
như cần phải có chiến lược phát triển toàn diện, rõ ràng, cụ thể cho hệ thống cơ sở hạ tầng
của cảng biển trong tương lai.
2. NỘI DUNG
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hỗ trợ đắc lực của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật trên thế giới, khối lượng hàng hóa và sản phẩm vật chất được sản xuất ra
ngày càng nhiều. Do khoảng cách trong các lĩnh vực cạnh tranh truyền thống như chất
lượng hàng hóa hay giá cả ngày càng thu hẹp, các nhà sản xuất đã chuyển sang cạnh tranh
về quản lý hàng tồn kho, tốc độ giao hàng, hợp lý hóa quá trình lưu chuyển nguyên nhiên
vật liệu và bán thành phẩm,... trong cả hệ thống quản lý phân phối vật chất của doanh
nghiệp. Trong quá trình đó, logistics có cơ hội phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn trong
lĩnh vực kinh doanh. Trong thời gian đầu, logistics chỉ đơn thuần được coi là một phương
thức kinh doanh mới, mang lại hiệu quả cao cho các doanh nghiệp.
2.1. Lịch sử hình thành logistics
Cùng với quá trình phát triển, logistics đã được chuyên môn hóa và phát triển trở thành
một ngành dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng trong giao thương quốc tế. Một điều khá thú
vị là logistics được phát minh và ứng dụng lần đầu tiên không phải trong hoạt động thương
mại mà là trong lĩnh vực quân sự. Logistics được các quốc gia ứng dụng rất rộng rãi trong
hai cuộc Đại chiến thế giới để di chuyển lực lượng quân đội cùng với vũ khí có khối lượng
lớn và đảm bảo hậu cần cho lực lượng tham chiến tại chiến trường. Hiệu quả của hoạt động
logistics là yếu tố có tác động rất lớn tới thành bại trên chiến trường.
Theo một số tài liệu cho biết, thuật ngữ logictics bắt nguồn từ các cuộc chiến tranh cổ
đại của đế chế Hy Lạp và La Mã. Ở đó, các chiến binh có chức danh là Logistikas được
giao nhiệm vụ chu cấp và phân phối vũ khí cùng các nhu yếu phẩm cho tất cả các binh sĩ
khi di chuyển từ bản doanh đến các vị trí khác. Đây là một công việc vô cùng quan trọng
chiến tranh. Cùng với đó, các bên tham chiến phải tìm mọi cách để bảo vệ nguồn cung ứng
của mình và triệt phá nguồn cung ứng của đối phương. Quá trình đó sau này dần hình
thành hệ thống quản trị mà lịch sử gọi là quản lý logistics [1].
Ở thế kỉ XIX, logistics quân sự khá nổi bật. Cụ thể như trong thế chiến thứ 2, lĩnh vực
hậu cần của Mĩ và quân Đồng minh đã đạt hiệu quả hơn Đức khi cung cấp vũ khí, đạn
dược cùng các nhu yếu phẩm cần thiết kịp thời, đúng địa điểm. Nhờ vậy mà Mĩ và đồng
minh đã chiếm được nhiều ưu thế trong chiến tranh và dành thắng lợi. Trải qua dòng chảy
lịch sử của thời gian, các bài học logistics quân sự đến ngày nay vẫn mang nhiều giá trị
khoa học, ý nghĩa lịch sử và được thay đổi để áp dụng trong sản xuất và kinh doanh.
Dưới góc độ doanh nghiệp, thuật ngữ logistics thường được hiểu là hoạt động quản lý
chuỗi cung ứng - supply chain management hay quản lý hệ thống phân phối vật chất -
physical distribution management của doanh nghiệp đó. Có rất nhiều khái niệm khác nhau
về logistics trên thế giới và được xây dụng căn cứ trên ngành nghề và mục đích nghiên cứu
về dịch vụ logistics. Logistics là một thuật ngữ còn khá mới ở Việt Nam, trong khi đó đã
74 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
trở nên quen thuộc với các quốc gia trên thế giới và khu vực. Hiểu như vậy, logistics là
dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực
thương mại và vận tải hàng hóa.
2.2. Định nghĩa logistics
Thuật ngữ Logistics không phải xuất phát từ thuật ngữ Logic gốc từ Hy Lạp mà ta bắt
gặp trong toán học. Logistics là từ tiếng Anh, song có nguồn gốc từ chữ Logistique của
tiếng Pháp. Bản thân chữ Logistique của tiếng Pháp có nguồn gốc từ chữ Loger. Đây là
một từ cổ, có nghĩa là cái trại lính.
Trong lĩnh vực quân sự: Logistics được định nghĩa là khoa học của việc lập kế hoạch
và tiến hành di chuyển và tập trung các lực lượng, các mặt trong chiến dịch quân sự liên
quan tới việc thiết kế và phát triển, qua lại, lưu kho, di chuyển, phân phối, tập trung, sắp
đặt và di chuyển khí tài, trang thiết bị [2].
Từ xa xưa trong nghệ thuật quân sự, người ta đã ý thức rằng thành bại của một chiến
dịch không chỉ phụ thuộc vào vũ khí và mức độ tinh nhuệ của binh lính mà còn phụ thuộc
rất nhiều vào khả năng đáp ứng đủ lương thực, quân trang, quân dụng, khí tài. Bộ phận
chịu trách nhiệm đáp ứng đầy đủ các phương tiện vật chất này được các bậc tiền nhân gọi
là ngành hậu cần quân đội. Trong từ điển bách khoa quân sự Việt Nam năm 2009, hậu cần
được định nghĩa như sau: Một mặt công tác quân sự, gồm tổng thể những hoạt động bảo
đảm vật chất, sinh hoạt, quân y, vận tải cho lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ. Từ
Logistics được giải nghĩa bằng tiếng Anh trong Oxford Advances Learners Dictionary of
Current English, A.S Hornby, Fìth Edition, Oxford University Press, 1995 là: Việc tổ chức
cung ứng và dịch vụ đối với một hoạt động phức tạp nào đó - Logistics- The organization
of supplies and any compex operation.
Theo Hiệp hội quản lý Logistics - The Council of Logistics Management CLM in the
USA: Logistics là một bộ phận của dây chuyền cung ứng, tiến hành lập ra kế hoạch, thực
hiện và kiểm soát công việc vận chuyển và lưu kho hàng hóa cùng các dịch vụ và thông tin
có liên quan từ địa điểm xuất phát đến nơi tiêu dùng môt cách hiệu quả nhằm đáp ứng
những nhu cầu của khách hàng.
Theo khóa đào tạo quốc tế về vận tải đa phương thức và quản lý logistics, Đại học
Ngoại Thương Hà Nội, tháng 10/2002 do Liên hợp quốc tổ chức đã nêu khái niệm:
Logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu chuyển nguyên vật liệu qua các khâu lưu kho,
sản xuất ra sản phẩm cho tới tay người tiêu dùng theo yêu cầu của khách hàng.
Ủy ban Quản lý logistics của Hoa Kỳ: Logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn
phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiếm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu
quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành
phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa
đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ năm 1988: Logistics là quá trình lên kế hoạch, thực
hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và lưu trữ nguyên vật
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 38/2020 75
liệu, hàng tồn, thành phẩm và các thông tin liên quan từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ,
nhằm mục đích thỏa mãn những yêu cầu của khách hàng.
Theo Điều 233 Luật Thương mại 2005 có quy định: Dịch vụ logistics là hoạt động
thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm
nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư
vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên
quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao [9].
2.3. Những thành tựu, hạn chế trong quá trình phát triển ngành logictics ở Việt Nam
Như mọi lĩnh vực khác, dịch vụ logistics ở Việt Nam trong quá trình hình thành và
phát triển đã có những thành tựu và hạn chế nhất định. Nhận diện được những thành tựu và
hạn chế để tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp phát triển là nội dung quan trọng đối
với nhiệm vụ nghiên cứu.
2.3.1. Những thành tựu trong quá trình phát triển logictics
Những kiến thức về logistics và các hoạt động logistics mới thâm nhập vào Việt Nam
trong thời gian ở những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, trước hết và chủ yếu thông qua
hoạt động của các công ty vận tải giao nhận nước ngoài và một số người được đào tạo tại
nước ngoài. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng của
hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư, dịch vụ logistics tại Việt Nam đang có bước phát triển
mạnh mẽ và sẽ còn phát triển mạnh hơn khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức thương mại thế giới WTO. Bước vào sân chơi toàn cầu, các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực logistics sẽ có cơ hội phát triển nhanh.
Trong những năm gần đây, dịch vụ logistics phát triển mạnh mẽ và được chuyên môn
hóa với mức độ khá cao, trở thành một trong những ngành dịch vụ xương sống của hoạt
động thương mại quốc tế. Khối ASEAN đang coi trọng tăng cường hội nhập ngành
logistics trong khu vực, coi đây là mắt xích quan trọng để liên kết các công đoạn sản xuất
và vận chuyển giữa các nước trong khu vực. Việt Nam đã tham gia lộ trình hội nhập ngành
logistics trong tổ chức ASEAN đạt kết quả bước đầu, tuy nhiên, vẫn còn nhiêu việc phải
làm để thúc đẩy ngành này phát triển.
Theo thống kê gần đây nhất năm 2014, của một số tổ chức nghiên cứu về logistics, chi
phí cho hoạt động vụ logistics ở Việt Nam chiếm đến 25% GDP. Theo số liệu của Tổng
cục thống kê GDP nước ta năm 2014 khoảng 184 tỷ USD, như vậy chi phí logistics chiếm
khoảng 46 tỷ USD. Theo báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu (GEP) công bố ngày
13/01/2015, Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo kinh tế Việt Nam năm 2015 đã tăng trưởng
cùng tốc độ với năm 2014 ở mức 5,6%, trong 2 năm tăng trưởng GDP Việt Nam đã đạt
5,8% trong năm 2016 và 6% trong năm 2017. Như vậy, chi phí logistics sẽ nằm trong
khoảng từ 48,6 đến 48,8 tỷ USD. Đây là một khoản tiền rất lớn. Nếu chỉ tính khâu quan
trọng nhất trong logistics là vận tải, chiếm từ 40 đến 60% chi phí thì cũng đã là một thị
trường dịch vụ khồng lồ.
76 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Như vậy, logistics là ngành đem lại nguồn lợi khổng lồ cho kinh tế các Quốc gia. Theo
Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, hiện Việt Nam có hơn 1.000 doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ logistics nhưng số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
vận tải, kho bãi, bán buôn, bán lẻ và phát chuyển nhanh lên tới gần 140.000. Theo Bộ
Công thương, tiềm năng phát triển ngành logistics còn lớn hơn nữa khi kim ngạch thương
mại của nước ta được xem là tăng nhanh nhất trong khu vực với tốc độ 18-20%/năm.
2.3.2. Những hạn chế trong quá trình phát triển ngành logictics
Như hầu hết các nước đang phát triển trong khu vực, các doanh nghiệp logistics của
Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì vậy việc tổ chức kinh doanh còn
manh mún, chưa chuyên nghiệp, nguồn nhân lực có nhiều hạn chế. Số doanh nghiệp nội
địa chiếm tới 80% tổng số doanh nghiệp logistics ở Việt Nam nhưng chỉ chiếm gần 25%
thị phần. Số lượng các tập đoàn lớn trên thế giới xuất hiện và hoạt động ngày càng nhiều
như: APL Logistics, Maersk Logistics, NYK Logistics, Schenker, BirKart, BJ, Errmey,
Sunil Mezario, Hapag Lloyd, Zim, TWT, Sun Express, có nguồn tài chính mạnh, dồi
dào, nguồn nhân lực chất lượng cao và chuyên nghiệp đang chiếm lĩnh tới 75% thị phần
[5]. Logistics có bốn cấp độ về dịch vụ thì các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia được
đến cấp độ 2, nghĩa là chủ yếu mới làm đại lý, trung gian chứ chưa đáp ứng được cả chuỗi
logistics bao gồm cả các nhà điều hành vận tải đa phương thức gọi tắt là MTO và nhà cung
cấp dịch vụ logistics gọi tắt là LP.
Công nghệ logistics của Việt Nam còn rất thấp cho nên công việc vẫn còn mang tính
thụ động. Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu tự làm lấy công tác giao
nhận kho vận, do đó tính chuyên môn hóa chưa cao, chi phí cho giao nhận kho vận còn
chiếm tới 20% giá thành sản phẩm; trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển chỉ vào
khoảng 8 - 12%. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa của các doanh
nghiệp của Việt Nam so với các doanh nghiệp nước ngoài vốn đã rất mạnh. Bản thân
doanh nghiệp nước ngoài khi có các thương vụ làm ăn tại Việt Nam lại phải thông qua các
doanh nghiệp logistics nước thứ ba. Có thể nói, các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam chưa
nhận thức hết tầm quan trọng cũng như lợi ích của logistics. Quá trình thuê ngoài đối với
toàn bộ các hoạt động logistics chỉ đang trong giai đoạn khởi đầu. Chính điều này hạn chế
hoạt động xuất khẩu của từng doanh nghiệp cụ thể và ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu
chung của cả nước.
Theo tính toán mới nhất của Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng nhất trong
logistics là vận tải biển thì doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng chuyên chở được
18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, phần còn lại đang bị chi phối bởi các doanh
nghiệp nước ngoài. Điều này thực sự là một thua thiệt lớn cho doanh nghiệp Việt Nam
khi có đến 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển. Năm 2014,
theo thống kê cho thấy, tổng sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam
ước đạt 370,3 triệu tấn, tăng 14%, trong đó hàng container đạt 10,24 triệu TEUs, tăng
20,1% so với năm 2013. Đây thực sự một thị trường mơ ước mà các tập đoàn nước ngoài
đang thèm muốn và tập trung khai phá. Hiện tại, trên cả nước có khoảng 1.000 doanh
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 38/2020 77
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực logistics. Trong đó, VIFFAS - hiệp hội giao nhận kho
vận Việt Nam có 97 hội viên, trong đó 77 hội viên chính thức và 20 hội viên liên kết.
Thời gian hoạt động trung bình của các doanh nghiệp là 5 năm với vốn đăng ký trung
bình khoảng 1,5 tỷ đồng/doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp logistics tại Việt
Nam hiện chỉ đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường logistics, và mới chỉ dừng lại ở việc
cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ không lồ này. Trong khi các
doanh nghiệp của ta còn đang mải đá nhau thì các tập đoàn hàng hải lớn trên thế giới như
APL, Mitsui OSK, Maerk Logistics, NYK Logistics,... Những tập đoàn hùng mạnh với
khả năng cạnh tranh lớn, bề dày kinh nghiệm và nguồn tài chính không lồ với hệ thống
mạng lưới đại lý dày đặc, hệ thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ khép kín trên toàn thế
giới, mạng lưới thông tin rộng khắp, trình độ tổ chức quản lý cao, đã và đang từng bước
xâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị trường trong nước. Ngành công nghiệp logistics của
Việt Nam hiện vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, phần lớn của hệ thống logistics chưa được
thực hiện ở một cách thức thống nhất.
Hiện nay, hạ tầng cơ sở logistics tại Việt Nam nói chung còn nghèo nàn, quy mô nhỏ,
bố trí bất hợp lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam bao gồm trên 17.000 km
đường nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường thuỷ, 228 cảng biển và 21 sân
bay. Tuy nhiên, chất lượng của hệ thống này là không đồng đều, có những chỗ chưa đảm
bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có khoảng 20 cảng biển có thể tham gia việc vận tải hàng
hoá quốc tế, các cảng đang trong quá trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội
tàu nhỏ và chưa được trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm
trong điều hành xếp dỡ container. Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện
chở hàng (máy bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Thực tế cho thấy, chỉ có sân
bay Tân Sơn Nhất là đón được các máy bay chở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như
Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng vẫn chưa có nhà ga hàng hóa, khu vực họat động cho đại
lý logistics thực hiện gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực đang làm. Khả
năng bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp, không có đường chuyên dụng được thiết kế
để vận chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng hiện đang cũ kỹ, năng lực vận tải
đường sắt không đựơc vận dụng hiệu quả do chưa được hiện đại hóa.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, lượng hàng hoá vận chuyển đường sắt chiếm
khoảng 20% tổng lượng hàng hoá lưu thông. Tuy nhiên, đường sắt Việt Nam vẫn đang
đồng thời sử dụng 2 loại khổ ray khác nhau (1.000 và 1.435 mm) với tải trọng thấp.
Chuyến tàu nhanh nhất chạy tuyến Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh (1.630 km) hiện vẫn
cần đến 28 tiếng đồng hồ. Ngoài ra còn khá nhiều tuyến đường liên tỉnh, liên huyện đang ở
tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dịch vụ vận
chuyển. Trong logistics việc giao nhận luôn gắn liền với tốc độ thời gian và đó cũng chính
là uy tín của doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể chủ động thời gian được vì
giao thông phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng của cả xã hội. Bởi vậy, các doanh nghiệp thường bị
thụ động trong việc quyết định thời gian giao nhận hàng hóa, mọi cố gắng chỉ hạn chế phần
nhỏ vấn đề uy tín của doanh nghiệp.
78 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Logistics của Việt Nam đang thiếu nguồn nhân lực trầm trọng. Theo ước tính của
VIFFAS, nếu chỉ tính các nhân viên trong các công ty hội viên có khoảng 140, thì tổng số
khỏang 4000 người. Đây là lực lượng chuyên nghiệp, ngoài ra ước tính khoảng 4000 -
5000 người thực hiện bán chuyên nghiệp. Nguồn nhân lực được đào tạo từ nhiều nguồn
khác nhau. Từ trước tới nay, các trường đại học, cao đẳng chuyên ngành ngoại thương,
hàng hải, giao thông vận tải cũng chỉ đào tạo chung các kiến thức cơ bản về nghiệp vụ
ngoại thương, vận tải. Chỉ từ năm 2017, theo danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV trình độ
đại học ban hành kèm theo thông tư số 24/2017/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và đào tạo
thì mới có ngành Logistics và quản lý chuỗi cung ứng. Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo
về loại hình dịch vụ này cũng chưa nhiều. Ngay cả như các chuyên gia được đào tạo
chuyên nghiệp trong lĩnh vực này vẫn còn quá ít so với yêu cầu phát triển.
Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cho phép các công ty dịch vụ hàng hải,
logistics 100% vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng tại Việt Nam. Điều này đặt doanh
nghiệp Việt Nam trước thách thức cạnh tranh gay gắt trên sân nhà. Áp lực cạnh tranh rất
lớn từ việc hội nhập quốc tế, sự lớn mạnh không ngừng của thị trường cũng như những đòi
hỏi ngày càng tăng từ phía khách hàng cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho
các doanh nghiệp logistics. Chưa có một cơ chế thống nhất chính thức trong quản lý các
hoạt động logistics ở Việt Nam, việc thực thi Luật Cạnh tranh đối với lĩnh vực này dường
như vẫn bị bỏ trống, các quy định về thuế đối với các dịch vụ giao nhận hàng chưa rõ ràng
và còn phức tạp do thiếu quan điểm đồng nhất đối với ngành công nghiệp logistics[6][7].
2.3.3. Dự báo xu thế phát triển của logistics ở Việt Nam trong thời gian tới
Theo dự báo, trong tương lai không xa, dịch vụ giao nhận kho vận - logistics sẽ trở
thành một ngành kinh tế quan trọng tại Việt Nam, đóng góp tới 25% GDP cả nước. Đặc
biệt, trong 10 năm tới, khi kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có thể đạt mức 200 tỉ
USD/năm thì nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics lại càng lớn. Năm 2012, tổng lượng hàng
qua các cảng biển nước ta đạt 294,7 triệu tấn, gấp 2,15 lần năm 2005, trong đó riêng hàng
container gấp 3,3 lần. Con số này đến năm 2020 chắc chắn sẽ lên đến 640 ÷ 680 triệu
tấn/năm.
Những năm gần đây, vận tải biển Việt Nam đang có những bước phát triển đáng kể.
Hiện 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển. Đặc biệt, lĩnh vực
vận chuyển Container luôn đạt tốc độ tăng trưởng 2 chữ số trong những năm gần đây. Tuy
vậy, điều này lại dẫn đến hệ luỵ là Việt Nam đang rất cần các cảng nước sâu để có thể thỏa
mãn được nhu cầu xuất nhập khẩu ngày càng tăng. Hiện tại, chính phủ Việt Nam và các
nhà đầu tư Quốc tế đang triển khai một loạt dự án xây dựng các cụm cảng nước sâu như
khu vực Cái Mép - Thị Vải ở phía Nam; Hải Phòng ở phía Bắc.
Việc dịch chuyển cơ sở sản xuất của nhiều doanh nghiệp nước ngoài từ nơi khác đến
Việt Nam đã tạo ra cơ hội rất lớn trong việc xây dựng một mạng lưới giao nhận kho vận
hoạt động hiệu quả. Trong thời gian qua, VIFFAS đã và đang kết hợp với các hiệp hội giao
nhận các nước ASEAN gọi tắt là AFFA, các chương trình của Bộ Giao thông vận tải, tổ
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 38/2020 79
chức các khóa đào tạo nghiệp vụ giao nhận, gom hàng đường biển, liên kết với trường Cao
đẳng Hải quan mở lớp đào tạo về đại lý khai quan, cấp bằng, chứng chỉ cho các hội viên tại
Thành phố hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hà Nội. Về vấn đề giao nhận hàng không, trước kia,
hiệp hội vận tải hàng không quốc tế - IATA thông qua Vietnam Airlines đã tổ chức được
một số lớp học nghiệp vụ và tổ chức thi cấp bằng IATA có giá trị quốc tế. Hiện nay, mỗi
năm VIFFAS tổ chức được 1-2 khóa nghiệp vụ. Hiệp hội Giao nhận Việt Nam đề xuất
thành lập một Uỷ ban Logistics liên bộ với các thành viên từ Bộ Giao thông vận tải, Bộ
Công thương nhằm bảo đảm sự thống nhất giữa pháp luật và các quy định về logistics để
tránh sự chồng chéo.
2.4. Một số giải pháp và khuyến nghị
2.4.1. Đối với các doanh nghiệp
Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực: Để có thể phát triển dịch vụ logistics thì cần phải
xây dựng đội ngũ nhân viên giao nhận chuyên nghiệp, am hiểu về dịch vụ logistics. Vì vậy,
các doanh nghiệp cần lập ra các trường đào tạo nghề trực thuộc và sử dụng các trường đào
tạo này để đào tạo lực lượng nhân viên logistics, mời các chuyên gia logistics nước ngoài
và các chuyên gia logistics của Việt Nam giảng dạy hoặc liên kết với các trường đại học
như Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, Trường Đại học Hàng Hải Hải Phòng,
Trường Đại học Giao thông vận tải Hà Nội, để đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho phát
triển dịch vụ logistics.
Phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ và hệ thống mạng lưới đại lý ở nước ngoài: Hệ thống
cơ sở hạ tầng của các doanh nghiệp Việt Nam đi vào hoạt động dịch vụ logistics hiện nay
là chưa đủ, cần phải xây dụng thêm các hệ thống kho bãi, kho ngoại quan, kho lạnh, cảng
biển và hệ thống điều hành thương mại điện tử để làm các trạm phân phối hàng hóa đến
nơi nhận hàng một cách có hệ thống và dễ dàng thông báo với các khách hàng về nơi hàng
hóa của họ đang đi đường, tạo sự yên tâm và tin cậy của khách hàng [4]. Các doanh nghiệp
cần phải nỗ lực để đưa ra thị trường các dịch vụ có đủ sức cạnh tranh với các doanh
nghiệp, tập đoàn lớn kinh doanh dịch vụ logistics của nước ngoài. Xây dựng và triển khai
đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Xây dựng và phát triển hệ
thống cảng, đường sắt, vận tải đường bộ. Đối với các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào vận
chuyển đường thủy nên phát triển đội tàu biển và tàu hoả phát triển vận tải đa phương
thức, mở thêm các tuyến đường vận tải quốc tế từ Việt Nam sang các nước châu Âu, Châu
Mỹ, Mở rộng mạng lưới đại lý của doanh nghiệp tại nước ngoài để không chỉ phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp mà còn nhằm phát triển dịch vụ
logistics, xây dựng mạng lưới đại lý của doanh nghiệp tại các quốc gia có lượng hàng hoá
lớn ra vào Việt Nam hay khu vực để thực hiện các dịch vụ cung cấp khi cần thiết.
Ứng dụng công nghệ thông tin: Cho phép các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ
logistics phát hiện ra các điểm yếu trong toàn bộ quá trình lưu chuyển của hàng hoá, loại
bỏ được thời gian chết, thời gian lưu kho ở các điểm chuyển tải. Vì vậy, cùng với việc xây
dựng chiến lược phát triển logistics cần ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin trong dịch
80 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
vụ logistics như: thiết lập hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử, công nghệ đang được áp dụng
trong kinh doanh, khai thác vận tải đa phương thức, dịch vụ vận tải biển, áp dụng các hệ
thống quản lý logistics bằng điện tử của các nước có hệ thống quản lý logistics phát triển
như Singapore, Anh, Đức,
Thay đổi phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp thực hiện dịch vụ
logistics: Đối với những doanh nghiệp được giao trọng trách triển khai, phát triển dịch vụ
logistics, bên cạnh việc tạo mọi điều kiện tối đa về nhân lực, về vốn v.v.., cũng cần phải
thay đổi phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ.
Theo Quyết định 224/2006/QĐ-TTg ngày 06/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành
quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, phương pháp
đánh giá dựa trên 5 chỉ tiêu cụ thể như: doanh thu, lợi nhuận thực hiện, tỷ suất lợi nhuận
thực hiện trên vốn Nhà nước, nợ phải trả quá hạn và khả năng thanh toán nợ đến hạn, tình
hình chấp hành các quy định pháp luật hiện hành, tình hình thực hiện sản phẩm, dịch vụ
công ích. Những nội dung trong quyết định này mặc dù đã tạo cơ sở cho việc giám sát hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nước, nhưng chưa đề cập đến các khía cạnh quan trọng đối
với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics như khách hàng, chất lượng dịch vụ. [8]
Vì vậy, khi áp dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ logistics sẽ không phản ánh chính xác đặc thù hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Do đó, để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
logistics, các doanh nghiệp cần vận dụng phương pháp, cơ sở lý luận và tình hình thực tế
trong một số doanh nghiệp thực hiện dịch vụ logistics, từ đó có thể đưa ra những biện pháp
đúng đắn, hợp lý để phát triển hoạt động dịch vụ logistics của doanh nghiệp. Ngoài ra, các
doanh nghiệp cũng phải tranh thủ, tận dụng các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và sự ưu
đãi từ nhà nước đế phát triển hoạt động logistics của doanh nghiệp mình.
2.4.2. Đối với Nhà nước, các cơ quan chức năng và hiệp hội vận tải
Nhà nước cần đầu tư hợp lý cho các cảng, sân bay, cảng thông quan nội địa gọi tắt là
ICD, đường bộ, đường sắt, đường sông, kho bãi, trang thiết bị, ngân hàng, bảo hiểm theo
một kế hoạch tổng thể, có khả năng tương tác và hỗ trợ qua lại lẫn nhau một cách hiệu quả.
Đầu tư và nâng cấp hạ tầng giao thông vận tải, khuyến khích vận tải container đường sắt,
chú trọng đầu tư xây dựng cảng nước sâu trung chuyển khu vực. Xây dựng hành lang,
khung pháp lý mở và chọn lọc, đảm bảo tính nhất quán, thông thoáng và hợp lý trong các
văn bản, quy định liên quan đến lĩnh vực logistics với mục đích tạo cơ sở cho một thị
trường logistics minh bạch. Đẩy mạnh công tác đào tạo logistics tại các trường cao đẳng,
đại học, chương trình đào tạo sau đại học. [3]
Thúc đẩy và phát triển công nghệ thông tin, trao đổi dữ liệu điện tử trong thương mại,
khai quan điện tử gọi tắt là EDI, để tận dụng ưu thế của công nghệ thông tin nhằm mang lại
năng suất lao động cao, tiết kiệm chi phí, giảm thiểu tình trạng tiêu cực, gian lận trong
thương mại, xuất nhập khẩu và hải quan. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam cần năng
động hơn trong việc quản lý bảo vệ quyền lợi hội viên, đặc biệt là trong việc đào tạo, gắn
kết, thông tin, điều phối, hướng dẫn các thành viên tiếp cận và xâm nhập các thị trường
nước ngoài. Cải tiến quy trình thủ tục hải quan - xuất nhập khẩu. Chính phủ cần có chính
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 38/2020 81
sách và biện pháp hướng dẫn, thúc đẩy sự liên kết các doanh nghiệp giao nhận kho vận với
nhau để có những doanh nghiệp có đủ quy mô, đủ điều kiện cạnh tranh với các doanh
nghiệp cùng loại trong khu vực và trên thế giới.
3. KẾT LUẬN
Kinh tế thế giới đang phát triển mạnh mẽ theo xu hướng toàn cầu hóa, xuất hiện ngày
càng nhiều các nhu cầu về dịch vụ logistics. Là một quốc gia đang phát triển, với vị trí địa
lí, chính trị thuận lợi, dịch vụ logistics Việt Nam sẽ luôn là thị trường hấp dẫn không chỉ
các doanh nghiệp logistics trong nước mà với nhiều doanh nghiệp logistics nước ngoài.
Từ thực trạng hoạt động dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện nay, đòi hỏi Chính phủ và
bản thân các doanh nghiệp Logistics trong nước cần nỗ lực hơn nữa, không ngừng đổi mới
và sáng tạo, mở rộng mạng lưới, dành một vị trí quan trọng trong thị phần dịch vụ logistics
trong nước cũng như vươn ra thị trường Quốc tế, đồng thời góp một phần xứng đáng trong
chuỗi cung ứng kinh tế toàn cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Đình Đào, Nguyễn Đình Hiền (2012), “Một số vấn đề phát triển bền vững hệ thống
logistics ở nước ta trong hội nhập quốc tế”, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
2. Đặng Đình Đào, Trần Chí Thiện, Nguyễn Đình Hiền (2012), “Xây dựng và Phát triển hệ thống
logistics quốc gia theo hướng bền vững ở nước ta”, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
3. Nguyễn Thanh Minh (2011), “Tiềm năng biển Việt Nam và chính sách hợp tác quốc tế về biển
trong thập niên đầu thế kỷ XXI”, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
4. Nguyễn Thanh Minh (2010), Dịch vụ Logistics ở Trung Quốc và kinh nghiệm cho Việt Nam,
Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số 54.
5. Nguyễn Thanh Minh (2010), Chính sách hợp tác về biển của Việt Nam trong thập niên đầu thế
kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 8.
THE HISTORY AND THE DEVELOPMENT
OF LOGISTICS IN VIETNAM
Abstract: Logistics has been specialized and developed to become a fundamental part of
international trade, along with the growth of other sectors in the international business.
In fact, logistics was invented and firstly used in the army instead of commercial
activities. It was also appeared in the two World Wars as a form of transportation for the
military and large amount of weapons, as well as a solution for guaranteeing combat
troops at the battlefield. In this case, logistics brings a great impact on the chance of
success. Nowadays, logistics is widely used in various areas of both regional and
worldwide economy, particularly in developed countries.
Keywords: history, development, logistics, Vietnam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_lich_su_hinh_thanh_va_phat_trien_dich_vu_lo.pdf