Một số vấn đề về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của tòa án nhân dân
Vậy khi nào mới đủ điều kiện áp
dụng? Khi khiếu nại của người khởi kiện
chưa được cơ quan có thẩm quyền thụ
lý giải quyết, người khởi kiện đã khởi
kiện vụ án tại Tòa án nhân dân có thẩm
quyền; trường hợp khiếu nại đã được
thụ lý giải quyết thì người khởi kiện chỉ
được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình khi hết thời hạn giải quyết khiếu
nại mà khiếu nại không được giải quyết
hoặc đã được giải quyết nhưng không
đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại
theo quy định tại khoản 1 Điều 115 Luật
TTHC năm 2015. Do đó, trong trường
hợp này, Tòa án nhân dân cần trả lại đơn
khởi kiện vụ án hành chính cho người
khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều
123 Luật TTHC năm 2015.
Từ những vướng mắc, bất cập trên,
để đảm bảo chất lượng giải quyết vụ án
nói chung, hiệu quả công tác của các cơ
quan tiến hành tố tụng hành chính, đảm
bảo tính thống nhất khi áp dụng quy
định của Luật TTHC năm 2015 trong
hoạt động tố tụng hành chính, đề nghị
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cần nghiên cứu và sớm ban hành văn
bản hướng dẫn thực hiện quy định của
Luật TTHC năm 2015 về thẩm quyền
giải quyết của Tòa án, đảm bảo quy
định của pháp luật có tính khả thi trong
thực tiễn./.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của tòa án nhân dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
64
Một số vấn đề về thẩM quyền giải quyết vụ án hành chính...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định đoạt vấn đề theo pháp luật.1 Thẩm quyền xét xử vụ
án hành chính của Tòa án nhân dân có
thể hiểu là quyền xem xét và quyết định
hoạt động giải quyết vụ án hành chính
theo quy định của pháp luật. Thẩm
quyền giải quyết vụ án hành chính của
1 Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt - NXB Đà
Nẵng
Tòa án nhân dân được Luật TTHC năm
2015 quy định tại các điều 30, 31, 32, 33;
trong đó quy định thẩm quyền của Tòa
án nhân dân theo loại việc; thẩm quyền
theo các cấp Tòa án; thẩm quyền theo
lãnh thổ và thẩm quyền trong trường
hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn
khởi kiện. Trong thực tiễn hoạt động tố
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
* Giảng viên Khoa Pháp luật quốc tế, Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội.
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (Luật TTHC năm 2015) quy định khá
đầy đủ và cụ thể thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với việc giải quyết các
khiếu kiện hành chính. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính
cho thấy, việc xác định thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với việc xét xử vụ
án hành chính không phải lúc nào cũng dễ dàng. Vì vậy, việc nhận thức thống
nhất quy định của pháp luật tố tụng hành chính là cơ sở đảm bảo hiệu quả áp
dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết vụ án. Xác định thẩm quyền giải
quyết vụ án hành chính là căn cứ xác định Tòa án có trách nhiệm giải quyết
đối với yêu cầu khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi quyền, lợi ích hợp
pháp của họ bị xâm phạm.
Từ khóa: Thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính, Tòa án nhân dân, Luật
tố tụng hành chính năm 2015, khiếu kiện hành chính.
Law on Administrative procedures in 2015 has prescribed quite fully and
specifically on jurisdictions of the People’s Court in resolving administrative
complaints. However, in the process of dealing with adminstrative cases, the
determination of jurisdictions of the People’s Court in resolving them has not
been always easy. Therefore, consistent perceptions on adminstrative procedure
regulations are basis to ensure effective legal application in handling these
cases. The determination of jurisdictions in resolving administrative cases are
foundation to determine that the Court is responsible for resolving individuals,
agenvies and organizations’ lawsuit claims in case their legitimate rights and
interests are violated.
Keywords: Jurisdictions in resolving administrative cases, the People’s
Court, Law on Administrative procedures in 2015, administrative complaints.
NguyễN ĐứC Tâm*
65Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
NguyễN Đức Tâm
tụng hành chính, việc nhận thức và áp
dụng các quy định về thẩm quyền giải
quyết vụ án hành chính của Tòa án còn
chưa thống nhất, ảnh hưởng đến chất
lượng công tác xét xử nói riêng, hiệu
quả hoạt động của cơ quan nhà nước nói
chung, trong phạm vi bài viết, tác giả chỉ
đề cập đến hai nội dung thường có nhận
thức khác nhau như sau:
1. Nhận thức về quy định “sự việc
không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án”
Sự việc thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án bằng một vụ án hành chính
theo thủ tục tố tụng hành chính là nội
dung cần làm rõ từ giai đoạn xem xét đơn
khởi kiện. Trong đó, nếu sự việc không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
thì Thẩm phán được phân công xem xét
đơn khởi kiện phải ra quyết định trả lại
đơn khởi kiện theo quy định tại điểm đ
khoản 1 Điều 123 Luật TTHC năm 2015.
Trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án để giải
quyết theo thủ tục chung mới phát hiện
“sự việc không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án” thì Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án hành chính
phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều
143 Luật TTHC năm 2015. Vậy, “sự việc
không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án” được hiểu như thế nào? Căn cứ
nào để xác định sự việc có thuộc thẩm
quyền của Tòa án hay không? Sau đây là
một tình huống thực tiễn:
Ông Trần Văn A nhận được quyết
định thu hồi đất số 25/QĐ - UBND của
Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh N. Không
đồng ý với quyết định thu hồi đất nói
trên, ông Trần Văn A đã gửi đơn khởi
kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa
án nhân dân huyện T, tỉnh N giải quyết
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Sau khi tiến hành xem xét đơn
khởi kiện và các tài liệu kèm theo, Tòa án
nhân dân huyện T, tỉnh N đã ra văn bản
trả lại đơn khởi kiện cho ông Trần Văn
A với lý do “sự việc không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án” theo quy
định tại khoản điểm đ khoản 1 Điều 123
Luật TTHC năm 2015. Trường hợp này,
Tòa án nhân dân huyện T trả lại đơn khởi
kiện cho ông Trần Văn A có đúng căn cứ
pháp luật không? Về vấn đề này hiện có
hai quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc trả
lại đơn khởi kiện vụ án hành chính của
Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh N là đúng
căn cứ, bởi lẽ: đối tượng khởi kiện trong
trường hợp này là quyết định thu hồi đất
số 25/QĐ - UBND của Ủy ban nhân dân
huyện T; theo quy định tại khoản 4 Điều
32 Luật TTHC năm 2015, Tòa án nhân
dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm đối với “khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính
của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm
vi địa giới với Tòa án”. Như vậy, đối với
yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn A,
Tòa án nhân dân huyện T không có thẩm
quyền giải quyết, mà thuộc thẩm quyền
của Tòa án nhân dân tỉnh N, nên Tòa án
nhân dân huyện T, tỉnh N trả lại đơn
khởi kiện cho ông Trần Văn A là đúng và
có căn cứ pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng, việc trả
lại đơn khởi kiện của Tòa án nhân dân
huyện T là không đúng căn cứ pháp luật,
66
Một số vấn đề về thẩM quyền giải quyết vụ án hành chính...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
bởi lẽ: Tòa án nhân dân huyện T , tỉnh N
đã áp dụng căn cứ pháp luật chưa chính
xác, do nhận thức quy định của pháp
luật chưa đúng. Trường hợp này, sự việc
hoàn toàn thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án vì theo quy định tại Điều 30
Luật TTHC năm 2015, Tòa án có thẩm
quyền giải quyết các khiếu kiện sau:
“1. Khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính, trừ các quyết định, hành
vi sau đây:
a) Quyết định hành chính, hành vi hành
chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong
các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao
theo quy định của pháp luật;
b) Quyết định, hành vi của Tòa án trong
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử
lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng;
c) Quyết định hành chính, hành vi hành
chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức”
Như vậy, căn cứ khoản 1 Điều 30 Luật
TTHC năm 2015, đối tượng khởi kiện
trong tình huống trên là quyết định hành
chính, thỏa mãn quy định tại khoản 1, 2
Điều 3 Luật TTHC năm 2015 và không
thuộc các các trường hợp tại điểm a, b, c
khoản 1. Do đó, quyết định thu hồi đất
số 25/QĐ - UBND thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án, việc Tòa án huyện T trả
lại đơn khởi kiện cho ông Trần Văn A là
trái pháp luật, ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của ông Trần Văn A.
Chúng tôi nhất trí với quan điểm thứ
hai, “sự việc không thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án” được hiểu là sự
việc không thuộc thẩm quyền của Tòa
án theo vụ việc, nghĩa là khi đối tượng
khởi kiện không thuộc các loại khiếu
kiện được quy định tại Điều 30 của Luật
TTHC năm 2015 (thẩm quyền theo loại
việc) thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện;
trường hợp đối tượng khởi kiện đảm bảo
các quy định tại Điều 30 nhưng không
đảm bảo quy định tại Điều 31 và 32 Luật
TTHC năm 2015 (thẩm quyền theo các
cấp, thẩm quyền theo lãnh thổ) thì Tòa
án cần chuyển đơn khởi kiện đến Tòa án
nhân dân có thẩm quyền giải quyết theo
quy định tại điểm c khoản 3 Điều 121
Luật TTHC năm 2015. Nếu Tòa án đã thụ
lý vụ án để giải quyết vụ án, sau đó mới
phát hiện vụ việc thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án khác thì Tòa án phải ra
quyết định chuyển vụ án theo quy định
tại Điều 34 Luật TTHC năm 2015.
Như vậy, trong trường hợp này Tòa
án nhân dân huyện T, tỉnh N đã áp dụng
căn cứ trả lại đơn khởi kiện chưa chính
xác, người khởi kiện có quyền khiếu
nại, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp
có quyền kiến nghị việc trả lại đơn khởi
kiện theo quy định của pháp luật tố tụng
hành chính.
2. Xác định thẩm quyền trong trường
hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn
khởi kiện vụ án hành chính
So với Luật TTHC năm 2010, việc xác
định thẩm quyền giải quyết vụ việc hành
chính trong trường hợp vừa có khiếu nại,
vừa có đơn khởi kiện được Luật TTHC
năm 2015 quy định đầy đủ, chi tiết hơn
do đã luật hóa các nội dung hướng dẫn
áp dụng Luật TTHC năm 2010, tạo điều
kiện thuận lợi để các cơ quan tiến hành
tố tụng hành chính thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn khi xem xét, giải quyết vụ án.
67Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
NguyễN Đức Tâm
Theo đó, trường hợp người khởi kiện
có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại
Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại thì Tòa án phải yêu cầu
người khởi kiện lựa chọn cơ quan giải
quyết và có văn bản thông báo cho Tòa
án. Trường hợp người khởi kiện không
thể tự mình làm văn bản thì đề nghị Tòa
án lập biên bản về việc lựa chọn cơ quan
giải quyết. Tùy từng trường hợp cụ thể
Tòa án xử lý như sau:
Nếu người khởi kiện lựa chọn Tòa án
giải quyết thì Tòa án thụ lý giải quyết vụ
án theo thủ tục chung, đồng thời thông
báo cho người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại và yêu cầu người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại chuyển toàn
bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Tòa án;
Nếu người khởi kiện lựa chọn người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải
quyết thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện và
các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện
theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều
123 Luật TTHC năm 20152.
Ngoài ra, Luật TTHC năm 2015 cũng
quy định cụ thể việc xác định thẩm
quyền giải quyết tranh chấp hành chính
trong trường hợp có nhiều người vừa
khởi kiện vụ án hành chính, vừa khiếu
nại đến người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại. Tuy nhiên, thực tiễn giải
quyết vụ án hành chính nói chung, việc
áp dụng quy định của Luật TTHC năm
2015 về xác định thẩm quyền giải quyết
vụ việc trong trường hợp này vẫn chưa
thống nhất, cần được hướng dẫn thi
2 Khoản 1 Điều 33 Luật TTHC năm 2015
hành cụ thể, đảm bảo việc áp dụng pháp
luật được chính xác và thống nhất, thể
hiện qua tình huống như sau:
Ngày 10/5/2018, bà Nguyễn Thị V
nhận được quyết định giao đất số 18/
QĐ - UBND của Ủy ban nhân dân
huyện K, tỉnh H. Cho rằng quyết định
giao đất số 18/QĐ - UBND của Ủy ban
nhân dân huyện K là không đúng căn
cứ pháp luật, vị trí thửa đất không đúng
với hồ sơ thực tế nên ngày 27/5/2018,
bà Nguyễn Thị V đã làm đơn khiếu nại
gửi đến Ủy ban nhân dân huyện K xem
xét, giải quyết. Ngày 05/6/2018, Ủy ban
nhân dân huyện K đã thụ lý đơn khiếu
nại của bà Nguyễn Thị V và gửi văn bản
thông báo cho bà V biết. Ngày 25/6/2018,
do chưa nhận được bất kỳ văn bản trả
lời nào của Ủy ban nhân dân huyện
K về việc giải quyết khiếu nại nên bà
Nguyễn Thị V đã gửi đơn khởi kiện yêu
cầu Tòa án nhân dân tỉnh H giải quyết
theo thủ tục tố tụng hành chính. Tòa
án nhân dân tỉnh H đã áp dụng Điều
33 Luật TTHC năm 2015 để yêu cầu bà
Nguyễn Thị V lựa chọn cơ quan có thẩm
quyền giải quyết.
Việc Tòa án nhân dân tỉnh H áp dụng
Điều 33 Luật TTHC năm 2015 để yêu
cầu người khởi kiện lựa chọn cơ quan có
thẩm quyền giải quyết trong trường hợp
trên có đúng căn cứ pháp luật không,
vấn đề này cũng có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa
án nhân dân tỉnh H áp dụng Điều 33
Luật TTHC năm 2015 là đúng căn cứ
pháp luật, vì trước khi thực hiện quyền
khởi kiện vụ án hành chính, người khởi
kiện đã thực hiện việc khiếu nại đến cơ
68
Một số vấn đề về thẩM quyền giải quyết vụ án hành chính...
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
quan nhà nước có thẩm quyền, người
khởi kiện chưa rút đơn khiếu nại, vụ
việc đang được Ủy ban nhân dân huyện
K giải quyết. Do đó, để xác định cơ quan
có thẩm quyền giải quyết thì cần áp
dụng Điều 33 Luật TTHC năm 2015 để
người khởi kiện lựa chọn cơ quan giải
quyết; nếu người khởi kiện lựa chọn cơ
quan có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho
người khởi kiện, nếu người khởi kiện
lựa chọn Tòa án thì Tòa án thực hiện các
thủ tục luật định để giải quyết theo thủ
tục chung.
Quan điểm thứ hai cho rằng, Tòa án
nhân dân tỉnh H áp dụng Điều 33 Luật
TTHC năm 2015 là chưa chính xác, bởi lẽ
điều kiện để áp dụng Điều 33 Luật TTHC
năm 2015 là người khởi kiện phải “đồng
thời” thực hiện quyền khởi kiện vụ án và
quyền khiếu nại hành chính. Trong tình
huống trên, bà Nguyễn Thị V không đủ
điều kiện để người khởi kiện thực hiện
quyền lựa chọn cơ quan có thẩm quyền
giải quyết. Bởi vì, theo Từ điển Tiếng
Việt, “đồng thời” được hiểu là cùng xảy
ra một lúc; các sự kiện, hoạt động cùng
xảy ra một thời điểm3. Tình huống trên,
ngày 27/5/2018 bà Nguyễn Thị V đã làm
đơn khiếu nại, ngày 05/6/2018, Ủy ban
nhân dân huyện K đã thụ lý đơn khiếu
nại, đến ngày 25/6/2018, người khởi kiện
mới gửi đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án
nhân dân tỉnh H giải quyết. Do đó, Tòa
án nhân dân tỉnh H áp dụng Điều 33 Luật
TTHC năm 2015 để người khởi kiện lựa
chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết
là không đúng căn cứ.
3 Từ điển Tiếng Việt - NXB Hồng Đức
Chúng tôi đồng tình với quan điểm
thứ hai, trong tình huống trên không
đảm bảo điều kiện áp dụng Điều 33 Luật
TTHC năm 2015.
Vậy khi nào mới đủ điều kiện áp
dụng? Khi khiếu nại của người khởi kiện
chưa được cơ quan có thẩm quyền thụ
lý giải quyết, người khởi kiện đã khởi
kiện vụ án tại Tòa án nhân dân có thẩm
quyền; trường hợp khiếu nại đã được
thụ lý giải quyết thì người khởi kiện chỉ
được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình khi hết thời hạn giải quyết khiếu
nại mà khiếu nại không được giải quyết
hoặc đã được giải quyết nhưng không
đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại
theo quy định tại khoản 1 Điều 115 Luật
TTHC năm 2015. Do đó, trong trường
hợp này, Tòa án nhân dân cần trả lại đơn
khởi kiện vụ án hành chính cho người
khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều
123 Luật TTHC năm 2015.
Từ những vướng mắc, bất cập trên,
để đảm bảo chất lượng giải quyết vụ án
nói chung, hiệu quả công tác của các cơ
quan tiến hành tố tụng hành chính, đảm
bảo tính thống nhất khi áp dụng quy
định của Luật TTHC năm 2015 trong
hoạt động tố tụng hành chính, đề nghị
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cần nghiên cứu và sớm ban hành văn
bản hướng dẫn thực hiện quy định của
Luật TTHC năm 2015 về thẩm quyền
giải quyết của Tòa án, đảm bảo quy
định của pháp luật có tính khả thi trong
thực tiễn./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_tham_quyen_giai_quyet_vu_an_hanh_chinh_cua.pdf