Nền thi học và nghệ thuật nói chung của Nhật Bản luôn
gắn với các cảm thức thẩm mỹ truyền thống. Không thể lý
giải được các hình tượng nghệ thuật Nhật nếu không hiểu
được những rung động thẩm mỹ đặc trưng của tâm hồn dân
tộc. Bởi vậy, đọc những trang văn của miền đất hoa đào,
người ta thấy yếu tố chủ đạo là nỗi buồn chứ không phải
niềm vui, nước mắt chứ không phải nụ cười. Văn học cổ
điển Nhật Bản hướng tới những mưu cầu mang tính trữ tình
nội tâm cá nhân hơn là đối diện với những yếu tố mang tính
xã hội, lịch sử.
Bản chất của tự nhiên là không vĩnh cửu, là phù du nên
cảm thức về mujo (vô thường) trở thành chủ đề trọng yếu
của nghệ thuật Nhật Bản. Trong tất cả các cảm thức thẩm
mỹ truyền thống của người Nhật như mono no aware (vật
ai), sabi (tịch), wabi (đà), yugen (u huyền) đều mang
trong mình tính dự báo của sự diệt vong (horobi). Do đó,
tất cả những nỗi niềm rung động trước cái đẹp mong manh
phản ánh tâm thế, triết lý đậm màu sắc Phật giáo: “cuộc
sống con người là một giọt sương mai”.
Nhưng sự phai tàn của mọi vật trên cõi đời, nếu không
thể là điều tránh khỏi:
Nếu suốt đời chúng ta
Bao giờ cũng như bây giờ,
Tình cảm trong tim chân thành, trong trắng,
Chắc những cánh hoa kia không lẳng lặng
Rơi xuống đất như tuyết bay.
(Manyoshu)
Vậy thì hãy cứ bình tâm đặt một cánh anh đào bên tách
trà, dán lại vách shoji mỗi năm hay thay mới những chiếc
chiếu tatami mỗi độ thu về và ngắm nhìn cái vĩnh hằng
trong vẻ rực rỡ của mùa xuân, sắc đỏ tán lá momiji và vẻ
đẹp ma mị của tuyết trắng
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 642 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mỹ học truyền thống nhật bản từ góc nhìn văn hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(131).2018 35
MỸ HỌC TRUYỀN THỐNG NHẬT BẢN TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
JAPANESE TRADITIONAL AESTHETICS FROM CULTURAL PERSPECTIVE
Nguyễn Phương Khánh
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng; npkhanh@ued.udn.vn
Tóm tắt - Bàn về mỹ học Nhật Bản, người ta nghĩ đến hàng loạt các
phạm trù có tính chất đặc thù như: mono no aware, yugen, wabi,
sabi, miyabi, okashi như là những kí hiệu văn hóa tiêu biểu gắn
với đời sống tinh thần, thẩm mỹ của con người Nhật. Mỹ học truyền
thống của xứ sở hoa anh đào có nhiều điểm vô cùng khác biệt với
phương Tây và kể cả với các nền văn hóa cùng khu vực. Trong đó
quan niệm về cái đẹp và những giá trị thẩm mỹ khác của đời sống
gắn với thiên nhiên, với sinh mệnh thường ngày, với quan niệm của
Thần đạo và Phật giáo. Bài viết đi vào phân tích những biểu hiện của
tinh thần mỹ học Nhật Bản, đặc biệt là quan niệm về cái đẹp, từ góc
nhìn văn hóa và đặt trong đối sánh mỹ học Đông – Tây.
Abstract - In terms of Japanese aesthetics, it is thought that there
are a number of categories of mono no aware, yugen, wabi, sabi,
miyabi, okashi... as typical cultural symbols associated with the
spirit of Japanese people. Traditional aesthetics in the country of
cherry blossom has a lot of differences from the West and even
with the other cultures in Eastern Asia. The concept of beauty and
other aesthetic values of life in Japan is seen as an integral part of
the nature, with daily life’s beings, with the concept of Shinto and
Buddhism. The article analyzes the expressions of Japanese
aestheticism, especially the notion about the beauty, from a cultural
perspective and in East-West aesthetic comparison.
Từ khóa - mỹ học truyền thống Nhật Bản; niềm bi cảm; vô thường;
Thiền tông; Thần đạo.
Key words - Japanese traditional; Aesthetics; mono no aware;
mujo; Zen; Shinto.
1. Mỹ học Nhật Bản trong cái nhìn đối sánh Đông - Tây
Lịch sử mỹ học Nhật Bản nói riêng và các nước phương
Đông nói chung không có điểm xuất phát và quá trình phát
triển như mỹ học phương Tây. Khoa học Mỹ học ra đời
chính thức vào thế kỷ XVII ở châu Âu cũng đi một con
đường hoàn toàn khác với các nước ở vùng Viễn Đông bên
kia. Tất nhiên những khát vọng thuyết minh về mỹ học đã
có từ thời cổ đại. Tư tưởng của các triết gia Hy Lạp xưa trong
tác phẩm “Đối thoại” của Platon, “Thi học” và “Tu từ học”
của Aristote đều được xây dựng tổng kết trên cơ sở kinh
nghiệm của văn nghệ thực tiễn thời xưa. Không có thần thoại,
điêu khắc, sử thi và bi kịch cổ Hy Lạp phồn vinh rực rỡ thì
có thể không có tư tưởng mỹ học của Platon, hay Aristote và
các nhà mỹ học sau này. Tương tự, những người thầy vĩ đại
của người Trung Quốc như Lão Tử, Khổng Tử, Trang Tử...
đều đưa ra hàng loạt các phạm trù có ảnh hưởng rất lớn đến
hệ thống mỹ học Trung Quốc cổ điển.
Tuy nhiên thời đó mỹ học ở cả Đông và Tây chưa thành
môn khoa học độc lập riêng rẽ.
Thuật ngữ Mỹ học (Aesthetics) xuất phát từ tiếng Hy Lạp
có nghĩa là “cảm giác”. Nhận thức thẩm mỹ tất yếu có liên
quan đến giác quan, đặc biệt là thị giác và thính giác. Quan
niệm căn bản của A. Baumgarten (1714-1762) – một nhà mỹ
học người Đức trong thế kỷ XVII, người đầu tiên viết bộ sách
có tên Mỹ học và mở ra giai đoạn có mặt chính thức của bộ
môn khoa học này, đặt song song với các nghiên cứu nghệ
thuật hay triết học – nói ngắn gọn trong một định nghĩa: “Mỹ
học là khoa học về cái Đẹp”. Immanuel Kant (1724 - 1804)
phê phán lý tính thuần túy và đề cao sự cảm tính trong đánh
giá cái đẹp: “Cái đẹp không phải trên đôi má hồng của người
thiếu nữ mà trong con mắt của kẻ si tình”. Hay Hegel, người
đề cao cái đẹp nghệ thuật hơn cái đẹp tự nhiên, lại khẳng định:
“Mỹ học là triết học của nghệ thuật”, tức ông cho rằng đối
tượng nghiên cứu của mỹ học chỉ là cái mỹ của nghệ thuật. Có
thể nói, lý luận về đời sống thẩm mỹ của con người, trung tâm
1 John Keats là một hiện tượng thi ca đặc biệt của Anh quốc thế kỉ XIX. Điều làm nên sự khác biệt giữa Keats và các nhà thơ lãng mạn nổi tiếng cùng
thời chính là quan niệm beauty is truth. Thi sĩ nhấn mạnh vào sự hợp nhất giữa sự thực và cái đẹp (The Oneness of Truth and Beauty).
là các quan niệm về cái đẹp và nghệ thuật, ở phương Tây cực
kì phong phú, nhiều thay đổi và đầy khát vọng “lật đổ” (tạo
lập cái mới) trong mỗi triết thuyết. Tinh thần đặc trưng của
Tây phương là lý tính, vì thế mỹ học của phương Tây cũng có
hình thái lý luận rõ, có tính phân tích và tính hệ thống. Trong
khi đó, mỹ học phương Đông nói chung, đặc biệt là Nhật Bản,
thiên về hình thái kinh nghiệm, cảm tính, trực quan. Phương
Tây coi trọng “tái hiện”, “mô phỏng”, Nhật và các nước cùng
khu vực chuộng tính “biểu hiện”, trữ tình, do đó lý luận ý -
cảnh phát triển. Ý cảnh ở đây nằm trong triết lý “Cảnh sinh vi
tượng ngoại” (cảnh sinh ở ngoài tượng), diễn đạt sự thống nhất
giữa hữu hạn và vô hạn, hư và thực...
Tư tưởng mỹ học phương Tây từ thời Hy Lạp cổ đại qua
thời Trung cổ, Phục hưng, Cổ điển, Ánh sáng... đến mỹ học
dân chủ Cách mạng Nga, mỹ học Mác – Lenin là một con
đường dài với nhiều tư tưởng đa dạng. Căn bản, mỹ học của
các nước phương Tây tập trung vào giải quyết các vấn đề
nhận thức về cái đẹp, trong đó đề cao tính Chân, Mỹ, trong
nhiều trường hợp có thể tuyệt đối hóa cái đẹp cảm tính và
đối lập nghệ thuật với đạo đức (trong khi đó, mỹ học cổ điển
Trung Hoa thống nhất coi trọng “mỹ” – “thiện”).
Mỹ học Nhật Bản gắn bó nhiều hơn với cái Chân, tức cái
Tự nhiên bản thể (khác với ý nghĩ về cái Chân trong sự “mô
phỏng”, “tái hiện”, “mimesis” của phương Tây). Cái Chân
giản dị mộc mạc này, như chính nó, là chỗ vô bản thể
(insubstantiel) nhưng đồng thời cũng là nơi mọi khía cạnh của
hiện hữu được biểu hiện qua nó. Vì thế, không có sự mô phỏng
hiện thực nào có thể diễn giải trực tiếp và đầy đủ về tự nhiên.
Mọi khát vọng biểu hiện nó, phải như tinh thần haiku, là bằng
sự ám gợi (suggestion). Donald Richie cảm nhận về văn hóa
Nhật: “Things as they are, or Nature itself”[4, 16]. Ngay cả
thiên tài thơ ca lãng mạn Anh – John Keats (1795-1821) –
trong nỗi tuyệt vọng khổ đau và tuyên bố tụng ca cái đẹp tuyệt
đối trên tinh thần sự thực là cái đẹp: “Beauty is truth, truth is
beauty”1, có lẽ ông đã rất gần với tinh thần châu Á.
36 Nguyễn Phương Khánh
Mỹ học Nhật Bản cũng khá “dị biệt” trong khu vực
Đông Á mà trung tâm là Trung Hoa. Theo sách Đại cương
lịch sử mỹ học Trung Quốc, khoa học mỹ học cổ điển Trung
Quốc lấy “ý tượng” thẩm mỹ làm cốt lõi, chữ “mỹ” không
phải là phạm trù trung tâm, cũng không phải là phạm trù
cao nhất. Các khái niệm mỹ học của Lão Tử, Khổng Tử,
Trang Tử hay Tuân Tử như “đạo”, “khí”, “tượng”, “diệu”,
“thần”, “phú”, “tỷ”, “hứng”, v.v... thực ra là bộ phận của
triết học. Cái “mỹ” thực chất để hướng đến cái “diệu”, đến
“đạo”, “khí” của sinh mệnh. Còn tư tưởng thẩm mỹ của
Nhật Bản cũng truyền tải qua các khái niệm riêng gắn với
thi ca, các sản phẩm mỹ nghệ thủ công, kiến trúc, hội họa,
đình viên, trà đạo hay vũ đạo, lễ hội... Trong đó trọng tâm
vẫn là hướng đến các sắc thái biểu hiện khác nhau của cái
đẹp trong tinh thần u hoài, vô thường, tàn khuyết, không
hoàn hảo mà giản dị, cô tịch.
Ở Nhật thực ra không có từ ngữ nào diễn tả tương
đương khái niệm Aesthetics với ý nghĩa như phương Tây.
Có một từ là Bigaku美学 được sử dụng khoảng từ năm
1883 (sau giai đoạn tiếp xúc mạnh mẽ với các nước Âu
Mỹ) có ý chỉ về bộ môn Mỹ học. Mặc dù, thi nhân Ki no
Tsurayuki (872 - 945) từ thời Heian, người viết lời mở đầu
cho thi tuyển Kokin waka shu (Cổ kim hòa ca tập) đã được
xem là nhà mỹ học Nhật Bản đầu tiên với lý luận “thơ ca
mọc lên từ trái tim con người”2.
Thêm nữa, những rung động tế vi của tâm hồn Nhật
Bản vốn được thực hành trong nhiều phương diện nghệ
thuật và đời sống, có tính truyền thống lâu dài ít thay đổi
và thường không “nguyên khối”, khác với sự phát triển và
các quan niệm của mỹ học phương Tây. Các phẩm chất đẹp,
buồn, u tịch, cô đơn, giản dị, hư không... trong cảm thức
Nhật Bản lại luôn hòa quyện kết nối với nhau, cùng hướng
về cái ưu nhã, vô thường, chân như của cái đẹp. Bởi vậy rất
khó để sử dụng các thuật ngữ của Mỹ học phương Tây để
diễn giải các cảm thức phương Đông.
Trong rất nhiều phẩm chất đại diện cho tinh thần mỹ
học Nhật Bản, nhà nghiên cứu Donald Keene tóm lại bốn
đặc trưng cơ bản nhất. Đó là:
- Tính ám thị, gợi ý (suggestion);
- Tính bất quy tắc (irregularity);
- Tính giản phác (simplicity);
- Tính tàn lụi, phai phôi (perishability) hay tính vô
thường (impermanence).
Mỹ học phương Tây đôi lúc cũng gặp gỡ Nhật Bản ở
tinh thần tối giản, bất quy tắc hay tính ám gợi. Nhưng có
lẽ, ý tưởng về cái đẹp trong sự tàn phai, biến dịch
(vanishing) thì hơi xa lạ. Tuy nhiên phẩm chất này chính là
ký hiệu đặc trưng của văn hóa Nhật Bản, vốn gắn bó với tư
tưởng mujo của Phật giáo trong cái nhìn vạn vật đều đổi
dời, không gì vĩnh cửu, như Kamo no Chomei (1153-1216)
viết trong mở đầu cuốn tùy bút Hojoki (方丈記 Phương
2 Kokin waka shu là thi tuyển tập hợp hơn 1000 bài thơ, được biên soạn theo chiếu chỉ của triều đình trong khoảng từ năm 904 đến 914. Ki no Tsurayuki
là một trong những nhà phụ trách chính của thi tuyển này, người đã viết lời mở đầu cho tập thơ và cũng là tác giả của rất nhiều bài thơ trong tập.
3 Phương trượng ký (方丈記) là tên tập tùy bút của thi nhân Nhật Bản Kamo no Chomei (Kamo no Naga Akira) viết năm 1212 vào đầu thời Kamakura.
Những năm cuối đời, Chomei lui về ẩn cư ở núi Hino thuộc vùng ngoại ô Kyoto. Tại đây ông dựng một cái am nhỏ, bốn bề mỗi bề một trượng (chừng
3m) nên mới gọi là phương trượng. Chomei ẩn cư trong am, quan sát thế sự đương thời và ghi chép lại nên gọi tác phẩm của mình là “phương trượng
ký”. Đây là tập tùy bút tiêu biểu cho nền văn học Nhật Bản thời trung đại, và được tôn xưng là “Nhật Bản tam đại tùy bút” cùng với tập tùy bút Makura
zoshi (Chẩm thảo tử) thời Heian và tập Tsurezuregusa (Đồ nhiên thảo) sau thời đại của Chomei chừng trăm năm.
4 Ksurezuregusa (徒 然 草 Đồ nhiên thảo) là một tập tùy bút gồm 243 đoạn, do Kenko sáng tác, vào thời Nam Bắc Triều Nhật Bản (thế kỉ XIV).
trượng ký)3:
“Dòng sông vốn chảy mãi không ngừng, mà nước vốn
chẳng phải nước ban đầu. Lại nghĩ bong bóng nổi lên chỗ
nước đọng, vừa tan biến đã lại nổi lên, chẳng lần nào giống
lần nào. Người sống trong đời và nhà cửa trú ngụ của họ
cũng chẳng khác chi.”
Hay cuốn Ksurezuregusa (徒 然 草 Đồ nhiên thảo)4 của
ẩn sĩ Urabe Kenko (khoảng 1283-1350) vào thế kỷ XIV:
“Sương trên cánh đồng Adashi khô ngay, khói núi
Toribe mới nhìn đã không thấy nữa thế mà con người
không muốn mình biến mất như giọt sương, ngọn khói. Tuy
nhiên, nếu cuộc đời cứ kéo dài vĩnh viễn thì còn gì đáng để
xúc động nữa. Chính vì đời vô thường nên nó mới tuyệt
vời.” (Đồ nhiên thảo, đoạn 7, Nguyễn Nam Trân dịch).
Ngay ở phương Đông, đặc trưng thẩm mỹ của người
Nhật cũng khá dị biệt với các quốc gia còn lại. Điều này
gắn với truyền thống văn hóa của từng dân tộc. Có thể nhận
ra rằng, trung tâm của đời sống tinh thần người Ấn Độ là
tình yêu tôn giáo; với người Trung Quốc, đó là triết học về
xã hội, về cách “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Còn
ở đất nước của nữ thần Mặt trời Amaterasu, tôn giáo hay
triết học đều nghiêng về thẩm mỹ, về nghệ thuật, đó là tôn
giáo và triết học về cái Đẹp. Vì thế, Tadao Umesao trong
công trình Lịch sử nhìn từ quan điểm sinh thái học – Văn
minh Nhật Bản trong bối cảnh thế giới cho một ví dụ liên
quan đến việc cảm nhận cái đẹp của người Nhật và người
Ấn khi thưởng thức một bức tranh tường trong một ngôi
đền. Ông cho rằng, người Nhật có thể đánh giá tôn giáo
bằng nghệ thuật, còn người Ấn lại đánh giá nghệ thuật bằng
thước đo tôn giáo. Ông viết: “Dù trong bất cứ trường hợp
nào, chúng ta cũng không thể hiểu được một hoạt động tôn
giáo mà lại không kèm theo vẻ đẹp. Ở Nhật Bản, thậm chí
chúng ta còn có xu hướng coi khoa học là một kiểu của
kinh nghiệm thẩm mỹ. Các nhà toán học hoặc nhà khoa học
dường như thường theo đuổi một lý thuyết vì vẻ đẹp của
nó hơn là vì chính lý thuyết đó. Đối với người Nhật, khoa
học có thể là một loại hình nghệ thuật” [7, trang 58].
Sự khác biệt văn hóa, thẩm mỹ là ở chỗ:
“Khi thăm một ngôi đền ở Nhật Bản, người ta thường
nghe thấy lời bình phẩm về nghệ thuật của một pho tượng
hay những bức tranh Phật giáo. Lời bình phẩm bao hàm
những sự giải thích về nghệ sĩ, trường phái nghệ thuật của
ông ta, và liệu tác phẩm đó có phải là báu vật quốc gia hoặc
là một tài sản văn hóa quan trọng hay không, v.v... Không ai
muốn nghe một bài luận dài dòng về ý nghĩa tôn giáo của
bức tranh. Tuy nhiên, ở Ấn Độ, người ta sẵn sàng nghe giải
thích về tôn giáo hơn là bình luận về ý nghĩa nghệ thuật. Mối
quan tâm chính là về lời răn dạy tinh thần được miêu tả qua
bức tranh. Sự giải thích về một tác phẩm nghệ thuật thường
bị coi là một bài thuyết trình triết học khó” [7, trang 58].
Câu chuyện của giáo sư Tadao Umesao chia sẻ cho
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(131).2018 37
chúng ta về lòng ham mê cái đẹp và nghệ thuật của người
Nhật. Không riêng gì thái độ với tôn giáo hay khoa học, thực
chất mọi khía cạnh của thế giới đối với người Nhật đều để
lại những dấu ấn rung cảm tế vi và đều được soi sáng dưới
các cảm thức thẩm mỹ. Chính vì thế, những sự vật, hoạt động
thường nhật sẽ được óc thẩm mỹ sắp xếp, sáng tạo sao cho
đậm chất nghệ thuật. Việc bố trí một bàn ăn, một hộp cơm
bento, một chiếc quạt giấy, một chiếc bánh ngọt... cũng là cả
một công trình tinh tế, gây ấn tượng thị giác. Mỹ học truyền
thống Nhật Bản hướng đến một cảm quan rất riêng về cái
đẹp giữa cuộc đời nhân thế, đó cũng là chìa khóa để bước
vào toàn bộ nền văn hóa nghệ thuật và tâm hồn sâu thẳm nỗi
niềm của con người Phù Tang.
2. Đặc trưng cái Đẹp trong mỹ học truyền thống Nhật
Bản
Cái Đẹp dưới đôi mắt Nhật Bản không phải chỉ là đóa
hoa rực rỡ mãn khai hay vầng trăng sáng vằng vặc không
gợn một bóng mây, không phải chỉ có đền đài vĩ đại hay
tiếng rộn rã của các điệu nhảy mùa xuân. Cái Đẹp đơn giản
có thể bắt đầu từ một nụ hoa sớm mai, một hòn sỏi cô đơn,
một ngọn đèn đá trong vườn trà, cho đến sắc áo thanh tao
của chiếc kimono, âm điệu man mác từ cây đàn shamisen
hay một cuốn sách trường thiên kể về cuộc đời trầm luân
của hoàng tử ánh sáng Genji.
2.1. Cái đẹp nhỏ nhắn, giản phác, thuần khiết
Người Nhật có khuynh hướng thu nhỏ, ý thức thẩm mỹ
đặc biệt ưa chuộng những cái nhỏ bé, xinh xắn, đến nỗi
chúng ta có thể thốt lên “kawaii!”. Cái nhỏ nhắn này liền
với sự tinh tế, chắt lọc và ưu nhã trong cái nhìn và sự biểu
hiện trong nghệ thuật Nhật Bản. Thơ haiku, truyện trong
lòng bàn tay, cánh hoa anh đào nhẹ mỏng, chiếc quạt gấp
sensu, cơm nắm, đèn lồng gấp chochin, cây cảnh bonsai...
tượng trưng cho khuynh hướng giản lược, cắt gọt, chuộng
cái nhỏ nhắn tế vi trong cảm thức về cái đẹp của người Nhật.
Khu vườn khô karesansui cũng là biểu hiện cho việc kéo
núi non, biển cả vào trong khoảng vườn nhỏ hẹp.
Nữ sĩ tài hoa của văn học thời Heian, Sei Shonagon (c.
966–1017/1025), nói rằng: “Cái gì cũng vậy, những vật
nhỏ đều đẹp”.
Cái đẹp nhỏ xinh gắn với sự tế nhị, duyên dáng và nhã
nhặn trong tâm hồn người dân đảo quốc này, luôn muốn
tìm đến vẻ giản đơn, bình dị ẩn trong mọi biểu hiện tự nhiên,
thuần khiết của sự vật. Cảm quan về cái đẹp như thế đã tạo
nên yếu tố giản phác trong mỹ học Nhật. Nghệ thuật tồn tại
những khoảng trống thinh lặng của không gian, thời gian,
hòa vào tự nhiên, không mưu cầu kỹ xảo phức tạp, hoa mỹ.
Đó cũng là lý do mà hội họa Nhật Bản không sử dụng nhiều
màu rực rỡ chói sáng. Chủ đề chính yếu của ngành hội họa
Nhật Bản vẫn là các dáng vẻ của thiên nhiên trời đất qua
bốn mùa. Những hoa văn trang trí có trên lụa vải, tranh vẽ,
gốm sứ truyền thống đều là những hình ảnh thực vật, hoa,..
với màu sắc tả thực. Soi chiếu cuộc sống bằng cái nhìn của
tự nhiên, bằng trái tim yêu tự nhiên tha thiết là nhãn quan
của người nghệ sĩ Phù Tang để tạo nên những tác phẩm
bình dị, nhỏ bé và thấm nhuần vẻ đẹp truyền thống.
Nhà nhân chủng học người Pháp nổi tiếng Claude Lévi-
5 Truyện ngắn Trăng Tây hồ (Seiko no tsuki, 1919) của Tanizaki Junichiro.
Strauss khi nghiên cứu Nhật Bản đã nhận ra “mặt khác của
trăng”. Sự khác biệt của nghệ thuật truyền thống Nhật ngay
ở phương Đông, theo Lévi- Strauss, đó là ý đồ biểu đạt và
sự giản dị trong cách thực hiện, khác với tính chất phức tạp
của nghệ thuật Trung Quốc. Ý thức thẩm mỹ của người dân
đảo quốc vùng Đông Á này đặc biệt hướng về thế giới vạn
vật ở trạng thái nguyên sơ, những bố cục thô ráp, những
hình thù không đều nhau hoặc không đối xứng (nghĩa là
hoàn toàn tự nhiên, không trau chuốt đẽo gọt), hay những
tác phẩm tối giản táo bạo. Đó chính là “nghệ thuật của cái
không hoàn hảo” – nghệ thuật nguyên thủy – cái đẹp thuần
khiết tự nhiên nhất.
Cái đẹp thanh đạm, sâu sắc, không rực rỡ bề ngoài
chính là điểm đặc biệt trong cảm thức về cái đẹp của người
Nhật. Từ tranh vẽ, kiến trúc đến hoa đạo, trà đạo, thư đạo
đều ngập tràn thanh sắc mộc mạc, và thanh tịnh vô cùng.
Trong thi học cổ điển, hình ảnh tự nhiên thanh nhã hữu tình
của ánh trăng, núi non phong cảnh, chim ca, hoa từng
mùa xuyên thấm những vần thơ bé nhỏ hay những trang
nhật ký, những cuốn vật ngữ trường thiên. Ngay cả nhà văn
được xem là người chuyên miêu tả “cái đẹp đồi phế” như
Tanizaki Junichiro (1886-1965) thực ra cũng cực kì rung
động trước vẻ thanh tao, thoát tục. Trên chuyến tàu đến
Hàng Châu đầy khách Trung Quốc, con mắt tinh tế của nhà
văn quan sát kĩ những cô gái áo lụa sặc sỡ và ấn tượng chỉ
dừng lại bởi một cô trẻ tuổi ăn vận thanh thoát hơn cả với
cánh áo màu xanh men sứ nhàn nhạt và đôi giày trắng. Cái
màu sắc này nhà văn cảm tưởng hình dáng cô như tan loãng
vào màu xanh của núi hồ man mác5.
2.2. Cái Đẹp trong khuynh hướng biểu hiện tượng trưng
Cái bình đạm, tinh tế, nhỏ nhắn của cái đẹp đưa đến
khuynh hướng tượng trưng trong cảm thức thẩm mỹ trong con
mắt của người Nhật. Khác với mỹ học phương Tây thường đề
cao tổng thể, hình khối nguyên vẹn thì người dân xứ sở ngàn
cánh hạc lại chú trọng tính mộc mạc và đường nét giản phác
kiểu “chỉ vẽ một nhánh cỏ mà thấy được ngọn gió đi qua”.
Vì thế, trong nghệ thuật Nhật Bản, người ta thấy cách
biểu hiện khiêm nhường, giản dị, thanh đạm, nhiều khoảng
trống đầy ý nghĩa, gây cảm động sâu xa. Cái hư không, cái
“rỗng”, mơ hồ được đề cao hơn là cái thực. Một bài thơ
haiku nhỏ nhắn thực ra không hướng đến việc kể những
câu chuyện phong phú, đầy ắp hiện thực, ngược lại, ưa ghi
lại những khoảnh khắc, những phút lóe sáng, những đường
nét mong manh của thế gian. Trong không gian khiêm
nhường của trà thất, một bức thư pháp, một bông hoa dại
hái bên đường... nhắc nhớ cảm thức “hòa – kính – thanh –
tịch” trong tâm hồn trà nhân. Tất cả mối giao hòa đó đạt
được từ sự không phân biệt cái thực và hư, cái đầy đủ và
sự thiếu vắng, cái cụ thể và cái tượng trưng, cái thẩm mỹ
và cái bình thường...
Trong kết cấu “ý – tượng” của thi – họa thời cổ đại Trung
Quốc, cái “hư không” có vị trí quan trọng. Không có cái hư
không, ý cảnh và hội họa Trung Quốc, kể cả thi ca, không
thể sinh ra. Người Nhật cũng đồng điệu điểm này. Nghệ
thuật biểu diễn truyền thống của xứ sở Mặt trời mọc bởi vậy
chuộng sự ẩn dụ và u huyền hơn là thực. Dùng tiết tấu âm
nhạc phối hợp với động tác biểu diễn, không cần kịch tính
38 Nguyễn Phương Khánh
(theo nhận thức của người phương Tây), ở Nhật Bản lại được
xem là vô cùng chân thực. Bởi nó chân thực với chủ thể, một
mối giao tình thâm sâu của đời sống tâm trí được biểu hiện
thông qua các nhận thức có vẻ mơ hồ này.
Điều nói trên khiến cho bức tranh quạ đậu cành khô của
Basho6 trở thành một công án siêu việt. Những nét phác
quá ít ỏi của bài haiku kinh điển này lại khơi dậy bao bí
mật trong hố thẳm, bởi nghệ thuật không cần ngôn ngữ
rườm rà. Mọi sự phô bày cụ thể quá sẽ mất đi tính ám thị,
mà sức ám thị, có thể nói, chính là sức mạnh bản thể của
nghệ thuật Nhật Bản.
Tính giản phác và tượng trưng này hoàn toàn hợp với
tinh thần của Thiền (ở một góc độ nào đó, Thiền có thể
được xem là điểm sâu nhất trong văn hóa Nhật Bản và có
thể được quy thành một thứ tâm lý dân tộc). Tính duy mỹ
Thiền đưa đến một đặc trưng văn hóa Nhật, đó là so với
những xung động từ đạo đức (cái Thiện) thì xung động từ
nghệ thuật mới là cội nguồn, là bản tính vốn có của cuộc
sống, thúc đẩy sự sáng tạo, sự suy nghiệm. Thiền từ chối
những lối diễn dịch dài dòng, sáo rỗng, trung thành với trực
giác siêu việt tuyệt đối, bằng kinh nghiệm và sự giác ngộ
tự thân. Nghệ thuật Thiền đưa đến các đặc điểm điển hình
như “tính phi đối xứng, tính tàn khuyết và tính nhất giác”
như D.T.Suzuki đã nói. Sự ưa chuộng cái bất đối xứng
(Fukinsei) là biểu hiện cho sự phản kháng với quyền lực
của lý tính, của mọi khái niệm tồn tại như một định chế
trong tư tưởng con người. Vẻ đẹp của “tàn khuyết” chính
là cái đẹp không hoàn chỉnh, tự nhiên, nguyên thủy. Và tính
“nhất giác” là phong cách hội họa truyền thống vốn dùng
rất ít nét vẽ để tạo hình tạo nên tinh thần sabi cô tịch trong
tâm hồn người Nhật. Sự giản phác, tượng trưng này, Suzuki
nói rằng nó xuất phát từ quan niệm “Một là tất cả, tất cả là
một” trong phương pháp tư duy của Thiền. Trong rỗng có
đầy, trong chân không có vạn vật, trong hố thẳm có giác
ngộ, trong ta có tha nhân. Vì thế, không cần giải thích dài
dòng trực tiếp, Thiền dùng công án để đệ tử phải trầm tư
tìm kiếm, hoặc dùng cú đấm, gậy gộc, tiếng thét (thiền Lâm
tế) để đệ tử hỗn loạn tinh thần và kéo thoát họ ra khỏi cơn
mê hình tướng vô thường.
Tư tưởng mỹ học kiểu Thiền này có vẻ thần bí, xa lạ
với tư duy phương Tây, bởi như lời của Lévi-Strauss:
“Từ thời Hy Lạp cổ đại, phương Tây tin rằng con người
có quan năng nắm bắt thế giới bằng cách sử dụng ngôn ngữ
phục vụ cho lý tính: một sự biện luận được cấu tạo trùng
khít với thực tại, nó tiệm cận và phản ánh trật tự của những
sự vật. Ngược lại, theo quan niệm của phương Đông thì
mọi sự biện luận đều không tương liên một cách bất khả
vãn hồi với cái thực tồn. Bản chất tối hậu của thế giới, giả
định khái niệm này là có một ý nghĩa, bị vuột khỏi chúng
ta. Nó vượt lên bên trên khả năng suy tưởng và diễn đạt của
chúng ta. Ta không thể biết bất cứ điều gì về nó và do đó
không thể nói được bất cứ cái gì về nó”[5, trang 46].
Nhà văn Nhật Bản đầu tiên nhận giải Nobel Văn
chương năm 1968 là Kawabata Yasunari cũng phát biểu
rằng tinh thần phương Đông nằm ở khoảng trống, ở chân
6 Trên cành khô/ Quạ đậu/ Chiều thu (Basho, Nhật Chiêu dịch).
7 Tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa là “hư vô”.
8 Một loại hoa màu tím ngát giống hoa bìm bìm dại. Người Trung Quốc gọi là hoa khiên ngưu.
không, ở “Hư vô”. Nhưng cái hư vô này hoàn toàn khác
với chủ nghĩa hư vô (nihilism) của phương Tây như nhân
vật bồi già đại biểu cho thế hệ mất mát (lost generation)
trong truyện ngắn Một nơi sạch sẽ và sáng sủa của Ernest
Hemingway đã lẩm nhẩm: Nada! Nada!7... Bởi như nhà
văn giải thích, căn bản “do những cội rễ tinh thần của chúng
ta khác nhau”.
2.3. Cái đẹp đậm phong cách tao nhã, nữ tính
“Ưu nhã” là tâm thế cao quý quyết định nền tảng của
mỹ học truyền thống Phù Tang, được gọi là miyabi. Những
phạm trù cơ bản trong mỹ học Nhật đều nằm trong bầu
không khí tinh tế huyền diệu của chữ miyabi ấy. Những nét
tinh túy từ thiên nhiên, từ cảnh sắc xung quanh đến lòng
người được phô bày bằng một cảm quan hết sức thanh thoát,
ưu nhã vô cùng. Ngay cả cảm thức phù du cuộc thế cũng
không gì khác hơn chính là sự ứng xử đầy thanh tao, bởi
họ quan niệm, hãy sống và chết như một đóa hoa.
Xuất phát từ cảm quan ưa chuộng những cái đẹp nhỏ
nhắn, tinh tế, mộc mạc, nghệ thuật Nhật Bản trở nên đậm
vẻ nữ tính, mềm yếu, thiên về trữ tình nội tâm và chú trọng
khắc họa các hình tượng nghệ thuật dưới góc độ tâm lý
thẩm mỹ hơn là quan điểm đạo đức hay các triết thuyết đầy
tính cách mạng. Vì vậy nhiều nhà nghiên cứu phương Tây,
chẳng hạn Michael F. Marra, gọi đó là một kiểu sùng bái
cái đẹp (a cult of beauty) đậm cảm thức nữ tính “feminine
sensibility” [3].
Phong cách văn chương Nhật điển hình bởi tính mơ hồ,
thuần khiết nhẹ nhàng, không phù hợp để mô tả những cung
bậc cảm xúc dữ dội, hành vi kì quái hay những tư tưởng
tàn bạo. Phong cách tao nhã ấy gọi là wabun, vốn là truyền
thống của thơ tanka, truyện vật ngữ monogatari, các trang
tùy bút zuihitsu hay thơ haiku... Tất nhiên không phải
không có những hiện tượng cá biệt, bởi tính cách của con
người trên đất nước của “hoa cúc và lưỡi kiếm” là sự tương
phản mạnh mẽ. Việc đối lập giữa thanh gươm bên mình võ
sĩ đạo với hoa anh đào trong vườn quý tộc cung đình không
làm mất đi nỗi khao khát nâng niu một làn hương, một tà
áo mỏng hay một bông hoa asagao8 ban sớm.
Yếu tố nữ tính này cũng căn bản bắt nguồn từ tinh thần
của tầng lớp quý tộc đặc biệt thời Heian (794-1192). Cái
tên Heian (Bình An) gợi lên một thời thanh bình an lạc
trong lịch sử Nhật Bản. Văn học phản ánh những niềm vui
ở cung đình của giai cấp quý tộc trong một xã hội duy mỹ
và hưởng lạc, những mối tình say đắm, thú tiêu khiển tao
nhã như cầm kỳ thi họa, những cuộc du ngoạn núi đồi
thưởng hoa, ngắm lá, chờ tuyết rơi... Tất cả nhiều khi đượm
một nỗi buồn ngao ngán về cái phù du của trần thế (do ảnh
hưởng của Phật giáo). Phụ nữ được đề cao, các tác phẩm
văn chương chủ yếu do giới nữ lưu sáng tác. Các kiệt tác
văn chương thời kỳ này hướng về cái đẹp, chứa đựng cảm
thức aware (bi cảm) với những rung động tâm hồn sâu kín
và tinh tế. Công lao lớn thuộc về các phụ nữ quý tộc, những
người đã sáng tạo các tác phẩm nổi tiếng, thật có giá trị bất
tử như Genji monotagari (Murasaki Shikibu), Chẩm thảo
tử (Sei Shonagon) cùng hàng loạt các tác phẩm thơ ca, nhật
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(131).2018 39
ký, tùy bút, tiểu thuyết gây ấn tượng mạnh mẽ khác như
tuyển tập Kokinshu (Cổ kim tập, biên soạn năm 905), Nhật
ký Murasaki, Nhật ký Izumi... Sự nở rộ của các thiên tài nữ
giới khiến không ít người phải cho rằng văn hóa Heian là
văn hóa của cái Đẹp, văn hóa của nữ phái.
Những thành tựu nghệ thuật rực rỡ của gần 400 năm an
bình quý tộc ấy chủ yếu rơi vào tay nữ giới. Nhưng ngay
cả khi giai cấp võ sĩ thống trị suốt những năm binh đao chia
cắt của thời trung thế, tất cả chiều sâu của vẻ thẩm mỹ nhẹ
nhàng, trầm tĩnh, quý phái vẫn không mất đi. Giữa dao
gươm lửa loạn, mỹ học Nhật vẫn hướng về nỗi u huyền
thâm sâu, có cứng cỏi hơn, bớt xa hoa hơn, song vẫn mơ
màng, cô tịch và phong nhã.
Vượt lên sự phù du của cuộc thế, các nghệ thuật gia
Nhật Bản thường trực một niềm tin vào sự phong nhã dịu
dàng của đời thực trong nỗi hư vô, trong sự cô đơn, nhàn
tịch và hưởng thụ cái đẹp tự nhiên, lấy hoa trăng tuyết mây
làm bạn tâm giao. Tính nghệ thuật có được từ niềm giản dị,
tao nhã nữ tính, vô kĩ xảo đó. Cái uyên nguyên thăm thẳm
của mỹ học Nhật Bản biểu hiện qua hội họa, trà đạo, thư
đạo, hài cú đạo... đôi khi đượm vẻ mềm yếu sầu lắng bên
ngoài, nhưng chính nỗi tao nhã dịu dàng hư không đấy lại
làm nên cốt cách phong lưu và đạt sự giác ngộ giữa thế gian
không sai biệt. Như cánh bướm biết đời ngắn ngủi vẫn hồn
nhiên ngủ thiếp trên chiếc chuông đồng vĩnh cửu trong
haiku của họa sư, nhà thơ Yosa Buson (1716-1783).
Trên chuông chùa
Ngủ say sưa
Một con bướm nhỏ.
2.4. Cái đẹp và nỗi buồn – mỹ học của phù thế
Như đã nói ở phần đầu, mỹ học Nhật Bản chịu sự chi
phối của tư tưởng Phật giáo với triết lý về bản chất vô
thường của đời sống. Cộng hưởng với thực tế thiên nhiên
diễm lệ nhưng nhiều sóng gió của đảo quốc bên bờ Thái
Bình Dương, truyền thống Nhật Bản mời gọi nhận thức về
sự hư vô mong manh của “phù thế” (thế gian trôi nổi). Song,
đó không phải là nỗi niềm tuyệt vọng hay bi quan đau khổ
mà là sự nhắc nhớ niềm trân trọng với thực tại, với bao vẻ
đẹp tự nhiên đương huy hoàng trong cõi sống của chúng ta
và sự biết ơn đối với mọi khoảnh khắc.
Vẻ đẹp của cánh anh đào luôn gợi nhắc cho chúng ta
nỗi buồn về sự ngắn ngủi của tất cả mọi kiếp nhân sinh.
Tấm gương soi hay bất cứ vật thể nào có khả năng phản
chiếu trong văn chương Kawabata đều miêu tả những màu
sắc phi thực, sự mất mát và tình yêu không thành. Câu
chuyện của Akutagawa, Mishima hay Haruki Murakami...
luôn hiện hữu cái chết. Những thi phẩm cổ xưa nhất của
người Nhật trong tập Manyoshu cũng đầy ắp các khúc bi
ca, tiếng thơ thổn thức than khóc trên bia mộ. Khu vườn đá
tịch mịch trong chùa Ryoanji ở cố đô Kyoto cũng khiến du
khách không khỏi trầm mặc, thậm chí nhói lên những kỷ
niệm đánh mất... Các cảm thức về sự ưu nhã, thanh tao, cô
tịch... đã nhắc ở phần trên cũng đã hàm chứa trong đó dấu
ấn của xúc động u uẩn. Nói chung, cái đẹp trong nghệ thuật
truyền thống Nhật Bản thường đượm nỗi buồn của thời
gian, của ký ức và suy nghiệm sâu xa.
9 Cỏ mùa hạ đầy/ Giấc mơ người tráng sĩ/ Còn vương đâu đây (Basho, Nhật Chiêu dịch)
Mỹ học đượm vẻ buồn này của văn hóa Nhật Bản (đã
có truyền thống hơn ngàn năm mang tên cảm thức - aware)
cũng dẫn ta tới triết lý về cái chết. Người ta vẫn thường hay
nhắc đến tinh thần dữ dội, “không sợ chết” của người võ sĩ
đạo Nhật Bản. Đất nước hoa cúc (hoa cúc 16 cánh là biểu
tượng của Hoàng gia Nhật Bản) cũng nổi tiếng với các nghi
thức tự sát và tỉ lệ người tự tử. Mặc dù rất trân trọng rất tha
thiết với cái đẹp sinh động trong thế gian, song người Nhật
cũng sẵn sàng đón nhận sự ra đi và luôn rèn giũa lý tưởng
dâng hiến cuộc đời cho cái chết. Chúng ta không thấy trong
văn hóa Nhật có triết lý cụ thể về cách sống, nhưng lại có
mỹ học của cái chết. Vấn đề không phải là sợ hay không sợ
cái chết, điều cốt yếu tinh thần đối diện với sự ra đi của
thân thể. Thậm chí người ta còn dạy các samurai ngày nào
cũng phải nghĩ đến cái chết, phải giữ tư tưởng “chết trong
lòng” để đến lúc đối mặt sinh tử, người võ sĩ không còn run
sợ nữa. Họ sẽ thản nhiên bước vào cuộc chiến với trạng
thái “nhất tâm”, như một đóa anh đào sẵn sàng rụng rơi
theo gió mà vẫn huy hoàng đến phút cuối.
Cái chết đối với người Nhật không phải là sự từ giã hay
chấm dứt. Ở một khía cạnh nào đó là cách để gột rửa thanh
danh, để giữ phẩm giá gọi là giri. Đồng thời, ở một khía
cạnh khác, do tính cách nhạy cảm sâu xa của người Nhật
(mà vì thế nên sự lý giải về nỗi buồn trong con người Nhật
khó có thể xuất phát từ nguyên nhân đổ vỡ giữa lý tưởng
và hiện thực như các nhà lãng mạn phương Tây), cái chết
(tự sát) cũng là cách họ hướng sự cực đoan về chính mình,
hủy hoại chính mình thay vì hủy hoại người khác. Đối với
hầu hết mọi người trên thế giới, việc tự sát là nỗi thất vọng,
bất lực, song với người Nhật, hành vi đó được chấp nhận
như một nguyên lý có mục đích và đầy tính thẩm mỹ.
Tất nhiên, không có sự mất mát nào không gây thổn
thức. Bởi vậy, những chiến binh lạnh lùng của văn hóa
bushido (võ sĩ đạo) lại cực kì nhạy cảm với sự trôi chảy
biến đổi không ngừng của thế cuộc. Và hiểu được điều này,
chúng ta sẽ không ngạc nhiên trước di sản nghệ thuật độc
đáo tao nhã của giới võ sĩ Nhật xuyên suốt thời trung đại,
đồng thời cảm nhận được tâm trạng của họ khi ngồi trước
vở diễn tuồng No đầy ám thị trước cái chết (vở kịch No đầy
ắp bóng ma, bởi hòa điệu trong âm nhạc ai oán là cái chết
ngay lúc mở màn của nhân vật chính), hay đồng điệu với
lời mở đầu trong câu chuyện binh đao khói lửa khốc liệt
của thời Mạc phủ (Heike monogatari, 1233): Tiếng chuông
chùa Gion/ Vọng lên nỗi vô thường/ Những người đầy tham
vọng/ Như giấc mộng đêm xuân/ Anh hùng rồi tuyệt diệt/
Như bụi giữa cuồng phong (Nhật Chiêu dịch).
Truyện viết về đề tài chiến tranh, song lại mang cảm
thức lặng lẽ của nhân sinh như mộng ảo và mở màn bằng
bài kệ về sự vô thường. Tất cả được - mất, có – không, danh
vọng – hư vô rồi sẽ như bụi trước cuồng phong, để lại sau
này là những ngọn cỏ mùa hè lấp vùi giấc mơ người tráng
sĩ trong thơ Basho9.
3. Tạm kết
Nền thi học và nghệ thuật nói chung của Nhật Bản luôn
gắn với các cảm thức thẩm mỹ truyền thống. Không thể lý
giải được các hình tượng nghệ thuật Nhật nếu không hiểu
40 Nguyễn Phương Khánh
được những rung động thẩm mỹ đặc trưng của tâm hồn dân
tộc. Bởi vậy, đọc những trang văn của miền đất hoa đào,
người ta thấy yếu tố chủ đạo là nỗi buồn chứ không phải
niềm vui, nước mắt chứ không phải nụ cười. Văn học cổ
điển Nhật Bản hướng tới những mưu cầu mang tính trữ tình
nội tâm cá nhân hơn là đối diện với những yếu tố mang tính
xã hội, lịch sử.
Bản chất của tự nhiên là không vĩnh cửu, là phù du nên
cảm thức về mujo (vô thường) trở thành chủ đề trọng yếu
của nghệ thuật Nhật Bản. Trong tất cả các cảm thức thẩm
mỹ truyền thống của người Nhật như mono no aware (vật
ai), sabi (tịch), wabi (đà), yugen (u huyền) đều mang
trong mình tính dự báo của sự diệt vong (horobi). Do đó,
tất cả những nỗi niềm rung động trước cái đẹp mong manh
phản ánh tâm thế, triết lý đậm màu sắc Phật giáo: “cuộc
sống con người là một giọt sương mai”.
Nhưng sự phai tàn của mọi vật trên cõi đời, nếu không
thể là điều tránh khỏi:
Nếu suốt đời chúng ta
Bao giờ cũng như bây giờ,
Tình cảm trong tim chân thành, trong trắng,
Chắc những cánh hoa kia không lẳng lặng
Rơi xuống đất như tuyết bay.
(Manyoshu)
Vậy thì hãy cứ bình tâm đặt một cánh anh đào bên tách
trà, dán lại vách shoji mỗi năm hay thay mới những chiếc
chiếu tatami mỗi độ thu về và ngắm nhìn cái vĩnh hằng
trong vẻ rực rỡ của mùa xuân, sắc đỏ tán lá momiji và vẻ
đẹp ma mị của tuyết trắng.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát
triển Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng trong đề tài
mã số B2016-DNA-07-TT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Ishida Kazuyoshi, Nhật Bản tư tưởng sử, Bản dịch của Châm Vũ
Nguyễn Văn Tần, 2 tập, Tủ sách Kim Văn, Ủy ban dịch thuật, 1973,
trang 239.
[2] Diệp Lang, Đại cương lịch sử mỹ học Trung Quốc, NXB Thế giới,
2014.
[3] Michael F. Marra, Essays on Japan – Between Aesthetics and
Literature, The Brill NV, Leiden, Boston, 2010.
[4] Donald Richie, A Tractate on Japanese Aesthetics, Stone Bridge
Press, Berkeley, California, 2007.
[5] Claude Lévi-Strauss, Mặt khác của trăng – khảo luận về Nhật Bản,
Nguyễn Duy Bình dịch, NXB Thế giới, 2018.
[6] D. T. Suzuki, Thiền và văn hóa Nhật Bản, NXB Hồng Đức, 2013.
[7] Tadao Umesao, Lịch sử nhìn từ quan điểm sinh thái học – Văn minh
Nhật Bản trong bối cảnh thế giới, Nguyễn Đức Thành và Bùi
Nguyễn Tuấn Anh dịch, NXB Thế giới, 2007.
[8] Lee O Young, Người Nhật với chí hướng thu nhỏ, NXB Chính trị
Quốc gia, 1998.
(BBT nhận bài: 21/08/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 24/10/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
my_hoc_truyen_thong_nhat_ban_tu_goc_nhin_van_hoa.pdf