Trong bối cảnh sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học kỹ thuật, việc ứng dụng
các thành tựu khoa học trong hoạt động
tư pháp, xây dựng một nền tư pháp hiện
đại nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và lợi
ích của người dân, Nhà nước là một định
hướng đúng đắn. Trong đó, tập trung vào
một số phương hướng như:
- Tăng cường xây dựng hệ thống hỗ
trợ tư pháp thông minh và cải thiện các
chức năng lưu trữ, so sánh, trích xuất dữ
liệu tư pháp; Thúc đẩy thành lập một nền
tảng xử lý dữ liệu lớn trong lĩnh vực tư
pháp có khả năng liên thông để đạt được
khả năng tương tác, truyền dữ liệu tự
động và chia sẻ tài nguyên phục vụ hoạt
động tư pháp; Xây dựng cơ chế quản lý
và sử dụng dữ liệu tư pháp; Thiết lập hệ
thống bảo vệ an ninh cho cơ sở hạ tầng
thông tin quan trọng cho các cơ quan tư
pháp;
- Nghiên cứu, thúc đẩy ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ như
nhận dạng giọng nói, video từ xa, hỗ trợ
thông minh và hồ sơ điện tử, khởi kiện
điện tử trong hoạt động tư pháp;
- Xây dựng các Tòa án thông minh
trên nền tảng Internet, trí tuệ nhân tạo và
cơ sở hạ tầng thông tin tư pháp tích hợp
đầy đủ được hỗ trợ bởi điện toán đám
mây. Xây dựng phần mềm và củng cố cơ
sở hạ tầng như các phiên tòa xét xử từ xa,
tòa kỹ thuật số và giảm thời gian xử lý các
vụ kiện./.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về tư duy và định hướng cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn tới (Kỳ 2 và hết), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
49Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
NGUYỄN MINH KHUÊ
2. Bảo đảm quyền tư pháp; bảo đảm
độc lập tư pháp và trách nhiệm giải trình
- những giá trị cốt lõi của cải cách tư pháp
2.1. Bảo đảm quyền tư pháp
Quá trình lập hiến của Việt Nam từ
năm 1946 đến nay cho thấy, mặc dù với
cách thể hiện khác nhau nhưng các bản
Hiến pháp cũng đã định hình khá rõ nét
các nhánh quyền lực tạo nên quyền lực
nhà nước. Tuy nhiên, lần đầu tiên trong
lịch sử lập hiến, Hiến pháp năm 2013 xác
định Tòa án là cơ quan xét xử của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp, qua đó đã phân
định rõ chủ thể thực hiện các bộ phận cấu
thành quyền lực nhà nước.
Hiện nay, các quan điểm về quyền tư
pháp ở Việt Nam có một số nội dung đã
đạt được sự đồng thuận, ví dụ như: khẳng
định xác định quyền tư pháp là một trong
ba nhánh quyền lực nhà nước; mục đích,
vai trò của quyền tư pháp; biểu hiện của
quyền tư pháp, cơ sở phát sinh quyền tư
pháp, nguyên tắc hoạt động Tuy nhiên,
liên quan đến chủ thể thực hiện quyền tư
pháp, hiện nay có nhiều quan điểm khác
nhau. Có quan điểm cho rằng, Toà án là
cơ quan thực hiện quyền tư pháp, với hệ
thống cơ quan tham gia thực hiện quyền
tư pháp như: Điều tra, Viện kiểm sát, Thi
hành án, Luật sư, và các cơ quan bổ trợ tư
pháp khác.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho
rằng, Toà án là cơ quan duy nhất thực
hiện quyền tư pháp, bởi bản chất và các
nguyên tắc hoạt động của quyền tư pháp
khác so với các quyền khác. Quyền lập
pháp là việc đưa ra các quy tắc xử sự
chung có tính bắt buộc đối với công dân,
cơ quan, tổ chức trong xã hội; quyền hành
pháp là quyền thực thi các quy tắc do cơ
quan lập pháp ban hành; và quyền tư
pháp xem xét việc áp dụng các quy tắc đó
trong các tranh chấp cụ thể. Hay nói cách
khác, lập pháp là hoạt động xác lập quyền
trong tương lai; hoạt động hành pháp là
thi hành quyền trong hiện tại; và hoạt
động tư pháp là đánh giá việc thực hiện
quyền trong quá khứ. Quyền lập pháp đại
diện cho lợi ích của cử tri, hay một nhóm
đối tượng nhất định trong xã hội; quyền
tư pháp không chỉ bảo vệ quyền của
người dân, mà còn bảo vệ công lý. Quyền
tư pháp với các đặc điểm bị chi phối của
nguyên tắc độc lập xét xử, nguyên tắc
tranh tụng có sự khác biệt so với quyền
hành pháp, với đặc trưng của hoạt động
mang tính hành hành chính công vụ, mối
quan hệ cấp trên - cấp dưới
Các đạo luật về tổ chức và hoạt động
các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các
đạo luật về tố tụng tư pháp được ban
hành trong thời gian qua đã bước đầu
thể chế hoá tinh thần của Hiến pháp
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƯ DUY VÀ ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI (KỲ 2 VÀ HẾT)
NGUYỄN MINH KHUÊ *
* Tiến sĩ, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
50
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƯ DUY VÀ ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở ...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
năm 2013 liên quan đến quyền tư pháp,
cơ quan thực hiện quyền tư pháp như:
quy định Toà án trong quá trình xét xử
phát hiện văn bản pháp luật vi hiến thì có
quyền dừng xét xử và đề nghị cơ quan có
thẩm quyền trả lời hoặc sửa đổi làm cơ sở
để Toà án giải quyết vụ án1; Toà án không
được từ chối thụ lý giải quyết vụ án vì lý
do luật chưa quy định2; Toà án nhân dân
tối cao có nhiệm vụ phát triển án lệ3
Tuy nhiên, việc thể chế hoá tinh thần của
Hiến pháp năm 2013 về việc xác định Toà
án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền
tư pháp trong các luật hiện nay còn chưa
được đầy đủ. Cụ thể: Trong mối quan hệ
giữa các cơ quan thực hiện quyền hành
pháp và tư pháp, Chính phủ đang thực
hiện một phần của chức năng Toà án thông
qua việc thực hiện chức năng xử lý hành
chính; chưa có cơ chế giám sát giữa Chính
phủ và Toà án và ngược lại, Toà án chưa
thực hiện đầy đủ chức năng của quyền
tư pháp thông qua thực hiện việc xét xử
đưa ra phán quyết của mình đối với các
hoạt động của Chính phủ; biểu hiện phối
hợp giữa cơ quan hành pháp và cơ quan
tư pháp còn chưa phù hợp với nguyên tắc
hoạt động của quyền tư pháp; trong mối
quan hệ giữa cơ quan thực hiện quyền tư
pháp và quyền lập pháp, Quốc hội đang
thực hiện chức năng của tư pháp thông
1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 (Điều 2,
khoản 7), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (Điều
47, khoản 1, điểm h; Điều 221), Luật Tố tụng hành
chính (Điều 37, khoản 1, điểm i; các điều 112, 113,
114) và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Điều
265)
2 Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
3 Khoản 3 Điều 104 Hiến pháp năm 2013, khoản 2
Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014
qua việc xem xét lại các bản án đã có hiệu
lực pháp luật; chức năng giải thích luật
của Toà án còn chưa thực sự bảo đảm
2.2. Bảo đảm độc lập tư pháp và trách
nhiệm giải trình của Toà án
* Độc lập tư pháp
Độc lập tư pháp là một trong những
giá trị chung, cơ bản của mọi chế độ dân
chủ, của nhà nước pháp quyền. Độc lập
tư pháp là yêu cầu cơ bản của quyền tư
pháp trong cơ chế thực hiện quyền lực
nhà nước, đảm bảo cho quyền tư pháp
thực hiện chức năng của mình, ngăn chặn
việc lạm dụng quyền lực giữa các nhánh
quyền lực của nhà nước, bảo vệ công lý
và công bằng xã hội. Hiến pháp năm 2013
đã xác định Tòa án nhân dân (TAND) là
cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Điều
102) và “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân khi
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; ng-
hiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp
vào việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm”
(Điều 103).
Quá trình cải cách tư pháp (CCTP)
ở Việt Nam thời gian qua đã có những
bước phát triển nhằm đảm bảo thực hiện
tốt hơn nguyên tắc độc lập xét xử, biểu
hiện của việc đã có sự tách bạch hơn so
với hành pháp; quy trình bổ nhiệm Thẩm
phán thông qua thi tuyển nhằm giảm sự
can thiệp của các cơ quan chính quyền
địa phương, cũng như tạo mặt bằng đồng
đều về trình độ của các ứng cử viên tham
gia tuyển chọn; nhiệm kỳ của Thẩm phán
được kéo dài hơn trong trường hợp bổ
nhiệm lại, quy tắc đạo đức và ứng xử của
Thẩm phán đã được ban hành làm cơ sở
để đánh giá Thẩm phán; chế độ Hội thẩm
nhân dân đã có những thay đổi nhằm
51Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
NGUYỄN MINH KHUÊ
đảm bảo sự độc lập, không chịu sự quản
lý của Toà án
Tuy nhiên, vẫn còn có những hạn chế
nhằm đảm bảo nguyên tắc độc lập của
Toà án, cụ thể:
- Chưa xây dựng được cơ chế đồng
bộ, khoa học để quản lý TAND về mặt tổ
chức nhằm đảm bảo tính độc lập, khách
quan;
- Công tác quản lý hành chính tư
pháp trong Toà án hiện nay chưa có đổi
mới (cơ chế phân công án, khen thưởng,
kỷ luật, điều động, cử các lớp đào tạo, bồi
dưỡng) nên chưa đảm bảo thực hiện
nguyên tắc độc lập; nhiệm kỳ của Thẩm
phán, mặc dù đã đổi mới nhưng vẫn chưa
đảm bảo cho Thẩm phán an tâm thực hiện
nhiệm vụ. Chế độ thang bảng lương vẫn
như cán bộ công chức khác; chưa có chế
độ đãi ngộ hợp lý để Thẩm phán yên tâm
thực hiện chức năng xét xử, không bị chi
phối bởi các quan hệ hành chính và sự tác
động bởi các yếu tố lợi ích...;
+ Chưa sắp xếp tinh gọn được tổ chức,
bộ máy TAND cấp sơ thẩm, Toà án chưa
thực sự tách bạch với chính quyền địa
phương, điều này dẫn đến những hạn
chế, chưa thực sự đảm bảo tính độc lập;
+ Ở Việt Nam, tác động của truyền
thông đối với các quyết định của Thẩm
phán chưa được chứng minh, nhưng rõ
ràng những biểu hiện gần đây của báo
chí, đặc biệt là các mạng xã hội (blog,
facebook) đang có những tác động nhất
định theo cả hướng tích cực và tiêu cực.
Một mặt, truyền thông đem lại sự giám
sát mạnh mẽ đối với các hành vi tiêu cực
của tư pháp. Mặt khác, truyền thông cũng
tác động tiêu cực nhất định, đe dọa không
kém gì các tác nhân khác ảnh hưởng đến
độc lập tư pháp4, biểu hiện ở việc đưa tin
phiến diện, chủ quan và có sự tác động
của các đối tượng trong vụ việc Tuy
nhiên, hiện nay chúng ta chưa cơ chế bảo
vệ Thẩm phán trước sự tác động tiêu cực
của thông tin, dư luận xã hội.
*Trách nhiệm giải trình
Độc lập tư pháp luôn gắn liền với
quyền tự chủ của Thẩm phán và Toà án,
là quyền thực hiện các nhiệm vụ của mình
trên cơ sở luật pháp. Quan niệm về độc
lập Tòa án mang tính khép kín, chỉ trong
việc xét xử tuân theo pháp luật trước đây
đã dần thay đổi. Tòa án không chỉ thực
hiện chức năng xét xử mà còn có trách
nhiệm giải trình, trách nhiệm chứng minh
và tạo niềm tin của công chúng đối với
các phán quyết của mình là vô tư, khách
quan, không thiên vị, không bị can thiệp,
hay nói cách khác là chứng minh tính độc
lập của nó. Ở khía cạnh khác, Tòa án cũng
phải đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động
(không có án tồn đọng, án quá hạn),
tính minh bạch trong quá trình sử dụng
các nguồn lực nhà nước (cơ sở vật chất, tài
chính, con người...). Tư pháp không phải
chỉ được thực hiện mà phải được nhìn
thấy được thực hiện để tạo ra niềm tin cho
công chúng.
Để thực hiện trách nhiệm giải trình,
tư pháp cần phải đảm bảo sự minh bạch.
Minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
tư pháp là một phương thức quan trọng
để góp phần tạo sự công bằng tư pháp,
4 Law and Policy Reform at theAsian Development
Bank , 2003, page 19
52
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƯ DUY VÀ ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở ...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
ngăn ngừa tham nhũng trong hệ thống tư
pháp và nâng cao sự tin cậy của tư pháp,
đồng thời nhằm thực hiện các nguyên tắc
hiến pháp, các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động tư pháp, bảo vệ quyền của công dân
trong hoạt động tố tụng.
Ở Việt Nam, trong những năm gần
đây cho thấy, TAND đã chú trọng đến tính
minh bạch của Toà án như: Đăng công
khai các bản án, chú trọng cung cấp thông
tin hoạt động của Toà án, quy chế hoá
các quy định khen thưởng, xử lý, kỷ luật
Thẩm phán, tăng cường công khai thông
tin của Toà án liên quan đến công tác xét
xử, các văn bản của Toà án, các lịch tiếp
công dân; hỗ trợ và trợ giúp nhân dân
Tuy nhiên, trong giai đoạn tới, đối mặt với
yêu cầu mới của Đảng và Nhà nước, kỳ
vọng mới của người dân và những thách
thức mới trong kỷ nguyên thông tin, việc
tăng cường minh bạch tư pháp trở nên
quan trọng và cấp bách hơn. Khi quá
trình xây dựng pháp luật tăng tốc, công
chúng có kỳ vọng cao hơn về tính minh
bạch của tư pháp. Với sự phát triển nhanh
chóng của dữ liệu lớn, điện toán đám mây
và phương tiện truyền thông mới, tốc độ,
mô hình phổ biến thông tin thay đổi rất
nhiều và nhu cầu của công chúng về tăng
cường thông tin tư pháp, việc thúc đẩy sự
minh bạch của tư pháp trong tình hình
mới đang phải đối mặt với những thách
thức lớn.
Với những phân tích trên, chúng tôi
cho rằng, CCTP trong thời gian tới cần
tiếp tục tập trung hoạt động cải cách vào
đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án,
đảm bảo thực hiện đúng quyền tư pháp,
tiếp tục có giải pháp tăng cường độc lập
xét xử và nâng cao trách nhiệm giải trình
của Toà án với một số nhiệm vụ, giải
pháp sau:
- Trên cơ sở xác định Toà án là cơ quan
duy nhất thực hiện quyền tư pháp, cần sửa
các luật tổ chức và các luật có liên quan
theo hướng Toà án là cơ quan duy nhất
thực hiện chức năng xét xử, phán quyết
liên quan đến quyền con người, quyền
công dân, các tranh chấp trong xã hội. Rà
soát loại bỏ những cơ chế phối hợp giữa các
nhánh quyền lực ảnh hưởng đến nguyên
tắc hoạt động của quyền tư pháp. Mở rộng
quyền kiểm soát của Toà án đối với các
nhánh quyền lực khác như: quyền xem xét
các văn bản pháp luật vi hiến; đồng thời
đảm bảo quyền kiểm soát của hành pháp
đối với tư pháp thông qua việc thực hiện
chức năng công tố của Chính phủ;
- Quy định các điều kiện và nội dung
để TAND thực sự trở thành cơ quan thực
hiện quyền tư pháp. Cơ chế giám sát chặt
chẽ nhằm bảo đảm Thẩm phán và Hội
thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật;
- Luật hoá cơ chế quản lý, đánh giá,
nhận xét, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen
thưởng, kỷ luật đối với Thẩm phán; điều
chỉnh nhiệm kỳ của Thẩm phán theo
hướng kéo dài hơn. Xây dựng thang bảng
lương riêng và có chế độ đãi ngộ hợp lý
để Thẩm phán yên tâm thực hiện chức
năng xét xử, không bị chi phối bởi các
quan hệ hành chính và sự tác động bởi các
yếu tố lợi ích...; xây dựng cơ chế báo cáo
các hành vi can thiệp hoạt động xét xử; xử
lý nghiêm minh những cơ quan, tổ chức,
cá nhân can thiệp trái pháp luật vào hoạt
động của Tòa án;
- Thiết lập mô hình Hội đồng tư pháp
53Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
NGUYỄN MINH KHUÊ
quốc gia - Mô hình độc lập với các cơ
quan Tư pháp trực thuộc Chủ tịch nước,
trong đó các vấn đề quản lý hành chính,
công tác quản lý tài sản, tài chính và tổ
chức, nhân sự của Tòa án, công tác đào
tạo bồi dưỡng, theo dõi, khen thưởng kỷ
luật Thẩm phán sẽ do cơ quan này đảm
nhiệm nhằm loại bỏ quan hệ hành chính
cấp trên, cấp dưới giữa các cấp Toà án;
- Thu gọn đầu mối các cơ quan TAND
cấp huyện theo hướng thành lập Toà án
nhân dân khu vực, không phụ thuộc vào
đơn vị hành chính, tạo điều kiện để Nhà
nước tập trung nguồn lực về tài chính
tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, trang thiết bị và phương tiện làm
việc; hiện đại hóa hệ thống các cơ quan tư
pháp; bảo đảm việc đầu tư có hiệu quả,
tiết kiệm ngân sách, khắc phục tình trạng
đầu tư manh mún, dàn trải;
- Tiếp tục tăng thẩm quyền cho
TAND cấp huyện (Toà án sơ thẩm khu
vực) theo hướng xét xử sơ thẩm hầu hết
các vụ, việc; TAND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chủ yếu xét xử phúc
thẩm các bản án, quyết định của TAND
sơ thẩm khu vực có kháng cáo, kháng
nghị; TAND cấp cao chủ yếu xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định
của TAND cấp dưới đã có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng nghị; TAND tối cao
chủ yếu tập trung tổng kết thực tiễn xét
xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp
luật trong xét xử của cả hệ thống;
- Tiếp tục đổi mới chế định Hội thẩm
nhân dân theo hướng đảm bảo thực chất
quyền tham gia của nhân dân trong hoạt
động tư pháp; đảm bảo sự khách quan
trong hoạt động tố tụng;
- Cùng với việc tăng cường giám sát
hoạt động tư pháp và tiêu chuẩn hóa các
hành vi tư pháp, cần thúc đẩy sự cởi mở
tư pháp và thiết lập một hình ảnh đáng
tin cậy của Tòa án. Một mặt, tối ưu hóa và
tích hợp các chức năng khác nhau của nền
tảng công bố thông tin, mở rộng phạm vi
thực hiện công bố thông tin, công bố số liệu
tư pháp, số lượng và thúc đẩy việc thực
hiện thông tin xử lý vụ việc, thông tin của
người thi hành Mặt khác, tạo ra cơ chế
giao tiếp thông tin tương tác hai chiều để
tạo ra bầu không khí dư luận đúng đắn;
xây dựng các cơ chế đối phó, phản ứng
của Tòa án đối với các tình huống khác
nhau trong dự luận xã hội nhằm thể hiện
sự minh bạch và công bằng, tạo niềm tin
của công chúng đối với cơ quan và hoạt
động tư pháp.
3. Hiện đại hoá nền tư pháp
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
kỹ thuật hiện nay đã có những tác động
rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội
nói chung và trong hoạt động tư pháp
nói riêng. Internet, công nghệ sinh học,
công nghệ lưu trữ và truyền tải thông
tin bằng chuỗi khối (blockchains), trí tuệ
nhân tạo đã và đang đặt ra những thay
đổi liên quan đến chính sách pháp luật,
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp trong việc đầu tranh phòng chống vi
phạm pháp luật, giải quyết tranh chấp
Hiện nay, các cơ quan tư pháp Việt
Nam đã bước đầu có những nghiên cứu
và ứng dụng những thành tựu khoa học
kỹ thuật trong tổ chức và hoạt động của
mình. TAND tối cao đã xây dựng Hệ
thống gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu,
chứng cứ và cấp tống đạt, thông báo văn
54
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƯ DUY VÀ ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở ...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
bản tố tụng của Toà án bằng phương tiện
điện tử5; Hệ thống đăng ký trực tuyến cấp
sao, trích lục bản án, tài liệu trong hồ sơ
vụ án của Tòa án (triển khai trong toàn hệ
thống Toà án) là những hệ thống tích hợp
trên Cổng thông tin điện tử TAND tối cao.
Thông qua các hệ thống này, người dân
có thể nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, tài
liệu, chứng cứ bằng phương tiện điện tử
mà không cần trực tiếp đến Tòa án; Tòa án
cũng có thể nhanh chóng thông báo, tống
đạt giấy tờ, văn bản tố tụng cho đương
sự, người tham gia tố tụng bằng phương
thức điện tử. Việc yêu cầu TAND cấp sao
bản án, quyết định và các tài liệu trong hồ
sơ vụ án theo quy định của pháp luật tố
tụng cũng được thực hiện nhanh chóng,
đơn giản tại bất cứ nơi nào và vào bất kỳ
thời điểm nào. Trong lĩnh vực thi hành án
dân sự, thủ tục hỗ trợ trực tuyến về thi
hành án dân sự đã được đưa vào sử dụng
ở một số tỉnh/thành phố nhằm hỗ trợ các
đương sự rút ngắn thủ tục thi hành án
Tuy nhiên, có thể thấy việc ứng dụng
các thành tựu khoa học công nghệ trong
hoạt động tư pháp tố tụng ở Việt Nam
vẫn còn hạn chế, chủ yếu ở các mức cơ
bản, hướng tới rút ngắn thời gian, thủ tục
cho người dân mà còn chưa ứng dụng
một cách sâu rộng trong các hoạt động tư
pháp.
Ở các nước trên thế giới, việc ứng
dụng khoa học công nghệ trong hoạt động
tư pháp được tiến hành ngày càng sâu,
rộng. Châu Âu vừa kết thúc Kế hoạch Tư
pháp điện tử giai đoạn 2014-2018 với việc
sử dụng và phát triển công nghệ thông
5 Được triển khai thí điểm tại TAND cấp cao tại Hà
Nội, TAND hai cấp thành phố Hà Nội, Hải Phòng
và tỉnh Quảng Ninh
tin và truyền thông phục vụ các hệ thống
tư pháp của các quốc gia thành viên, đặc
biệt là trong các tình huống xuyên biên
giới nhằm cho phép tiếp cận nhiều hơn
đến công lý và thông tin tư pháp cho công
dân, doanh nghiệp và các nhà thực hành
pháp lý; tạo điều kiện hợp tác giữa các cơ
quan tư pháp của các quốc gia thành viên,
đồng thời nâng cao hiệu quả của chính
hệ thống tư pháp trong khi tôn trọng sự
độc lập và đa dạng của hệ thống tư pháp
của các quốc gia thành viên cũng như các
quyền cơ bản. Ngày 6/12/2018, Hội đồng
Tư pháp và Nội vụ đã chính thức thông
qua Chiến lược và kế hoạch hành động về
phát triển Tư pháp điện tử cho giai đoạn
2019-2023 theo hướng tiếp túc đẩy mạnh
việc ứng dụng công nghệ nhằm đơn giản
hoá việc tiếp cận công lý và tăng cường
các thủ tục pháp lý xuyên biên giới
Trung Quốc đã ứng dụng trí tuệ nhân
tạo (AI) nhằm cải thiện hiệu quả hệ thống
Tòa án và cho phép tăng khả năng tiếp
cận các dịch vụ tư pháp. Các Tòa án địa
phương ở 9 khu vực cấp tỉnh, bao gồm
Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Đông đã
chính thức ra mắt robot hỗ trợ các phòng
dịch vụ của Tòa án, nhằm tạo điều kiện
cho công chúng truy cập các hướng dẫn
về các thủ tục tố tụng tư pháp, ngoài ra
các robot còn có khả năng đánh giá, dự
đoán kết quả thắng kiện khi nộp đơn khởi
kiện. Các Tòa án Thượng Hải, Hà Nam đã
sử dụng công nghệ AI để quét và gửi hồ
sơ vụ án điện tử. Các Tòa án ở Thượng
Hải, Chiết Giang đã triển khai hệ thống
nhận dạng giọng nói ứng dụng AI để ghi
biên bản tự động trong thời gian diễn ra
các phiên tòa, phiên họp của Tòa án nhằm
55Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
NGUYỄN MINH KHUÊ
hướng đến thay thế cho Thư ký Tòa án6.
Tại Mỹ, Liên đoàn Tự do Dân sự Mỹ
(ACLU) đã sử dụng phần mềm AI nhận
diện khuôn mặt Rekognition của hãng
Amazon để kiểm chứng với các thành viên
Quốc hội Hoa Kỳ. Kết quả là 28 nghị sĩ bị
ứng dụng AI này nhận diện là tội phạm,
trong số đó có đàn ông, có phụ nữ, có
thành viên của Đảng Cộng hòa, cũng như
Đảng Dân chủ ở các độ tuổi khác nhau.7.
Bên cạnh đó, tại Mỹ, AI đã được sử dụng
tại 60 Tòa án, nhưng người ta không để
tự AI đưa ra phán quyết mà sử dụng nó
để tư vấn cho Thẩm phán trong một số
vụ việc. Phần mềm này có tên COMPAS
(Correctional Offender Management
Profiling for Alternative Sanctions), tập
hợp 137 câu hỏi khác nhau phục vụ cho
quá trình giải quyết vụ việc.
Tại Hàn Quốc, đã thiết lập hệ thống
phát hiện và xử lý các đe dọa tấn công
mạng dựa trên trí thông minh nhân tạo.
Trung tâm dữ liệu lớn về an ninh mạng
đang vận hành và khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư bảo vệ an ninh mạng. Thiết
lập cac quy tắc đạo đức cho người pháp
triển và sử dung công nghệ thông minh
để tránh tình trạng lạm dụng năm 20188.
6 TS. Nguyễn Bích Đào, Trí tuệ nhân tạo và tiếp
cận công ký, Kỷ yếu hội thảo Trí tuệ nhân tạo và
những vấn đề đặt ra đối với pháp luật và quyền
con người, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2019, trang 22, 23
7 TS. Nguyễn Văn Quân, Một số tác động của trí
tuệ nhân tạo tới nghề luật, Kỷ yếu hội thảo Trí tuệ
nhân tạo và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật
và quyền con người, Khoa luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2019, trang 35
8 PGS.TS. Trịnh Tiến Việt, Chính sách và pháp luật
hình sự Việt Nam trước thách thức cách mạng công
Trong bối cảnh sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học kỹ thuật, việc ứng dụng
các thành tựu khoa học trong hoạt động
tư pháp, xây dựng một nền tư pháp hiện
đại nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và lợi
ích của người dân, Nhà nước là một định
hướng đúng đắn. Trong đó, tập trung vào
một số phương hướng như:
- Tăng cường xây dựng hệ thống hỗ
trợ tư pháp thông minh và cải thiện các
chức năng lưu trữ, so sánh, trích xuất dữ
liệu tư pháp; Thúc đẩy thành lập một nền
tảng xử lý dữ liệu lớn trong lĩnh vực tư
pháp có khả năng liên thông để đạt được
khả năng tương tác, truyền dữ liệu tự
động và chia sẻ tài nguyên phục vụ hoạt
động tư pháp; Xây dựng cơ chế quản lý
và sử dụng dữ liệu tư pháp; Thiết lập hệ
thống bảo vệ an ninh cho cơ sở hạ tầng
thông tin quan trọng cho các cơ quan tư
pháp;
- Nghiên cứu, thúc đẩy ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ như
nhận dạng giọng nói, video từ xa, hỗ trợ
thông minh và hồ sơ điện tử, khởi kiện
điện tử trong hoạt động tư pháp;
- Xây dựng các Tòa án thông minh
trên nền tảng Internet, trí tuệ nhân tạo và
cơ sở hạ tầng thông tin tư pháp tích hợp
đầy đủ được hỗ trợ bởi điện toán đám
mây. Xây dựng phần mềm và củng cố cơ
sở hạ tầng như các phiên tòa xét xử từ xa,
tòa kỹ thuật số và giảm thời gian xử lý các
vụ kiện./.
nghiệp lần thứ 4, Kỷ yếu hội thảo Trí tuệ nhân tạo
và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật và quyền
con người, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2019, trang 45
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_tu_duy_va_dinh_huong_cai_cach_tu_phap_o_vie.pdf