Một vài ý kiến về đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự trong bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
- Trong quyết định của Toà án tuyên
bố một người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự không xác định về năng lực hành
vi tố tụng dân sự của người bị hạn chế
thì người bị hạn chế được coi là có năng
lực hành vi tố tụng dân sự, được tự mình
tham gia tố tụng, tự mình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
trước Toà án. Tuy nhiên, khi quyết định
các vấn đề liên quan đến tài sản của người
bị hạn chế vẫn cần có sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật (trong quan hệ dân
sự). Việc đồng ý của người đại diện theo
pháp luật phải tuân thủ theo quy định tại
Điều 125 BLDS năm 2015, tức là phải vì lợi
ích của người bị hạn chế. Nếu sự đồng ý
hay không đồng ý của người đại diện theo
pháp luật không vì lợi ích của bị hạn chế
hoặc vi phạm điều cấm pháp luật hoặc trái
đạo đức xã hội thì Toà án sẽ quyết định.
Còn trong trường hợp để bảo vệ quyền
con người và xuất phát từ việc người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích
khác vẫn là người có năng lực hành vi dân
sự cũng như không nên “can thiệp quá sâu
vào quyền tự định đoạt của đương sự”4 thì
BLDS nên mạnh dạn bỏ quy định về người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Việc
bảo vệ tài sản của gia đình người nghiện
ma tuý hoặc nghiện các chất khích thích
khác và của những cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan sẽ đưa vào phần bảo
vệ quyền sở hữu trong BLDS. Do đó, khi
người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích
thích khác mà phá tán tài sản của gia đình
thì những người có tài sản mà bị người
nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích
thích khác phá tán hoặc cá nhân, cơ quan,
tổ chức có liên quan sẽ bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình thông qua cơ quan
có thẩm quyền. Khi các chủ thể lựa chọn
phương thức khởi kiện ra Toà án để bảo vệ
quyền lợi của mình thì người nghiện ma
tuý, nghiện các chất kích thích khác vẫn có
năng lực hành vi tố tụng dân sự và sẽ tự
mình hoặc uỷ quyền cho người khác thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân
sự tại Toà án. Đồng thời các quy định về
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
trong BLTTDS cũng bị huỷ bỏ./.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một vài ý kiến về đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự trong bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37Khoa học kiểm sátSố 01 - 2019
NguyễN Thị Thu hà - TrầN Kim Thọ
“Hạn chế năng lực hành vi dân sự là trường hợp cá nhân bị giới hạn khả năng tự mình xác
lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự so
với trước khi bị Tòa án ra quyết định tuyên bố
hạn chế năng lực hành vi dân sự”1. Theo quy
định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015
thì tình trạng hạn chế cá nhân tự mình
thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự
là khi người đó nghiện ma túy, nghiện các
chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài
sản của gia đình (khoản 1 Điều 24 BLDS
năm 2015). Có thể thấy, BLDS năm 2015
không đề cập đến độ tuổi của người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự. Điều đó có
nghĩa, người nghiện ma tuý hoặc nghiện
các chất kích thích khác có thể là người
chưa thành niên (người chưa đủ 18 tuổi)
hoặc là người đã thành niên (người từ đủ
18 tuổi trở lên). Tuy nhiên, đối với người
chưa thành niên dưới 6 tuổi hoặc từ đủ 6
tuổi đến chưa đủ 15 tuổi mà nghiện ma
1 Thân Thị Bích Ngọc (2017), Quy định về hạn chế
năng lực hành vi dân sự trong Bộ luật Dân sự năm
2015, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ.
48d, tr. 2.
tuý hoặc các chất kích thích thì việc bảo vệ
quyền lợi của người chưa thành niên cũng
như bảo vệ tài sản của gia đình được thực
hiện bằng các quy định về người đại diện
theo pháp luật theo quy định tại khoản
2, 3 Điều 21, Điều 47, Điều 125, Điều 136
BLDS năm 2015. Đối với người chưa thành
niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì
ngoại trừ các giao dịch dân sự liên quan
đến bất động sản và động sản phải đăng
ký và các giao dịch khác theo quy định của
pháp luật phải được người đại diện theo
pháp luật đồng ý thì người chưa thành
niên ở độ tuổi này được tự mình xác lập và
thực hiện giao dịch dân sự (khoản 4 Điều
21 BLDS năm 2015). Do đó, đối với người
chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi mà nghiện ma tuý hoặc nghiện các
chất kích thích khác phá tản tài sản của gia
đình (ngoại trừ các giao dịch phải có sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật)
thì áp dụng quy định về hạn chế năng lực
MỘT VÀI Ý KIẾN VỀ ĐƯƠNG SỰ LÀ NGƯỜI BỊ HẠN CHẾ NĂNG LỰC
HÀNH VI DÂN SỰ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015
NguyễN Thị Thu hà* - TrầN Kim Thọ**
* Phó giáo sư, Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
** Thạc sĩ, Luật sư Công ty Luật hợp danh Bình An,
Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội
Bài viết tập trung bình luận, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự (BLTTDS) năm 2015 về đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTDS năm
2015 về chủ thể này.
Từ khóa: Đương sự, người bị hạn chế năng lực dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự.
The article focuses on commenting, assessing the provisions of the Civil
Procedure Code in 2015 on the litigants who have limited capacity for civil
acts. On that basis, it makes proposal for improving the provisions of the
2015 Civil Procedure Code on this subject.
Keywords: Litigants, individuals who have limited capacity for civil acts,
the Civil Procedure Code.
38
MỘT VÀI Ý KIẾN VỀ ĐƯƠNG SỰ LÀ NGƯỜI BỊ HẠN CHẾ NĂNG LỰC...
Khoa học kiểm sát Số 01 - 2019
hành vi dân sự để bảo vệ tài sản và quyền
lợi của gia đình người bị hạn chế.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 24
BLDS năm 2015 và Điều 378 BLTTDS
năm 2015 thì khi có yêu cầu của người
có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra
quyết định tuyên bố một người là người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi
có các điều kiện theo quy định của BLDS.
Trong quyết định tuyên bố một người là
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì Tòa
án quyết định người đại diện theo pháp
luật của người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự và phạm vi đại diện. Hơn nữa,
theo khoản 3 Điều 69 BLTTDS năm 2015
thì năng lực hành vi tố tụng dân sự của
người bị hạn chế được xác định theo quyết
định của Toà án. Các quy định này có thể
dẫn đến phạm vi đại diện của người đại
diện theo pháp luật cho người bị hạn chế
khác nhau tuỳ vào quyết định của Toà án.
Theo đó, trong quyết định của Toà án có
thể xảy ra hai trường hợp:
- Thứ nhất, Toà án quyết định người
đại diện theo pháp luật sẽ đại diện cho
người bị hạn chế trong việc xác lập, thực
hiện các giao dịch dân sự liên quan đến tài
sản mà không nhằm phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày hoặc pháp luật có quy định
khác, đồng thời đại diện cho người bị hạn
chế thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng
dân sự tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị hạn chế trong
các vụ việc về giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản. Với quyết định này của Toà án
thì khi xảy ra tranh chấp phát sinh từ giao
dịch dân sự liên quan đến tài sản, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ bị coi
là không có năng lực hành vi tố tụng dân
sự. Việc khởi kiện, tham gia tố tụng tại Toà
án sẽ do người đại diện theo pháp luật của
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
thực hiện. Điều này có nghĩa là, người đại
diện theo pháp luật cho người bị hạn chế
trong quan hệ dân sự (cụ thể là giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản) đồng thời là
người đại diện theo pháp luật cho người bị
hạn chế trong quan hệ tố tụng dân sự. Nếu
trong quá trình tham gia tố tụng tại Toà
án đối với các vụ việc về giao dịch dân sự
liên quan đến tài sản mà không có người
đại diện theo pháp luật (như người đại
diện theo pháp luật bị chết, bị mất năng
lực hành vi dân sự) hoặc người đại diện
theo pháp luật thuộc một trong các trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTDS
năm 2015 thì Toà án sẽ căn cứ vào khoản 1
Điều 88 BLTTDS năm 2015 chỉ định người
đại diện để người đại diện sẽ thay mặt
người bị hạn chế thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng dân sự tại Toà án để bảo
vệ quyền lợi của người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, cần lưu ý
người được Tòa án chỉ định trong trường
hợp này chỉ được thay mặt đương sự tham
gia tố tụng trong vụ án mà Tòa án đang
giải quyết thôi, họ không được tham gia
tố tụng thay mặt đương sự trong các vụ
án khác2.
- Thứ hai, theo quyết định của Toà án,
người đại diện theo pháp luật sẽ đại diện
cho người bị hạn chế trong việc xác lập,
thực hiện các giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản mà không nhằm phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc pháp luật có
quy định khác.
Điều này có nghĩa là, những giao dịch
dân sự nhằm phục vụ đời sống sinh hoạt
hàng ngày, những quan hệ dân sự mà
không phải là giao dịch dân sự (liên quan
đến tài sản như quan hệ nhân thân) hoặc
pháp luật có quy định khác thì người bị
2 Xem thêm: Nguyễn Thị Thu Hà (2016), Người đại
diện của đương sự trong BLTTDS năm 2015, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 9/2016, tr. 28 - 37.
39Khoa học kiểm sátSố 01 - 2019
NguyễN Thị Thu hà - TrầN Kim Thọ
hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ tự
mình xác lập, thực hiện và đương nhiên
nếu xảy ra tranh chấp phát sinh từ các
quan hệ dân sự này thì người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự sẽ tự mình khởi
kiện, tự mình tham gia tố tụng tại Toà án,
tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ
tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích
của mình.
Ví dụ 1: Anh A đã thành niên bị Toà án
tuyên bố là hạn chế năng lực hành vi dân
sự do A bị nghiện và phá tán tài sản của
gia đình. Trong quyết định của Toà án, bố
anh A là ông C là người được Toà án chỉ
định là người đại diện theo pháp luật của
anh A trong các giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản. Tuy nhiên, nếu anh A có vợ là
B thì A hoàn toàn có quyền tự mình khởi
kiện B ra Toà án yêu cầu xin ly hôn.
Còn đối với các giao dịch dân sự liên
quan đến tài sản không trực tiếp phục vụ
nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc pháp
luật không có quy định khác thì việc xác
lập, thực hiện các giao dịch dân sự liên
quan đến tài sản này phải có sự đồng ý
của người đại diện theo pháp luật.
Ví dụ 2: Anh A đã thành niên bị Toà án
tuyên bố là hạn chế năng lực hành vi dân
sự do A bị nghiện và phá tán tài sản của
gia đình. Trong quyết định của Toà án, bố
anh A là ông C là người được Toà án chỉ
định là người đại diện theo pháp luật của
anh A trong các giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản. Tuy nhiên, anh A có một chiếc
xe ô tô và muốn bán cho D thì phải có sự
đồng ý của C thì A mới được xác lập, thực
hiện việc bán chiếc xe ô tô đó cho D.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu trong
quá trình thực hiện giao dịch dân sự này
mà quyền lợi của người bị hạn chế bị xâm
phạm thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự này như thế nào? Người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự có được coi là
có năng lực hành vi tố tụng dân sự không?
Có được tự mình khởi kiện, tham gia tố
tụng tại Toà án và tự mình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng không? Hay
việc bảo vệ quyền lợi của người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự trong tố tụng
dân sự phải thông qua người đại diện theo
pháp luật?
Vấn đề này có nhiều cách hiểu khác
nhau.
Cách hiểu thứ nhất, đối với vụ việc về
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản thì
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
vẫn cần có người đại diện theo pháp luật
tham gia tố tụng dân sự tại Toà án, việc
khởi kiện, tham gia tố tụng dân sự tại Toà
án và thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng
của người bị hạn chế sẽ do người đại diện
theo pháp luật thực hiện.
Cách hiểu thứ hai, đối với người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự thì khi có
quyền lợi bị xâm phạm hoặc tranh chấp
thì họ vẫn được coi là có năng lực hành
vi tố tụng dân sự, họ được tự mình khởi
kiện, tham gia tố tụng tại Toà án và tự
mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình mà không cần phải có
người đại diện theo pháp luật.
Cách hiểu thứ nhất dựa trên quy định
khoản 2 Điều 85 BLTTDS năm 2015, đó
là: “người đại diện theo pháp luật theo quy
định của BLDS là người đại diện theo pháp
luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp
bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của
pháp luật”. Điều này có nghĩa là, sau khi
có quyết định của Toà án tuyên bố một
người là bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự có hiệu lực pháp luật mà người bị hạn
chế có quyền lợi bị xâm phạm trong quá
trình xác lập, thực hiện các giao dịch dân
sự liên quan đến tài sản thì chính người
40
MỘT VÀI Ý KIẾN VỀ ĐƯƠNG SỰ LÀ NGƯỜI BỊ HẠN CHẾ NĂNG LỰC...
Khoa học kiểm sát Số 01 - 2019
đại diện theo pháp luật được Toà án quyết
định trong quyết định tuyên bố một người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ là
người đại diện theo pháp luật của người
bị hạn chế khi giải quyết vụ việc dân sự
tại Toà án.
Như ví dụ 2 thì do C là người đại diện
theo pháp luật của A trong việc xác lập,
thực hiện việc bán chiếc xe ô tô nên khi xả
ra tranh chấp trong việc mua bán chiếc xe
đó với D thì để bảo vệ quyền lợi của A thì
C sẽ là người khởi kiện để bảo vệ quyền
lợi cho A với tư cách người đại diện theo
pháp luật. Hay nói cách khác C chính là
người đại diện theo pháp luật của A trong
quá trình Toà án giải quyết tranh chấp
liên quan đến chiếc xe ô tô đó với D. Điều
này đồng nghĩa với việc A không có năng
lực hành vi tố tụng dân sự, mọi quyền và
nghĩa vụ tố tụng của A sẽ do C thực hiện.
Tuy nhiên, cách hiểu này sẽ dẫn đến
vướng mắc là nếu trong quá trình thực
hiện giao dịch dân sự về tài sản thì chính
người đại diện theo pháp luật do Toà án
chỉ định trong quyết định tuyên bố người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự lại
xâm phạm đến chính quyền lợi của người
bị hạn chế hoặc họ không khởi kiện thì ai
sẽ đứng ra bảo vệ quyền lợi của người bị
hạn chế. Trong trường hợp này do người
bị hạn chế bị coi là không có năng lực
hành vi tố tụng dân sự nên người bị hạn
chế không thể tự mình khởi kiện để bảo
vệ quyền lợi của mình. Ngoài ra, người bị
hạn chế cũng không thể tự mình yêu cầu
huỷ bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng
lực hành vi dân sự được vì theo Điều 379
BLTTDS năm 2015 thì Toà án muốn hủy
quyết định này phải do người bị hạn chế
không còn ở trong tình trạng bị hạn chế
nữa. Để khắc phục điểm hạn chế này thì
có ý kiến cho rằng: “Bộ luật dân sự cần bổ
sung quy định về giám sát việc đại diện theo
pháp luật đối với người hạn chế năng lực hành
vi dân sự, cha, mẹ đại diện cho con chưa thành
niên và quy định cho người giám sát có quyền
khởi kiện khi người đại diện xâm phạm đến lợi
ích của người được đại diện. Đồng thời, khi
quan hệ tố tụng phát sinh, đặc biệt là trường
hợp yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu mà giao dịch này do chính người đại
diện xác lập, thì khi đó cần cử một đại diện
khác cho đương sự trong tố tụng dân sự”3.
Tác giả cho rằng cách hiểu thứ hai là
hợp lý hơn. Bởi vì, bản chất của việc hạn
chế năng lực hành vi dân sự của cá nhân
là bảo vệ tài sản của gia đình và của người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, tránh
việc người bị hạn chế phá tán tài sản của
gia đình chứ bản thân họ là người đã
thành niên có năng lực hành vi dân sự
hoặc là người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi nhưng được tự thực hiện các giao
dịch dân sự trừ trường hợp được quy định
tại khoản 4 Điều 21 BLDS năm 2015. Hơn
nữa, họ chỉ bị hạn chế thực hiện các quan
hệ dân sự mà cụ thể là các giao dịch dân
sự liên quan đến tài sản chứ họ không bị
hạn chế về năng lực hành vi tố tụng dân
sự trừ trường hợp trong quyết định Toà
án nói rõ là họ không có năng lực hành
vi tố tụng dân sự, việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ tố tụng dân sự và việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước
Toà án do người đại diện theo pháp luật
thực hiện. Do đó, cần phải hiểu là nếu
trong quyết định Toà án chỉ quyết định
người đại diện theo pháp luật sẽ đại diện
cho người bị hạn chế trong việc xác lập,
thực hiện các giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản thì người bị hạn chế vẫn được
coi là có năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị hạn chế trước Toà án sẽ do chính
họ thực hiện.
3 Thân Thị Bích Ngọc (2017), Tlđd, tr. 10.
41Khoa học kiểm sátSố 01 - 2019
NguyễN Thị Thu hà - TrầN Kim Thọ
Tuy nhiên, cách hiểu này có mâu
thuẫn với quy định tại Điều 88 BLTTDS
năm 2015 không?
Theo khoản 1 Điều 88 BLTTDS năm
2015 thì “khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu
có đương sự là người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi mà không
có người đại diện hoặc người đại diện theo
pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 87 Bộ luật này thì Toà án
chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng”.
Quy định này chỉ đúng trong trường hợp
như đã phân tích ở trường hợp thứ nhất
khi mà trong quyết định của Toà án nói rõ
là người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự là người không có năng lực hành vi tố
tụng dân sự, việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ tố tụng dân sự và việc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người bị hạn chế tại Toà
án do người đại diện theo pháp luật thực
hiện. Do đó, khi Toà án đang giải quyết vụ
việc dân sự mà không có người đại diện
theo pháp luật hoặc người đại diện theo
pháp luật thuộc một trong các trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTDS năm
2015 thì Toà án chỉ định người đại diện để
tham gia tố tụng.
Còn trong trường hợp trong quyết
định của Toà án tuyên bố người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự chỉ quyết định
người đại diện theo pháp luật sẽ đại diện
cho người bị hạn chế trong việc xác lập,
thực hiện các giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản mà không nhằm phục vụ đời
sống sinh hoạt hàng ngày hoặc pháp luật
có quy định khác thì việc Toà án chỉ định
người đại diện cho người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự để tham gia tố tụng
theo khoản 1 Điều 88 BLTTDS năm 2015
là không cần thiết. Tuy nhiên, khi người
bị hạn chế tự mình khởi kiện, tham gia
tố tụng dân sự tại Toà án thì việc quyết
định các vấn đề liên quan đến tài sản của
người bị hạn chế vẫn cần có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật (trong quan
hệ dân sự) với tư cách là người có quyền
và lợi ích liên quan. Việc đồng ý của người
đại diện theo pháp luật phải tuân thủ theo
quy định tại Điều 125 BLDS năm 2015, tức
là phải vì lợi ích của người bị hạn chế, còn
trong trường hợp sự đồng ý hay không
đồng ý của người đại diện theo pháp luật
không vì lợi ích của bị hạn chế hoặc vi
phạm điều cấm pháp luật hoặc trái đạo
đức xã hội thì Toà án sẽ quyết định.
Ví dụ: Anh A đã thành niên bị Toà án
tuyên bố là hạn chế năng lực hành vi dân
sự do A bị nghiện và phá tán tài sản của gia
đình. Trong quyết định của Toà án, vợ anh
A là chị B là người được Toà án chỉ định là
người đại diện theo pháp luật của anh A
trong các giao dịch dân sự liên quan đến
tài sản. Anh A có một ngôi nhà là tài sản
riêng. Với sự đồng ý của chị B, anh A đã
bán ngôi nhà cho C với giá 1 tỷ đồng. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện việc mua
bán nhà thì hai bên xảy ra tranh chấp. Anh
A đã khởi kiện C ra Toà án yêu cầu giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
mua bán nhà. Sau khi Toà án thụ lý, Toà
án đã triệu tập A, B, C đến tham gia hoà
giải. Khi Toà án tiến hành hoà giải để các
bên thoả thuận với nhau về việc giải quyết
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua
bán nhà, giả sử A và C thoả thuận tiếp tục
thực hiện hợp đồng mua bán nhà và C trả
cho A 800 triệu đồng. Nếu B đồng ý việc
thoả thuận của A và C, Toà án kiểm tra xác
định việc thoả thuận xuất phát từ ý chí
tự nguyện, sự đồng ý của B vì lợi ích của
A thì Toà án sẽ ra quyết định công nhận
sự thoả thuận của các đương sự. Nếu B
không đồng ý với sự thoả thuận của A và
C nhưng việc B không đồng ý là không vì
lợi ích của A thì Toà án sẽ là quyết định
42
MỘT VÀI Ý KIẾN VỀ ĐƯƠNG SỰ LÀ NGƯỜI BỊ HẠN CHẾ NĂNG LỰC...
Khoa học kiểm sát Số 01 - 2019
việc giải quyết tranh chấp căn cứ vào quy
định của pháp luật.
Do đó, trong trường hợp nếu thấy cần
thiết phải quy định về người đại diện theo
pháp luật của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự thì Toà án nhân dân tối
cao cần có hướng dẫn cụ thể về Điều 88
BLTTDS năm 2015, cụ thể:
- Trong quyết định của Toà án tuyên
bố một người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự xác định rõ người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự là người không có năng
lực hành vi tố tụng dân sự thì việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự
của người bị hạn chế, việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho người này tại Toà
án do người đại diện theo pháp luật thực
hiện. Nếu trong quá trình tham gia tố tụng
tại Toà án đối với các vụ việc về giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản mà không có
người đại diện theo pháp luật hoặc người
đại diện theo pháp luật của họ thuộc một
trong các trường hợp quy định tại khoản
1 Điều 87 BLTTDS năm 2015 thì Toà án sẽ
căn cứ vào khoản 1 Điều 88 BLTTDS năm
2015 chỉ định người đại diện để người đại
diện sẽ thay mặt người bị hạn chế thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự
tại Toà án để bảo vệ quyền lợi của người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Trong quyết định của Toà án tuyên
bố một người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự không xác định về năng lực hành
vi tố tụng dân sự của người bị hạn chế
thì người bị hạn chế được coi là có năng
lực hành vi tố tụng dân sự, được tự mình
tham gia tố tụng, tự mình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
trước Toà án. Tuy nhiên, khi quyết định
các vấn đề liên quan đến tài sản của người
bị hạn chế vẫn cần có sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật (trong quan hệ dân
sự). Việc đồng ý của người đại diện theo
pháp luật phải tuân thủ theo quy định tại
Điều 125 BLDS năm 2015, tức là phải vì lợi
ích của người bị hạn chế. Nếu sự đồng ý
hay không đồng ý của người đại diện theo
pháp luật không vì lợi ích của bị hạn chế
hoặc vi phạm điều cấm pháp luật hoặc trái
đạo đức xã hội thì Toà án sẽ quyết định.
Còn trong trường hợp để bảo vệ quyền
con người và xuất phát từ việc người ng-
hiện ma tuý, nghiện các chất kích thích
khác vẫn là người có năng lực hành vi dân
sự cũng như không nên “can thiệp quá sâu
vào quyền tự định đoạt của đương sự”4 thì
BLDS nên mạnh dạn bỏ quy định về người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Việc
bảo vệ tài sản của gia đình người nghiện
ma tuý hoặc nghiện các chất khích thích
khác và của những cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan sẽ đưa vào phần bảo
vệ quyền sở hữu trong BLDS. Do đó, khi
người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích
thích khác mà phá tán tài sản của gia đình
thì những người có tài sản mà bị người
nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích
thích khác phá tán hoặc cá nhân, cơ quan,
tổ chức có liên quan sẽ bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình thông qua cơ quan
có thẩm quyền. Khi các chủ thể lựa chọn
phương thức khởi kiện ra Toà án để bảo vệ
quyền lợi của mình thì người nghiện ma
tuý, nghiện các chất kích thích khác vẫn có
năng lực hành vi tố tụng dân sự và sẽ tự
mình hoặc uỷ quyền cho người khác thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân
sự tại Toà án. Đồng thời các quy định về
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
trong BLTTDS cũng bị huỷ bỏ./.
4 Nguyễn Thị Phương Châm (2016), Năng lực hành
vi dân sự trong Bộ luật Dân sự 2015 nhìn từ góc độ so
sánh với Bộ Luật Dân sự Nhật Bản, Tạp chí Toà án số
21/2016, tr. 21.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_vai_y_kien_ve_duong_su_la_nguoi_bi_han_che_nang_luc_hanh.pdf