Một số yếu tố liên quan tới lo âu, trầm cảm ở bệnh nhân ung thư vú tại Hà Nội

Với bệnh nhân mắc bệnh ung thư vú thì các yếu tố như đau đớn về thể xác, các lo lắng về bệnh tật, về tài chính cũng như các vấn đề liên quan đến cuộc sống sẽ là những nguyên nhân dẫn đến cả lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân. Điều này lý giải tại sao giữa lo âu và trầm cảm lại có mối tương quan chặt chẽ đến vậy. Như vậy những yếu tố liên quan đến lo âu được xác định là số năm học, phương pháp điều trị và tình trạng trầm cảm. Trong khi đó, những yếu tố liên quan đến trầm cảm là số năm học, tình trạng tham gia bảo hiểm y tế và tình trạng lo âu. Trên thế giới, nghiên cứu tổng hợp của Zainal năm 2013 này cũng đã chỉ ra sự liên quan giữa trầm cảm trên bệnh nhân ung thư vú với một số biến nhân khẩu học, xã hội, các yếu tố về tâm ý, lối sống sự hỗ trợ xã hội và chất lượng cuộc sống. Nghiên cứu cũng đã khẳng định việc phát hiện ra các yếu tố liên quan đến trầm cảm trên bệnh nhân ung thư vú là rất quan trọng trong thực hành lâm sàng [9]. Trong nghiên cứu của Lueboonthavatchai đã chỉ ra các yếu tố liên quan chặt chẽ đến lo âu trầm cảm được chỉ ra trong nghiên cứu này (p < 0,01) bao gồm: các yếu tố tâm lý xã hội đó là sự hỗ trợ xã hội, mối quan hệ không tốt trong gia đình và cách giải quyết xung đột giữa các vấn đề không tốt [8]. Kết quả nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư vú tại Malaysia sử dụng mô hình hồi quy logistic nhị phân cho thấy: nhóm bệnh nhân trẻ tuổi thu nhập thấp có nguy cơ bị lo âu cao hơn và nhóm bệnh nhân có sự hỗ trợ tài chính sống độc thân có nguy cơ trầm cảm cao hơn gấp 3 - 4 lần [6]. Một nghiên cứu khác của Dansta và Buzlus ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 2011 nhận thấy yếu tố liên quan rất quan trọng đến lo âu đó là nhóm bệnh nhân có thu nhập thấp. Trong khi đó, yếu tố có tiền sử gia đình mắc ung thư vú và yếu tố phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú là những yếu tố làm tăng tỷ lệ trầm cảm [4].

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 20 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số yếu tố liên quan tới lo âu, trầm cảm ở bệnh nhân ung thư vú tại Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 113 (4) - 2018 139 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI LO ÂU, TRẦM CẢM Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ TẠI HÀ NỘI Trần Thị Thanh Hương1,2, Nguyễn Thị Thúy Linh2, Trần Văn Thuấn2 1Viện đào tạo Y học Dự phòng &Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội 2Viện Ung thư quốc gia, Bệnh viện K Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở nữ giới tại Việt Nam. Người bệnh ung thư vú không những chịu đựng nỗi đau về thể xác mà còn về tinh thần. Tuy nhiên, rất ít các nghiên cứu ở Việt Nam tìm hiểu về tình trạng lo âu, trầm cảm trên nhóm đối tượng này. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, với thang đo lo âu, trầm cảm của bệnh viện HADS (Anxiety, Depression in Hospital Scale) được sử dụng để phỏng vấn 264 bệnh nhân ung thư vú tại Hà Nội. Kết quả cho thấy bệnh nhân ung thư vú có lo âu thực sự, trầm cảm thực sự, vừa có lo âu thực sự và vừa có trầm cảm thực sự chiếm 28,8%, 15,9% 13,3% một cách tương ứng. Những yếu tố liên quan đến lo âu được xác định là số năm học, phương pháp điều trị, trong khi đó, những yếu tố liên quan đến trầm cảm là số năm học, tình trạng tham gia bảo hiểm y tế. Cần có can thiệp thích hợp trên nhóm phụ nữ bị ung thư vú với tình trạng lo âu, trầm cảm để đảm bảo chất lượng cuộc sống của họ. Từ khóa: lo âu, trầm cảm, ung thư vú, thang đo HADS I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ cả ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Tại Việt nam, theo số liệu ghi nhận ung thư năm 2010, ung thư vú đứng hàng đầu ở nữ giới với tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi trung bình trong cả nước là 29,9/100.000 dân. Ước tính năm 2020, con số này là 38,1/100.000 [1; 2]. Ung thư vú không những trở thành mối đe dọa cho sức khỏe của phụ nữ về thể chất và tinh thần mà còn mang tới gánh nặng về kinh tế xã hội. Người phụ nữ khi được chẩn đoán mắc ung thư vú đã phải trải qua rất nhiều cung bậc cảm xúc như sốc, lo lắng, sợ hãi, từ chối điều trị. Trong quá trình điều trị, bên cạnh những đau đớn về thể chất và các tác dụng không mong muốn do các phương pháp điều trị gây ra thì bệnh nhân ung thư vú thường phải đối mặt với những vấn đề về tâm lý như lo âu, trầm cảm [3]. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra sự hỗ trợ để giải quyết các vấn đề tâm lý xã hội đem lại lợi ích rất lớn trong việc hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân ung thư vú cũng như nâng cao chất lượng sống cho họ [4]. Tuy nhiên, tại Việt Nam, những nghiên cứu về vấn đề này còn rất hạn chế. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài với mục tiêu nhằm xác định một số yếu tố liên quan tới lo âu, trầm cảm của bệnh nhân ung thư vú tại Hà Nội năm 2015. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Thời gian và địa điểm Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện K, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội từ tháng 1/2015 đến tháng 6/2016. 2. Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Địa chỉ liên hệ: Trần Thị Thanh Hương, Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội Email: huongtranthanh@hmu.edu.vn Ngày nhận: 30/5/2018 Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 140 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 3. Đối tượng Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân - Bệnh nhân nữ đã được chẩn đoán xác định là ung thư vú nguyên phát trong vòng 2 năm tính đến thời điểm phỏng vấn và đang điều trị tại bệnh viện. - Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên. - Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ - Bệnh nhân đang trong tình trạng quá yếu, không thể tham gia nghiên cứu. - Không đủ thể lực và tinh thần để hoàn thành phỏng vấn. - Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. 4. Cỡ mẫu và chọn mẫu nghiên cứu 4.1.Cỡ mẫu: được xác định dựa trên công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu ngang mô tả với độ tin cậy 95%, sai số ước lượng là 0,17; tỷ lệ ước tính tỷ lệ lo âu là 0,35 như sau: Trong đó: n: cỡ mẫu tối thiểu cần thiết; α: độ tin cậy. Tương ứng với độ tin cậy 95%, p: tỷ lệ bệnh nhân ung thư vú bị lo âu trong nghiên cứu năm 2011 ở Thổ Nhĩ Kỳ [4]; Ɛ: sai số mong muốn. Đưa vào công thức ta tính được cỡ mẫu tối thiểu là 247 bệnh nhân. 4.2. Chọn mẫu Sử dụng kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện. Lựa chọn tất cả bệnh nhân ung thư vú nguyên phát đang điều trị tại các cơ sở chuyên khoa ung bướu ở Hà Nội đồng ý tham gia nghiên cứu cho tới khi đủ số bệnh nhân. 5. Công cụ và kỹ thuật thu thập thông tin 5.1. Công cụ thu thập thông tin: sử dụng thang đo lo âu, trầm cảm tại bệnh viện HADS (Hospital Anxiety and Depression Scale), gồm có 14 câu trong đó 7 câu đánh giá về lo âu và 7 câu đánh giá về trầm cảm [5]. Bệnh nhân cần cung cấp các thông tin liên quan tới các dấu hiệu này theo 4 mức độ từ 0 tới 3 điểm. Kết quả được phân tích theo điểm trung bình của tổng điểm mỗi loại câu hỏi A (lo âu) hay D (trầm cảm) và theo các mức độ: - Từ 0 đến 7 điểm: bình thường. - Từ 8 đến 10 điểm: gợi ý có thể có triệu chứng của lo âu hoặc trầm cảm. - Từ 11 đến 21 điểm: lo âu hoặc trầm cảm (lo âu hay trầm cảm thực sự). 6. Kỹ thuật thu thập thông tin: Phỏng vấn bệnh nhân theo bộ câu hỏi. 7. Xử lý và phân tích số liệu Số liệu sau khi đã làm sạch thì được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1, sau đó được xử lý và phân tích bằng các thuật toán thống kê y học trên phần mềm STATA 12.0. Các test thống kê được sử dụng là Chi bình phương và Fisher’s exact test, sử dụng mô hình hồi quy logistic đơn biến hoặc đa biến để xác định một số yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm. 8. Đạo đức nghiên cứu Trước khi tham gia nghiên cứu, tất cả các đối tượng nghiên cứu được cung cấp thông tin rõ ràng liên quan đến mục tiêu nội dung nghiên cứu và tự nguyện quyết định tham gia vào nghiên cứu thông qua việc ký tên vào bản thoả thuận đồng ý tham gia nghiên cứu. n = Z2(1- α/2) (p.(1 - p) (ε2.p2 TCNCYH 113 (4) - 2018 141 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC III. KẾT QUẢ Bảng 1. Một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Số lượng = 264 % Nhóm tuổi 27 - 39 39 14,8 40 - 49 72 27,3 50 - 59 92 34,8 ≥ 60 61 23,1 Tuổi trung bình 51,1 ± 10,6 (min = 27; max = 77) Tình trạng hôn nhân Sống chung với chồng/bạn tình 229 86,7 Ly hôn/goá chồng/độc thân 35 13,3 Số năm học đã hoàn thành 0 - 5 23 8,7 6 – 12 209 79,2 > 12 32 12,1 Số năm học trung bình 8,9 ± 3,2 (min = 1; max = 18) Loại Bảo hiểm y tế được chi trả 0% (không có bảo hiểm y tế) 11 40% 6 80% 147 95% 31 100% 69 < 3 tháng 49 3 - 6 tháng 125 7 - 12 tháng 57 > 12 tháng 33 Thời gian trung bình được chẩn đoán (tháng) 6,7 ± 5,5 (min = 1; max = 24) Phương pháp đã điều trị Một phương pháp 104 (39,4%) Từ 2 phương pháp trở lên 160 (60,4%) Thời gian được chẩn đoán bệnh (tháng) 142 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 51 tuổi (51,1 ± 10,6). Nhóm tuổi từ 50 - 59 chiếm tỷ lệ cao nhất với 34,8%. Trong số đối tượng tham gia nghiên cứu, nhóm bệnh nhân đã kết hôn hoặc chưa kết hôn nhưng đang chung sống cùng bạn tình chiếm tỷ lệ 86,7%. Về trình độ học vấn: số năm học trung bình là 9 năm (8,9 ± 3,2). Hầu hết bệnh nhân đều có bảo hiểm y tế được hưởng ở các mức độ khác nhau trong đó bệnh nhân được hưởng bảo hiểm y tế 80% chiếm tỷ lệ cao nhất là 57,7%. Về đặc điểm liên quan tới bệnh, thời gian mắc bệnh trung bình của đối tượng nghiên cứu tại thời điểm nghiên cứu là 6,7 tháng (SD = 5,5); nhóm có thời gian mắc từ 3 - 6 tháng chiếm tỷ lệ cao nhất với 47,3%. Trong số các đối tượng tham gia nghiên cứu, có tới 60,4% bệnh nhân ung thư vú đã được điều trị từ hai phương pháp trở lên. Biểu đồ 1. Tỷ lệ lo âu và trầm cảm của đối tượng nghiên cứu Biểu đồ 1 cho thấy có 28,8% bệnh nhân ung thư vú có rối loạn lo âu thực sự và 23,1% bệnh nhân ung thư vú có triệu chứng của lo âu; 23,9% bệnh nhân ung thư vú có triệu chứng của trầm cảm và 15,9% bệnh nhân ung thư vú cho thấy tình trạng trầm cảm thực sự. Khi xem xét sự kết hợp của nhóm lo âu và trầm cảm này thì có 19,7% bệnh nhân ung thư vú có cả triệu chứng lo âu và trầm cảm và có đến 13,3% bệnh nhân ung thư vú vừa có rối loạn lo âu và vừa có rối loạn trầm cảm thực sự. Bảng 2. Phân bố tỷ lệ lo âu và trầm cảm theo một số đặc điểm về nhân khẩu học và tình trạng bệnh Đặc điểm Lo âu p Trầm cảm p Không Có n (%) Không Có Nhóm tuổi 27 - 39 40 - 55 50 - 59 ≥ 60 24 (61,5) 53 (73,6) 67 (72,8) 44 (72,1) 15 (38,5) 19 (26,4) 25 (27,2) 17 (27,9) 0,547* 35 (89,7) 62 (86,1) 73 (79,4) 52 (85,3) 4 (10,3) 10 (13,9) 19 (20,7) 9 (14,8) 0,480 ** TCNCYH 113 (4) - 2018 143 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Đặc điểm Lo âu p Trầm cảm p Không n (%) Có n (%) Không n (%) Có n (%) Tình trạng hôn nhân Sống chung với chồng/bạn tình Ly hôn/góa/độc thân 163(71,2) 25(71,4) 66(28,8) 10(28,6) 0,976 194(84,7) 28(80,0) 35(15,3) 7(20,0) 0,477 Số năm học đã hoàn thành 0 - 5 6 - 12 >12 15(65,2) 143(68,4) 30(93,4) 8(34,8) 66(32,6) 2(6,3) 0,005 16(69,6) 175 (83,7) 31(96,9) 7(30,4) 34(16,3) 1(3,1) 0,019** Tình trạng công việc Bán thời gian Không làm việc Toàn thời gian 24(75,0) 52(72,2) 112(70,0) 8(25,0) 20(27,8) 48(30,0) 0,829** 30(93,6) 60(83,3) 132(82,5) 2(6,3) 12(16,7) 28(17,5) 0,301** Bảo hiểm y tế Không có bảo hiểm y tế Có bảo hiểm y tế 6(54,6) 182(71,9) 5(45,5) 71(28,1) 0,212** 6(54,6) 216(85,4) 5(45,5) 37(14,6) 0,006** Thời gian được chẩn đoán bệnh (tháng) ≤ 6 tháng > 6 tháng 61(67,8) 127(73,0) 29(32,2) 47(27,1) 0,375* 74(82,2) 148(85,1) 16(17,8) 26(14,9) 0,550* Đang điều trị ≥ 2 phương pháp 1 phương pháp 8(44,4) 180(73,2) 10(55,6) 66(26,8) 0,009* 14(77,8) 208(84,6) 4(22,2) 38(15,5) 0,501** Trầm cảm Có Không 7(16,7) 181(81,5) 35(83,3) 41(18,5) 0,000* 14(77,8) 208(84,6) Lo âu Có Không 41(54,0) 181(96,3) 35(46,0) 7(3,7) 0,000* (*) test ᵪ2; (**): Fisher's exact test. Đối với rối loạn lo âu, tỷ lệ bệnh nhân lo âu ở nhóm có số năm đi học 0-5 năm (34,8%) cao hơn nhóm có số năm đi học trên 5 năm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tỷ lệ bệnh nhân ung thư vú bị lo âu mà đang điều trị từ 2 phương pháp trở lên cao gấp đôi so với bệnh 144 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC nhân bị lo âu chỉ điều trị 1 phương pháp và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,009) (bảng 2). Đối với rối loạn trầm cảm, sự khác biệt giữa tỷ lệ bệnh nhân ung thư vú có rối loạn trầm cảm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh nhân không có bảo hiểm y tế và nhóm bệnh nhân có bảo hiểm y tế (p < 0,05) và giữa nhóm bệnh nhân có số năm đi học từ 0 - 5 năm với nhóm có số năm đi học > 6 năm với p < 0,05 (bảng 2). Bảng 3. Phân tích đa biến một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu, trầm cảm của bệnh nhân ung thư vú Đặc điểm Lo âu Trầm cảm OR hiệu chỉnh 95%CI OR hiệu chỉnh 95%CI Số năm học đã hoàn thành 0 - 5 6 - 12 > 12 4,91 7,00 1 0,70 - 34,55 1,42 - 34,36* - 3,68 1,52 1 0,31 - 43,5 0,17 - 14,02 - Tình trạng công việc Bán thời gian Không làm việc Toàn thời gian 0,54 0,68 1 0,18 - 1,69 0,25 - 1,88 - 2,84 2,79 1 0,50 - 16,28 0,54 - 14,37 - Bảo hiểm y tế Không có bảo hiểm y tế Có bảo hiểm y tế 0,82 1 0,15 - 4,61 - 4,31 1 0,86 - 21,26 - Thời gian được chẩn đoán bệnh (tháng) ≤ 6 tháng > 6 tháng 0,78 1 0,40 - 1,55 - 0,91 1 0,39 - 2,11 - Đang điều trị ≥ 2 phương pháp 1 phương pháp 4,77 1 1,51 - 15,12** - 0,91 1 0,39 - 2,11 - Trầm cảm Có Không 23,30 1 9,11 - 59,56** - Lo âu Có Không 23,56 1 9,16 - 60,59** - (*) p < 0,05; (**): p < 0,01 TCNCYH 113 (4) - 2018 145 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 3 cho thấy khi sử dụng mô hình hồi quy logistic đa biến thì: lo âu ở bệnh nhân ung thư vú có tương quan với số năm học đã hoàn thành, hiện tại đang điều trị từ 2 phương pháp trở lên và tình trạng trầm cảm của đối tượng nghiên cứu (p < 0,05). Tình trạng trầm cảm của bệnh nhân ung thư vú có tương quan với tình trạng lo âu của nhóm đối tượng này. IV. BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ở nhóm lo âu có 28,8% bệnh nhân ung thư vú có rối loạn lo âu thực sự và 23,1% bệnh nhân ung thư vú có triệu chứng của lo âu. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Dansta và Buzlus sử dụng thang đo HADS trên những bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu (giai đoạn 1 và giai đoạn 2) ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 2011 là 35,1% [4]. Tỷ lệ lo âu trong nghiên cứu của Hassan và cộng sự trên 205 bệnh nhân ung thư vú tại Malaysia là 31,7% và 38% trong nghiên cứu của Mehnert A và Koch U [6; 7]. Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu này lại cao hơn nghiên cứu năm 2007 của Lue- boonthavatchai trên cùng thang đo, chỉ ra có 16% bệnh nhân ung thư vú có rối loạn lo âu thực sự,19% có triệu chứng của lo âu và cao hơn tỷ lệ báo cáo trong nghiên cứu của Tho- mas tại Ấn Độ là 19% bệnh nhân ung thư có rối loạn lo âu thực sự [5; 8]. Tỷ lệ trầm cảm trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Zainal năm 2013 về tỷ lệ trầm cảm của bệnh nhân ung thư vú tổng hợp từ 32 nghiên cứu mô tả cắt ngang trên thế giới, với tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở bệnh nhân ung thư vú của các nước trung bình là 22% (dao động từ 1% - 56%), trong đó tỷ lệ này các nước phương Tây chỉ ra trong khoảng từ 1% - 56%; trong khi nghiên cứu của các nước châu Á chỉ ra tỷ lệ trầm cảm từ 12,5% - 31% [9] . Khi so sánh tỷ lệ trầm cảm với một số nghiên cứu trong khu vực cho thấy tỷ lệ trầm cảm trong nghiên cứu của chúng tôi hầu như là thấp hơn. Nghiên cứu của Stafford và cộng sự (2013) cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở nhóm bệnh nhân ung thư vú và phụ khoa là 32,5% [10]. Kết quả nghiên cứu lo âu, trầm cảm của 205 bệnh nhân ung thư vú tại Malay- sia được chẩn đoán từ năm 2007 - 2010 sử dụng thang đo HADS cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có rối loạn trầm cảm là 22% [6]. Tuy nhiên, của Lueboonthavatchai năm 2007 với kết quả được báo cáo chỉ có 9% bệnh nhân ung thư vú có rối loạn trầm cảm thực sự, 16,7% có triệu chứng của trầm cảm [8]. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy lo âu và trầm cảm có mối liên quan với trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu. Điều này có thể do nhóm đối tượng nghiên cứu này có nhận thức không cao về nguyên nhân cũng như khả năng điều trị căn bệnh ung thư vú của mình do đó dễ rơi vào trạng thái lo âu. Nhóm bệnh nhân đang điều trị ung thư vú kết hợp từ hai phương pháp trở nên có nguy cơ bị lo âu gấp 4,77 lần so với nhóm bệnh nhân đang điều trị bằng một phương pháp, mối liên quan này là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong điều trị ung thư vú, việc lựa chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, thể trạng người bệnh và một số yếu tố về lâm sàng, cận lâm sàng. Việc cùng một lúc phải chịu nhiều ảnh hưởng như mệt mỏi, đau đớnŒ sẽ khiến cho bệnh nhân dễ lo âu, trầm cảm hơn. Nhóm bệnh nhân ung thư vú không có bảo hiểm y tế có tỷ lệ bị trầm cảm là cao gấp 3 lần 146 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC nhóm có bảo hiểm y tế (14,6%) và sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Nhiều bệnh nhân ung thư vú khi mới mắc ung thư thì một trong những vấn đề mà họ lo lắng nhất là tài chính, họ sợ không có tiền chữa bệnh, sợ vay nợ không trả được, sợ đem lại gánh nặng cho gia đình, sợ chữa tốn nhiều chi phí mà không khỏi bệnhŒ Khi xem xét trong mô hình đa biến, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những người có trầm cảm thì sẽ có xác suất mắc lo âu cao gấp 23,30 lần so với những người không có trầm cảm, tương tự những bệnh nhân có lo âu có nguy cơ bị trầm cao cao gấp 23,56 những bệnh nhân không lo âu và mối liên quan này là có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của Bjelland và cộng sự năm 2002 [5]. Với bệnh nhân mắc bệnh ung thư vú thì các yếu tố như đau đớn về thể xác, các lo lắng về bệnh tật, về tài chính cũng như các vấn đề liên quan đến cuộc sống sẽ là những nguyên nhân dẫn đến cả lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân. Điều này lý giải tại sao giữa lo âu và trầm cảm lại có mối tương quan chặt chẽ đến vậy. Như vậy những yếu tố liên quan đến lo âu được xác định là số năm học, phương pháp điều trị và tình trạng trầm cảm. Trong khi đó, những yếu tố liên quan đến trầm cảm là số năm học, tình trạng tham gia bảo hiểm y tế và tình trạng lo âu. Trên thế giới, nghiên cứu tổng hợp của Zainal năm 2013 này cũng đã chỉ ra sự liên quan giữa trầm cảm trên bệnh nhân ung thư vú với một số biến nhân khẩu học, xã hội, các yếu tố về tâm ý, lối sống sự hỗ trợ xã hội và chất lượng cuộc sống. Nghiên cứu cũng đã khẳng định việc phát hiện ra các yếu tố liên quan đến trầm cảm trên bệnh nhân ung thư vú là rất quan trọng trong thực hành lâm sàng [9]. Trong nghiên cứu của Lueboontha- vatchai đã chỉ ra các yếu tố liên quan chặt chẽ đến lo âu trầm cảm được chỉ ra trong nghiên cứu này (p < 0,01) bao gồm: các yếu tố tâm lý xã hội đó là sự hỗ trợ xã hội, mối quan hệ không tốt trong gia đình và cách giải quyết xung đột giữa các vấn đề không tốt [8]. Kết quả nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư vú tại Malaysia sử dụng mô hình hồi quy lo- gistic nhị phân cho thấy: nhóm bệnh nhân trẻ tuổi thu nhập thấp có nguy cơ bị lo âu cao hơn và nhóm bệnh nhân có sự hỗ trợ tài chính sống độc thân có nguy cơ trầm cảm cao hơn gấp 3 - 4 lần [6]. Một nghiên cứu khác của Dansta và Buzlus ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 2011 nhận thấy yếu tố liên quan rất quan trọng đến lo âu đó là nhóm bệnh nhân có thu nhập thấp. Trong khi đó, yếu tố có tiền sử gia đình mắc ung thư vú và yếu tố phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú là những yếu tố làm tăng tỷ lệ trầm cảm [4]. V. KẾT LUẬN 28,8% bệnh nhân ung thư vú có lo âu thực sự, 15,9% bệnh nhân ung thư vú có trầm cảm thực sự. Khi xem xét sự kết hợp của nhóm lo âu và trầm cảm này thì 13,3% bệnh nhân ung thư vú vừa lo âu thực sự và vừa có trầm cảm thực sự. Những yếu tố liên quan đến lo âu được xác định là số năm học, phương pháp điều trị và tình trạng trầm cảm (p < 0,05). Trong khi đó, những yếu tố liên quan đến trầm cảm là số năm học, tình trạng tham gia bảo hiểm y tế và tình trạng lo âu (p < 0,05). LỜI CẢM ƠN Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Bệnh viện K, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi thu thập số liệu và hoàn thành nghiên cứu này. TCNCYH 113 (4) - 2018 147 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. International Agency for Research on Cancer (2012). Breast Cancer Esti- mated Incidence, Mortality and Prevalence Worldwide in 2012. Globocan 2012. 2. Bùi Diệu, Nguyễn Bá Đức, Trần Văn Thuấn và cộng sự (2012). Gánh nặng bệnh ung thư và chiến lược phòng chống ung th ư quốc gia đến năm 2020. Tạp chí Ung thư học - Hội thảo quốc gia phòng chống ung thư lần thứ 6, 13 - 19. 3. Maria Hewitt, Roger Herdman và Jimmie Holland (2004). Pschosocial needs of women with breast cancer. Meeting pscho- social needs of women with breast cancer, The National Academies press, Woashing ton D.C, 21 - 69. 4. Dastan N.B., Buzlu S (2011). Depres- sion and anxiety levels in early stage Turkish breast cancer patients and related factors. Asian Pac J Cancer Prev, 12 (1), 137 - 141. 5. Bjelland I., Dahl A.A, Haug T.T et al (2002). The validity of the Hospital Anxiety and Depression Scale. An updated litera- ture review. J Psychosom Res, 52(2), 69 - 77. 6. Hassan M.R., S. A. Shah S.A, Ghazib H.F et al (2015). Anxiety and Depression among Breast Cancer Patients in an Ur- ban Setting in Malaysia. Asian Pac J Cancer Prev, 16 (9), 4031 - 4035. 7. Mehnert A., Koch U. (2008). Psycho- logical comorbidity and healthrelated quality of life and its association with awareness, utiliza- tion and need for psychosocial support in a cancer register-based sample of long-term breast cancer survivors. J Psychosom Res, 64 (4), 383 - 391. 8. Lueboonthavatchai P. (2007). Preva- lence and psychosocial factors of anxiety and depression in breast cancer patients. J Med Assoc Thai, 90 (10), 2164 - 2174. 9. Zainal NZ., Nik-Jaafar NR, Baharudin A et al (2013). Prevalence of depression in breast cancer survivors: a systematic re- view of observational studies. Asian Pac J Cancer Prev, 14(4), 2649 - 2656. 10. Stafford L., Judd F., Gibson P et al (2013). Screening for depression and anxiety in women with breast and gynaecologic can- cer: course and prevalence of morbidity over 12 months. Psychooncology, 22(9), 2071 - 2078. Summary RELATED FACTORS WITH ANXIETY, DEPRESSION IN WOMEN WITH BREAST CANCER IN HANOI Breast cancer is the most common cancer in women in Vietnam. Patients suffered from physi- cal and psychological pain. However, there are limited studies on anxiety and depression among women with breast cancer in Vietnam. A cross-sectional study with the HADS scale was used to identify related factors to anxiety and depression by interviewing 264 diagnosed women in Hanoi. The results showed that patients with anxiety, depression, and combined anxiety and depression are 28.8%, 15.9% and 13.3% repectively. Associated factors with anxiety are education level and the methods of treatment. Associated factors with depression are the level of education and the health insurance. Intervention on women with breast cancer with anxiety and depression is needed to improve their quality of life. Keywords: anxiety, depression, breast cancer, women, HADS scale

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_yeu_to_lien_quan_toi_lo_au_tram_cam_o_benh_nhan_ung_t.pdf
Tài liệu liên quan