Một là, các cơ quan chức năng như Tư pháp,
Công an, Tòa án, Viện kiểm sát cần nghiên cứu
làm rõ những qui định đối với PNTM thực hiện tội
phạm để làm căn cứ phát hiện, điều tra, xử lý. Đến
nay vẫn chưa có văn bản giải thích rõ pháp luật hình
sự đối với PNTM nên việc hiểu và áp dụng chưa
thống nhất. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần phối
hợp xây dựng và ban hành thông tư liên tịch hướng
dẫn xử lý đối với PNTM phạm tội, qua đó giúp cho
các cơ quan bảo vệ pháp luật thống nhất về nhận
thức và có căn cứ tiến hành giải quyết vụ án hình sự
với chủ thể của tội phạm là PNTM.
Hai là, cần tăng cường công tác tuyên truyền,
hướng dẫn pháp luật hình sự về PNTM là chủ
thể tội phạm; các loại tội xác định phạm vi trách
nhiệm hình sự của PNTM (31 tội được qui định
tại Điều 76 BLHS năm 2015). Điều này là rất
cần thiết để pháp nhân thương mại hiểu rõ qui
định của Luật Hình sự và trách nhiệm hình sự mà
PNTM phạm tội, qua đó có ý thức tôn trọng và
chấp hành pháp luật. Hiện nay rất nhiều PNTM
vẫn cho rằng các hành vi vi phạm pháp luật của
pháp nhân chỉ bị xử lý vi phạm hành chính nên
tính răn đe, phòng ngừa còn hạn chế.
Ba là, cần tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao
nhận thức và năng lực cho đội ngũ các cơ quan
bảo vệ pháp luật (cơ quan điều tra, viện kiểm
sát, tòa án) về PNTM và những qui định đối với
PNTM phạm tội. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ
trong các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thực sự
quan tâm tìm hiểu, nắm rõ các qui định của pháp
luật hình sự đối với PNTM phạm tội, dẫn đến còn
khó khăn, lúng túng trong điều tra, xử lý PNTM
phạm tội cũng như hạn chế năng lực trong pháp
hiện, điều tra, truy tố, xét xử đối với PNTM phạm
tội. Điều này cũng làm hạn chế hiệu lực của pháp
luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Bốn là, tập trung, điều tra, truy tố, xét xử một
số vụ án nghiêm trọng do PNTM gây ra. Thực
tế, trong những năm qua đã xảy ra nhiều vụ pháp
nhân vi phạm pháp luật gây hậu quả nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng như xả thải gây
ô nhiễm môi trường; trốn đóng bảo hiểm xã hội
hàng chục tỷ đồng; buôn lậu, sản xuất hàng giả;
thăm dò, khai thác tài nguyên. nhưng đều dừng
lại ở mức xử lý hành chính, gây ảnh hưởng tiêu
cực đến kinh tế - xã hội và gây bức xúc trong dư
luận. Vì vậy, để nâng cao hiệu lực của pháp luật
trong xử lý tội phạm đối với PNTM phạm tội, các
cơ quan tiến hành tố tụng cần tập trung điều tra,
xử lý nghiêm minh các trường hợp này, qua đó
góp phần đấu tranh, răn đe, phòng ngừa tội phạm
là PNTM.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 446 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về pháp nhân thương mại trong pháp luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Email: hongntt1974@gmail.com
Một số vấn đề về pháp nhân thương mại 
trong pháp luật hình sự Việt Nam
Some Issues about Commercial Legal Entities in the Criminal Law of Vietnam
Nguyễn Thị Thu Hồng*, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Thị Thiên Trinh
Thu Hong Nguyen Thi, Phuc Nguyen Van, Thien Trinh Nguyen Thi
Khoa Luật, Trường Đại học Duy Tân, 03 Quang Trung, Đà Nẵng, Việt Nam
Faculty of Law, Duy Tan University, 03 Quang Trung, Da Nang, Vietnam
(Ngày nhận bài: 03/01/2020, ngày phản biện xong: 07/02/2020, ngày chấp nhận đăng: 20/02/2020)
Tóm tắt
Qui định pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự là vấn đề mới đặt ra trong pháp luật hình sự của nước ta. 
Bài viết này tác giả tập trung phân tích những điểm mới của qui định này trong Bộ luật Hình sự và đề xuất một số nội dung 
nhằm góp phần quán triệt và nâng cao hiệu quả việc thực hiện Bộ luật Hình sự trong thực tiễn. 
Từ khóa: Trách nhiệm hình sự, pháp nhân thương mại.
Abstract
 Commercial legal entities bearing criminal responsibility is a new issue in our country’s criminal law. In this article, the 
author focuses on analyzing the new perspectives of this provision in the Criminal Code and proposes some suggestions 
to contribute and improve the efficiency of the implementation of the Criminal Code in practice.
Keywords: Criminal responsibilities, commercial legal entities.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
DTU Journal of Science and Technology 07(38) (2020) .........
1. Một số quy định về tội phạm là pháp nhân 
Theo quan niệm truyền thống của khoa học 
luật hình sự, tội phạm là sự kết hợp giữa hành 
vi nguy hiểm của con người và thái độ lỗi bên 
trong của người đó, nên trước khi ban hành Bộ 
Luật hình sự năm 2015 (BLHS năm 2015), pháp 
luật hình sự Việt Nam vẫn chỉ coi chủ thể của tội 
phạm là các cá nhân người phạm tội và do vậy 
chỉ đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối 
với cá nhân.
Nhằm thể chế hoá chủ trương cải cách tư pháp 
của Đảng, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 
2013, đặc biệt là tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ 
chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, 
bảo vệ lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần 
bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự 
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, 
góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc 
trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm 
và tăng cường hội nhập quốc tế, Quốc hội đã ban 
hành BLHS năm 2015 Một trong những điểm 
mới quan trọng của BLHS năm 2005 chính là lần 
đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước ta đã quy 
định pháp nhân là chủ thể của tội phạm. Đây là 
118
điểm đổi mới nổi bật, mang tính đột phá trong 
chính sách hình sự và tư duy lập pháp hình sự 
nước ta; làm thay đổi nhận thức truyền thống về 
vấn đề tội phạm và hình phạt. Việc qui định pháp 
nhân là chủ thể của tội phạm đã góp phần khắc 
phục những bất cập, hạn chế trong việc xử lý các 
vi phạm pháp luật của pháp nhân trong thời gian 
qua, nhất là những vi phạm trong các lĩnh vực 
kinh tế và môi trường, đồng thời tạo điều kiện 
bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do 
các hành vi vi phạm do pháp nhân gây ra. 
Việc qui định trách nhiệm hình sự đối với pháp 
nhân không phải là vấn đề mới đối với nhiều 
quốc gia trên thế giới khi nền kinh tế vận hành 
theo cơ chế thị trường. Theo thống kê, hiện nay 
có 116 quốc gia, trong đó có 6 nước ASEAN, có 
quy định về trách nhiệm hình sự pháp nhân. Các 
công ước có liên quan đến xử lý pháp nhân cũng 
được qui định trong một số văn bản công pháp 
quốc tế, như: Công ước của Liên hợp quốc về 
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Công 
ước ASEAN về chống khủng bố; các công ước 
về chống khủng bố khác mà Việt Nam đã tham 
gia. Luật phòng, chống khủng bố; Luật phòng, 
chống rửa tiền cũng đã quy định hành vi khủng 
bố, hành vi rửa tiền của cá nhân và pháp nhân [1].
2. Những quy định của BLHS 2015 về chủ thể, 
nguyên tắc xử lý và hình phạt đối với pháp 
nhân thương mại
Để pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và 
hiệu quả trong thực tiễn, cần thiết phải nhận thức 
rõ vấn đề pháp nhân thương mại (PNTM) trong 
luật hình sự. 
Theo pháp luật hình sự của một số nước thì 
pháp nhân là chủ thể tội phạm được qui định khá 
rộng, được áp dụng đối với mọi tổ chức có tư cách 
pháp nhân. Ở nước ta, Bộ luật Dân sự năm 2015 
đã quy định pháp nhân là một tổ chức có đủ các 
điều kiện: Được thành lập theo quy định của Bộ 
luật Dân sự và luật khác có liên quan; Có cơ cấu 
tổ chức theo quy định tại Điều 83 Bộ luật Dân sự; 
Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác 
và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; 
Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một 
cách độc lập [2]. BLHS năm 2015 quy định chỉ 
áp dụng đối với PNTM là chủ thể tội phạm mà 
không phải đối với mọi pháp nhân. Theo quy định 
tại Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015, đây là pháp 
nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận 
và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp 
nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các 
tổ chức kinh tế khác. Như vậy, việc quy định chỉ 
có pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm 
đã có những hạn chế nhất định của chế định này, 
đó là có sự phân biệt đối xử giữa các pháp nhân, 
có thể làm hạn chế phần nào chủ trương khuyến 
khích các thành phần kinh tế phát triển, tạo ra sự 
e dè của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong 
quá trình đầu tư, kinh doanh.
Tuy nhiên, đối với nước ta, việc qui định 
PNTM là chủ thể tội phạm là vấn đề còn rất mới 
nên cách tiếp cận cần thận trọng và phù hợp với 
hoàn cảnh của Việt Nam. Vì vậy, giới hạn áp 
dụng chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân 
theo qui định của BLHS năm 2015 được thiết kế 
theo hướng thu hẹp cả về chủ thể lẫn loại tội mà 
pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo đó, cơ sở trách nhiệm hình sự (Điều 2) 
xác định rõ đối tượng là PNTM phạm một trong 
các tội được quy định tại Điều 76 của Bộ luật thì 
phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 3 BLHS đã bổ 
sung nguyên tắc xử lý pháp nhân phạm tội: (a) Mọi 
hành vi phạm tội do PNTM thực hiện phải được 
phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh 
theo đúng pháp luật; (b) Mọi PNTM phạm tội đều 
bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình 
thức sở hữu và thành phần kinh tế; (c) Nghiêm trị 
PNTM phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất 
chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm 
trọng; (d) Khoan hồng đối với PNTM tích cực hợp 
tác với các cơ quan có trách nhiệm trong việc phát 
hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, 
tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ 
động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.
119
 BLHS năm 2015 đã quy định PNTM nước 
ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu 
trách nhiệm hình sự trong trường hợp hành vi 
phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của 
công dân Việt Nam hoặc theo qui định của điều 
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam là thành viên (Điều 6). BLHS năm 2015 đã 
mở rộng khái niệm tội phạm bao gồm cả PNTM 
phạm tội (Điều 8).
Bộ luật đã qui định các chế tài áp dụng đối với 
PNTM phạm tội (Điều 33 và Điều 46 của BLHS) 
bao gồm 03 hình phạt chính (phạt tiền; đình chỉ 
hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh 
viễn) và 03 hình phạt bổ sung (cấm kinh doanh, 
cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; 
cấm huy động vốn; phạt tiền khi không áp dụng là 
hình phạt chính) và 04 biện pháp tư pháp (tịch thu 
vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại 
tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc 
công khai xin lỗi; buộc khôi phục lại tình trạng 
ban đầu; buộc thực hiện một số biện pháp nhằm 
khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra).
Bổ sung một chương mới (Chương XI. Những 
quy định đối với pháp nhân thương mại phạm 
tội gồm các điều từ Điều 74 đến Điều 89) quy 
định về điều kiện, phạm vi chịu trách nhiệm hình 
sự; các hình phạt và biện pháp tư pháp cụ thể áp 
dụng đối với PNTM phạm tội; các tình tiết giảm 
nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự; việc quyết 
định hình phạt, tổng hợp hình phạt, miễn hình 
phạt và xóa án tích đối với PNTM bị kết án. 
Về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của 
PNTM thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối 
với PNTM là vấn đề mới được đặt ra, Việt Nam 
chưa có kinh nghiệm thực tiễn về chế định này, 
do vậy việc xác định các tội danh mà PNTM phải 
chịu trách nhiệm hình sự cần thận trọng, có bước 
đi phù hợp, trên cơ sở đánh giá tính chất, mức 
độ nguy hiểm và phổ biến của những hành vi vi 
phạm xảy ra trong thực tiễn để quy định trong 
BLHS nhằm xử lý hành vi phạm tội. Xuất phát từ 
yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội 
phạm, trước mắt xác định phạm vi các tội danh 
mà PNTM phạm tội phải chịu trách nhiệm hình 
sự chỉ thuộc các nhóm tội phạm kinh tế và tội 
phạm về môi trường. Trên tinh thần đó, BLHS 
năm 2015 quy định PNTM chỉ phải chịu trách 
nhiệm hình sự đối với 31 tội danh được liệt kê 
cụ thể tại Điều 76. Đây là các tội danh mang tính 
chất thuần túy về kinh tế và môi trường (22 tội 
thuộc Chương XVIII. Các tội xâm phạm trật tự 
quản lý kinh tế và 09 tội thuộc Chương XIX. Các 
tội phạm về môi trường). 
Mặc dù qui định về việc PNTM chịu trách 
nhiệm hình sự nhưng BLHS năm 2015 vẫn 
không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân 
(khoản 2, Điều 75. Điều kiện chịu trách nhiệm 
hình sự của PNTM). Do vậy, trong quá trình áp 
dụng, giải quyết vụ án hình sự về tội có quy định 
trách nhiệm hình sự của PNTM, trước hết, cần 
làm rõ các tình tiết, hành vi phạm tội và trách 
nhiệm của cá nhân hoặc pháp nhân (nếu có); 
trường hợp pháp nhân ra quyết định hoặc chỉ đạo 
cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì phải xử lý 
hình sự đồng thời cả cá nhân và pháp nhân về tội 
phạm mà họ đã thực hiện. Trường hợp phát hiện 
tội phạm xảy ra, mà ban đầu mới xác định được 
trách nhiệm của PNTM, thì khởi tố vụ án, khởi 
tố pháp nhân phạm tội, sau đó tiếp tục điều tra, 
làm rõ để xử lý hình sự cá nhân liên quan - người 
trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bảo đảm 
việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với cá nhân, 
pháp nhân được toàn diện, triệt để, tránh bỏ lọt 
tội phạm và cá nhân, pháp nhân phạm tội.
Về điều kiện PNTM phải chịu trách nhiệm 
hình sự, Điều 75 BLHS cũng quy định rõ 04 điều 
kiện để một PNTM phải chịu trách nhiệm hình 
sự, bao gồm: Hành vi phạm tội được thực hiện 
nhân danh pháp nhân; Hành vi phạm tội được 
thực hiện vì lợi ích của pháp nhân; Hành vi phạm 
tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc 
chấp thuận của pháp nhân; Chưa hết thời hiệu 
truy cứu trách nhiệm hình sự. 
120
Các quy định đối với PNTM không chỉ bảo 
đảm sự thống nhất chung của hệ thống pháp luật 
mà còn nhằm thực thi các cam kết của Việt Nam 
trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành 
viên, bảo đảm công bằng giữa PNTM Việt Nam 
ở nước ngoài và PNTM nước ngoài tại Việt Nam.
3. Một số kiến nghị cho việc thực thi các quy 
định của pháp luật hình sự về pháp nhân 
thương mại
Như trên đã đề cập, việc qui định PNTM là 
chủ thể của tội phạm là một nội dung mới trong 
Luật Hình sự; tuy nhiên, thực tế việc xử lý PNTM 
phạm tội trong thời gian qua ở nước ta còn nhiều 
khó khăn, lúng túng và vướng mắc. Mặc dù, 
BLHS đã thu hẹp về chủ thể và loại tội nhưng 
việc phát hiện, đấu tranh, xử lý đối với PNTM 
phạm tội còn rất hạn chế. Thực tế, trong những 
năm qua các hành vi gây ô nhiễm môi trường rất 
nghiêm trọng, các hành vi phạm tội trong lĩnh 
vực chứng khoán, bảo hiểm xã hội, buôn lậu, làm 
hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ... diễn ra rất 
phức tạp và đều nằm trong qui định của Điều 76 
BLHS nhưng hầu như chưa có vụ nào bị điều 
tra, xử lý với chủ thể là PNTM. Việc xử lý còn 
nặng về hành chính hoặc xử lý thiên về hướng 
xử lý cá nhân trong pháp nhân dẫn đến hiệu quả 
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và hiệu 
lực của pháp luật chưa cao. Để góp phần khắc 
phục những hạn chế, vướng mắc trên, theo chúng 
tôi cần thực hiện một số vấn đề sau đây: 
Một là, các cơ quan chức năng như Tư pháp, 
Công an, Tòa án, Viện kiểm sát cần nghiên cứu 
làm rõ những qui định đối với PNTM thực hiện tội 
phạm để làm căn cứ phát hiện, điều tra, xử lý. Đến 
nay vẫn chưa có văn bản giải thích rõ pháp luật hình 
sự đối với PNTM nên việc hiểu và áp dụng chưa 
thống nhất. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần phối 
hợp xây dựng và ban hành thông tư liên tịch hướng 
dẫn xử lý đối với PNTM phạm tội, qua đó giúp cho 
các cơ quan bảo vệ pháp luật thống nhất về nhận 
thức và có căn cứ tiến hành giải quyết vụ án hình sự 
với chủ thể của tội phạm là PNTM.
Hai là, cần tăng cường công tác tuyên truyền, 
hướng dẫn pháp luật hình sự về PNTM là chủ 
thể tội phạm; các loại tội xác định phạm vi trách 
nhiệm hình sự của PNTM (31 tội được qui định 
tại Điều 76 BLHS năm 2015). Điều này là rất 
cần thiết để pháp nhân thương mại hiểu rõ qui 
định của Luật Hình sự và trách nhiệm hình sự mà 
PNTM phạm tội, qua đó có ý thức tôn trọng và 
chấp hành pháp luật. Hiện nay rất nhiều PNTM 
vẫn cho rằng các hành vi vi phạm pháp luật của 
pháp nhân chỉ bị xử lý vi phạm hành chính nên 
tính răn đe, phòng ngừa còn hạn chế.
Ba là, cần tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao 
nhận thức và năng lực cho đội ngũ các cơ quan 
bảo vệ pháp luật (cơ quan điều tra, viện kiểm 
sát, tòa án) về PNTM và những qui định đối với 
PNTM phạm tội. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ 
trong các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thực sự 
quan tâm tìm hiểu, nắm rõ các qui định của pháp 
luật hình sự đối với PNTM phạm tội, dẫn đến còn 
khó khăn, lúng túng trong điều tra, xử lý PNTM 
phạm tội cũng như hạn chế năng lực trong pháp 
hiện, điều tra, truy tố, xét xử đối với PNTM phạm 
tội. Điều này cũng làm hạn chế hiệu lực của pháp 
luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Bốn là, tập trung, điều tra, truy tố, xét xử một 
số vụ án nghiêm trọng do PNTM gây ra. Thực 
tế, trong những năm qua đã xảy ra nhiều vụ pháp 
nhân vi phạm pháp luật gây hậu quả nghiêm 
trọng và đặc biệt nghiêm trọng như xả thải gây 
ô nhiễm môi trường; trốn đóng bảo hiểm xã hội 
hàng chục tỷ đồng; buôn lậu, sản xuất hàng giả; 
thăm dò, khai thác tài nguyên... nhưng đều dừng 
lại ở mức xử lý hành chính, gây ảnh hưởng tiêu 
cực đến kinh tế - xã hội và gây bức xúc trong dư 
luận. Vì vậy, để nâng cao hiệu lực của pháp luật 
trong xử lý tội phạm đối với PNTM phạm tội, các 
cơ quan tiến hành tố tụng cần tập trung điều tra, 
xử lý nghiêm minh các trường hợp này, qua đó 
góp phần đấu tranh, răn đe, phòng ngừa tội phạm 
là PNTM.
121
4. Kết luận
Tuy còn những hạn chế nhất định đối với quy 
định PNTM là tội phạm, nhưng BLHS 2015 vẫn 
thể hiện quan điểm về sự hội nhập quốc tế trong 
công tác lập pháp của nước ta, cũng như xuất 
phát từ yêu cầu thực tiễn nhằm đấu tranh, ngăn 
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật do PNTM 
gây ra. Mặc dù BLHS đã có hiệu lực từ hai năm 
nay nhưng đến nay vẫn chưa có những văn bản 
hướng dẫn áp dụng quy định này một cách thống 
nhất, đầy đủ cũng như chưa khởi tố, điều tra, truy 
tố, xét xử đối với PNTM nào nên sẽ còn rất nhiều 
vấn đề nảy sinh trong quá trình áp dụng. Vì vậy, 
việc nghiên cứu, rút kinh nghiệm vẫn phải tiếp 
tục để chế định này thật sự đi vào cuộc sống.
Tài liệu tham khảo
[1] Chuyên mục pháp luật (2015) “Làm rõ mối quan hệ 
giữa trách nhiệm hình sự của cá nhân với pháp nhân”, 
Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế https://tinhuytthue.vn/tin-tuc-
trong-nuoc/pl/lam-ro-moi-quan-he-giua-trach-nhiem-
hinh-su-cua-ca-nhan-voi-phap-nhan.htm.
[2] Quốc hội, Bộ luật Dân sự năm 2015 (bổ sung, sửa đổi 
năm 2017) Điều 74.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
mot_so_van_de_ve_phap_nhan_thuong_mai_trong_phap_luat_hinh_s.pdf