Thứ bảy, về cơ sở vật chất
Hệ thống giảng đường là yếu tố đóng vai
trò quan trọng đối với nhà trường trong việc
đảm bảo chất lượng đào tạo. Hiện nay, tại Hà
Nội Học viện Tư pháp có Toà nhà giảng
đường cao 11 tầng với 41 phòng học từ 20
đến 150 chỗ ngồi và 01 hội trường lớn 378
chỗ ngồi. Các phòng học đều được trang bị
hệ thống âm thanh chuẩn để giảng bài và có
hệ thống điều hoà nhiệt độ. Ngoài ra Học
viện Tư pháp còn có 02 phòng học được
trang bị đầy đủ các trang thiết bị dành riêng
cho việc diễn án. Học viện cũng có khu ký
túc xá với hơn 780 chỗ ở, được trang bị đồng
bộ, người ở được cung cấp đầy đủ chăn, ga,
gối, đệm, quạt điện cá nhân, hệ thống nước
nóng, dịch vụ ăn uống. Cơ sở Học viện Tư
pháp tại thành phố Hồ Chí Minh được khánh
thành vào tháng 11/2017 với hệ thống giảng
đường, hội trường diễn án, khu ký túc xá hiện
đại đáp ứng đủ năng lực đào tạo nghề tại Học
viện ở phía Nam với diện tích sàn xây dựng
khoảng 13.000 m2. Như vậy, Học viện Tư
pháp đã có thể đảm bảo về cơ sở vật chất cho
việc triển khai chương trình đào tạo.
Tuy nhiên, Học viện Tư pháp cũng cần định
kỳ rà soát lại hệ thống phòng học, nâng cấp hệ
thống thông tin, nâng cấp các trang thiết bị như
máy tính, máy chiếu, hệ thống âm thanh để
đảm bảo cho việc truyền đạt và tiếp nhận thông
tin giữa người dạy – người học đạt hiệu quả cao
nhất. Mặt khác, Học viện cũng cần đầu tư xây
dựng, triển khai, lắp đặt hệ thống phòng học
trang bị máy tính hiện đại nhằm giúp cho người
học dễ dàng tra cứu tài liệu, thực hành kỹ năng
nghề tại chỗ; xây dựng các mô hình phòng học
mang tính chất mô phỏng như phòng thực
hành, thực nghiệm, phòng kỹ thuật hình sự để
phục vụ cho việc triển khai giảng dạy những kỹ
năng nghề đặc thù.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 333 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao chất lượng đào tạo nghề luật sư đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö”
3
CAÛI CAÙCH - TÖ PHAÙP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ LUẬT SƯ
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Lê Thu Hằng1
Trần Thị Thanh Thủy2
Tóm tắt: Nghề luật sư ngày càng có vị trí quan trọng trong Nhà nước pháp quyền, đặc biệt
trong điều kiện thực hiện cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế ở Việt Nam. Do đó “Đào tạo,
phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên
môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời
xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư” là một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp
được xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị. Bài viết nhìn
nhận lại hoạt động đào tạo nghề luật sư và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo nghề luật sư tại Học viện Tư pháp.
Từ khóa: đào tạo nghề luật sư, luật sư phục vụ hội nhập quốc tế, Học viện Tư pháp, chương
trình đào tạo, cải cách tư pháp.
Nhận bài: 10/05/2018; Hoàn thành biên tập: 23/05/2018; Duyệt đăng: 26/07/2018.
Abstract: The law profession is becoming more and more important in the rule of law,
especially in the context of judicial reform, reform and international integration in Vietnam.
Therefore, “training and developing the contingent of lawyers in sufficient quantity, of political
qualities, ethics and professional qualifications, perfecting the mechanism to ensure that lawyers
perform well in litigation at the trial and at the same time clearly determine the lawyer’s liability
regime “as one of the judicial reform tasks defined in Resolution No. 49-NQ/TW, dated
02/06/2005 of the Politburo. The article looks back on lawyer training and recommends solutions
to improve the quality of lawyer training at the Judicial Academy.
Keywwords: lawyer training, lawyer serving international integration, Judicial Academy,
education program, judicial reform.
Date of receipt: 10/05/2018; Date of revision: 23/05/2018; Date of approval: 26/07/2018.
Trong công cuộc cải cách tư pháp hiện
nay, việc sử dụng cán bộ tư pháp nói chung và
các chức danh tư pháp nói riêng trong đó có
luật sư đặt ra những yêu cầu mới. Luật sư phải
được đào tạo và có đủ các tiêu chuẩn do pháp
luật quy định, đặc biệt “chú trọng giáo dục
chính trị, đạo đức nghề nghiệp”, bảo đảm cho
họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao
động trước những diễn biến phức tạp của tình
hình, không bị cám dỗ bởi vật chất, đồng thời
phải được thường xuyên “cập nhập mới về
chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng
nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn”. Theo quy
định tại Luật Luật sư năm 2012, Học viện Tư
pháp được xác định là một trong các cơ sở đào
tạo nghề luật sư. Với bề dầy hơn 15 năm đào
tạo nghề luật sư, Học viện Tư pháp luôn nỗ
lực đổi mới để nâng cao chất lượng đào tạo
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nhằm cung
ứng nguồn nhân lực với yêu cầu ngày càng
cao từ phía người sử dụng.
1. Cơ sở pháp lý của việc đào tạo nghề
luật sư đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
phương hướng cơ bản để phát huy đúng
1 Tiến sỹ, Giảng viên, Khoa Đào tạo luật sư, Học viện Tư pháp
2 Thạc sỹ, Giảng viên, Khoa Đào tạo luật sư, Học viện Tư pháp
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
4
nghĩa quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo
tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân. Trong đó, cải cách tư pháp đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là vấn đề mang tính cấp bách.
Trong quá trình này, vai trò của luật sư cần
được chú trọng, phát huy. Hoạt động nghề
nghiệp của luật sư nhằm mục đích góp phần
bảo vệ công lý, bảo vệ độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ; góp phần phát triển kinh
tế, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhìn một cách tổng thể thì hoạt động nghề
nghiệp của luật sư hiện nay chưa đáp ứng
được nhu cầu ngày càng cao của xã hội, nhất
là trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương
mại. Vì vậy “đào tạo, phát triển đội ngũ luật
sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo
đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ
chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc
tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định
rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư” là một
trong những nhiệm vụ được xác định tại Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020” nhằm hướng tới mục tiêu: xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp
mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Ngày 14/5/2008, Thủ tướng Chính Phủ đã
ký Quyết định số 544/QĐ-TTg phê duyệt Đề
án “Đào tạo chuyên gia pháp luật, luật sư phục
vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn
2008 - 2010” với mục tiêu “nhằm có được một
số chuyên gia pháp luật, luật sư am hiểu pháp
luật và tập quán thương mại quốc tế, giỏi kỹ
năng hành nghề luật sư quốc tế, có khả năng
được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư của
nước đang được đào tạo”. Sau khi được đào
tạo, người học có thể trở thành các chuyên gia
pháp luật, luật sư có đủ trình độ thực hiện tư
vấn pháp luật, tham gia giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế, là nòng cốt để từng bước
hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia
pháp luật, luật sư tiêu chuẩn quốc tế.
Quyết định số 123/QĐ-TTg ngày 18/01/2010
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
“Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập
kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020”
nhằm đào tạo, bồi dưỡng để hình thành và
phát triển được đội ngũ luật sư am hiểu luật
pháp quốc tế, giỏi ngoại ngữ, có đủ khả năng
tham gia giải quyết các tranh chấp quốc tế.
Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 5/7/2011
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến
lược phát triển nghề luật sư Việt Nam đến năm
2020. Chiến lược đã thể chế hóa chủ trương,
chính sách của Đảng về phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và cải cách tư pháp theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI, Nghi ̣quyết sô ́49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 và Chỉ thị số 33-CT/TW
ngày 30/3/2009 của Ban Bí thư về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối vơi tổ chức và hoạt
động luật sư. Một trong những nội dung đáng
chú ý của Chiến lược phát triển nghề luật sư là
định hướng phát triển hoạt động hành nghề
luật sư trở thành nghề chuyên nghiệp, trong
đó chú trọng phát triển tổ chức hành nghề luật
sư chuyên sâu trong một số lĩnh vực.
2. Thực trạng hoạt động đào tạo nghề
luật sư hiện nay tại Học viện Tư pháp
Với mục tiêu đào tạo nghề luật sư tại Học
viện Tư pháp nhằm cung cấp nguồn luật sư
tương lai, góp phần xây dựng và phát triển đội
ngũ luật sư đủ về số lượng, bảo đảm về chất
lượng, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong
sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp và nhu cầu của xã hội, bảo
đảm ngày càng có nhiều luật sư am hiểu pháp
luật và tập quán thương mại quốc tế, thông
Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö”
5
thạo ngoại ngữ, giỏi kỹ năng hành nghề luật
sư, có trình độ ngang tầm với các luật sư trong
khu vực và quốc tế, trải qua 20 năm xây dựng
và phát triển, Học viện Tư pháp đã đào tạo
được 18 khóa với 32.137 học viên tham gia
lớp đào tạo nghề luật sư và cấp chứng chỉ tốt
nghiệp cho 26.617 học viên hoàn thành
chương trình đào tạo. Đây là nguồn cung cấp
nhân lực cho các tổ chức hành nghề luật sư,
cho bộ phận pháp chế các doanh nghiệp...
trong cả nước. Việc đào tạo nghề luật sư được
thực hiện tại cơ sở của Học viện Tư pháp tại
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và được mở
rộng đào tạo tại các địa phương theo hình thức
liên kết đào tạo, giúp cho người học có điều
kiện tham gia học tại địa phương, giảm thiểu
chi phí cho bản thân người học và chi phí cho
xã hội.
Các chương trình đào tạo nghề luật sư tại
Học viện Tư pháp đều hướng tới việc “Đào
tạo người đã tốt nghiệp cử nhân luật có các kỹ
năng hành nghề cơ bản của luật sư và phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp đúng mực để có thể
hành nghề luật sư sau khi kết thúc thời gian
tập sự, góp phần phát triển đội ngũ luật sư
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và hội
nhập kinh tế quốc tế”. Trước khi Luật số
20/2012/QH13 ngày 20/11/2012 của Quốc hội
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư,
có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2013, Học viện Tư
pháp thực hiện việc đào tạo nghiệp vụ luật sư
theo Chương trình đào tạo 6 tháng (giai đoạn
từ năm 2002 đến 2012). Sau khi Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Luật sư có hiệu
lực, Học viện Tư pháp đã thực hiện việc đào
tạo nghề luật sư trong thời gian 12 tháng (theo
hình thức niên chế) theo chương trình khung
do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành kèm theo
Quyết định số 3101/QĐ-BTP ngày 20/12/2013.
Chương trình bao gồm các khối kiến thức:
khối kiến thức chung về nghề luật sư và khối
kiến thức bổ trợ nghề nghiệp luật sư, khối kiến
thức kỹ năng cơ bản ở các lĩnh vực hành nghề
(Kỹ năng tham gia giải quyết vụ án hình sự,
Kỹ năng tham gia giải quyết vụ việc dân sự,
Kỹ năng tham gia giải quyết vụ việc hành
chính, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố
tụng), khối kiến thức thực hành nghề, khối
kiến thức định hướng phát triển chuyên sâu.
Để tiếp tục thực hiện việc đổi mới chương
trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo, tạo điều kiện cho người học linh hoạt lựa
chọn môn học và thời gian học, hoàn thành
những điều kiện để được cấp chứng chỉ tùy
theo khả năng và nguồn lực (thời lực, tài lực,
sức khỏe, v.v.), ngày 02/06/2017, Bộ trưởng
Bộ Tư pháp đã ký, ban hành Chương trình
khung đào tạo nghề luật sư theo hình thức tín
chỉ. Theo đó, tổng số tín chỉ mà học viên phải
tích lũy là 39 tín chỉ (chưa kể thời gian khai
giảng, bế giảng, nghỉ ôn thi, nghỉ các ngày lễ,
tết và các chuyên đề dự phòng). Cũng giống
như chương trình đào tạo theo hình thức niên
chế, chương trình này bao gồm các khối kiến
thức sau: khối kiến thức chung về nghề luật
sư và khối kiến thức bổ trợ nghề nghiệp luật
sư, khối kiến thức kỹ năng cơ bản ở các lĩnh
vực hành nghề, khối kiến thức thực hành
nghề, khối kiến thức định hướng phát triển
chuyên sâu. Trong đó khối kiến thức định
hướng phát triển chuyên sâu được tăng thời
lượng gấp đôi so với chương trình theo hình
thức niên chế.
Chương trình đào tạo nghề luật sư theo
hình thức tín chỉ được kỳ vọng sẽ đem lại hiệu
quả trong hoạt động đào tạo nghề luật sư tại
Học viện Tư pháp. Theo lộ trình thực hiện thì
từ năm 2018, Học viện Tư pháp tiến hành
tuyển sinh và đào tạo các lớp đào tạo nghề luật
sư theo hình thức tín chỉ. Để đạt được mục
tiêu mà chương trình hướng tới bên cạnh việc
đổi mới từ phía nhà trường trong hoạt động
chuyên môn và tổ chức lớp học còn đòi hỏi sự
nỗ lực và cố gắng từ phía người học.
Cùng với việc triển khai chương trình đào
tạo nghề luật sư truyền thống, Học viện Tư
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
6
pháp đang triển khai hoạt động đào tạo luật sư
phục vụ hội nhập quốc tế. Bối cảnh hội nhập
quốc tế và khu vực đòi hỏi luật sư phải có
trình độ ngoại ngữ cao, hiểu biết sâu về pháp
luật quốc tế để tham gia bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà
nước Việt Nam, tuy nhiên số lượng luật sư
giỏi, thông thạo pháp luật quốc tế và ngoại
ngữ để giải quyết các tranh chấp thương mại,
tư vấn cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
trong đàm phán, kinh doanh có yếu tố nước
ngoài còn chiếm tỷ lệ rất thấp. Vì vậy, Đề án
phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập
kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020,
ban hành kèm theo Quyết định số 123/QĐ-
TTg ngày 18/01/2010 của Thủ tướng Chính
phủ (gọi tắt là Đề án 123) có mục tiêu là xây
dựng đội ngũ luật sư giỏi về chuyên môn,
nghiệp vụ, am hiểu luật pháp và tập quán
thương mại quốc tế, thông thạo tiếng Anh,
thành thạo kỹ năng hành nghề luật sư quốc tế,
có đủ khả năng tư vấn các vấn đề liên quan
đến hội nhập kinh tế quốc tế; đến năm 2020
số lượng luật sư được đào tạo chuyên sâu
trong lĩnh vực thương mại, đầu tư là 1.000
người; số luật sư đạt tiêu chuẩn quốc tế là 150
người, bao gồm cả những người được đào tạo
hoặc tự đào tạo nhưng được thu hút theo chính
sách của Đề án. Thành lập Trung tâm đào tạo
luật sư theo hình thức liên kết với các cơ sở
đào tạo nghề luật sư, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của các nước tiên tiến trên thế giới là
một trong những giải pháp quan trọng để nâng
tầm đội ngũ luật sư Việt Nam phục vụ hội
nhập kinh tế quốc tế.
Ngày 27/12/2013, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
đã ban hành Quyết định số 3147/QĐ-BTP về
việc phê duyệt “Đề án Thành lập Trung tâm
liên kết đào tạo luật sư thương mại quốc tế”
và ngày 19/02/2014, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
đã ký Quyết định số 382/QĐ-BTP về việc
thành lập Trung tâm liên kết đào tạo luật sư
thương mại quốc tế. Trung tâm được giao
nhiệm vụ thí điểm thực hiện Chương trình đào
tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế.
Ngày 06/12/2016, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
đã ký Quyết định số 2539/QĐ-BTP về việc
ban hành Chương trình khung đào tạo luật sư
phục vụ hội nhập quốc tế, bao gồm các khối
kiến thức sau: khối kiến thức chung về luật
sư và đạo đức nghề luật sư, khối kiến thức về
kỹ năng cơ bản của luật sư trong lĩnh vực
thương mại, đầu tư và giải quyết tranh chấp
thương mại, đầu tư quốc tế, khối kiến thức
về thực tập hành nghề luật sư, khối kiến thức
tự chọn.
Học viên tham gia đào tạo theo Chương
trình này là những người nhu cầu tham gia
khóa đào tạo và đáp ứng các tiêu chuẩn sau: (i)
là công dân Việt Nam, thường trú tại Việt
Nam, có lập trường chính trị vững vàng và tư
cách đạo đức tốt, (ii) có trình độ cử nhân luật
trở lên, (iii) có trình độ ngoại ngữ kiểm tra
trình độ tiếng Anh đạt bậc 4 khung năng lực
ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam ban hành theo
Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24/01/2014
của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành khung
năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam
hoặc IELTS đạt 5,0 trở lên hoặc TOFEL iBT
đạt 45 điểm trở lên (chứng chỉ tiếng Anh phải
còn hiệu lực) hoặc trình độ ngoại ngữ tương
đương. Học viên tham gia khóa học chủ yếu
được đào tạo về các kỹ năng của luật sư trong
lĩnh vực thương mại quốc tế. Sau khi hoàn
thành Chương trình, học viên được cấp Giấy
chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư
(Chương trình đào tạo luật sư phục vụ hội
nhập quốc tế). Giấy chứng nhận này có giá trị
pháp lý như Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào
tạo nghề luật sư quy định tại Khoản 2 Điều
122 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật luật sư.
Học viện Tư pháp đã ký thỏa thuận hợp tác
với Câu lạc bộ luật sư thương mại quốc tế Việt
Nam (VBLC) trong hợp tác xây dựng và triển
khai chương trình đào tạo, bồi dưỡng luật sư
Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö”
7
phục vụ hội nhập quốc tế. Giảng viên tham gia
giảng dạy là các luật sư hàng đầu của Việt
Nam trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh,
thương mại có yếu tố nước ngoài đến từ các
hãng luật như: Allen & Overy, Baker
Mckenzie Việt Nam, YKVN, VILAF, Bizlink
; là các trọng tài viên đến từ Trung tâm
trọng tài quốc tế Thái Bình Dương (PIAC) và
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC);
các chuyên gia pháp luật, giảng viên luật có
kinh nghiệm và chuyên môn sâu về đào tạo
kiến thức và kỹ năng nghề luật sư trong lĩnh
vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố
nước ngoài. Ngôn ngữ sử dụng trong giảng
dạy gồm tiếng Anh và tiếng Việt. Ngày
15/10/2017, Học viện Tư pháp đã tổ chức khai
giảng Lớp đào tạo luật sư phục vụ hội nhập
quốc tế khóa I. Khóa học có 35 học viên tham
gia. Đây hứa hẹn là nguồn nhân lực đáp ứng
các yêu cầu mà Đề án 123 đã đặt ra.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá
trình triển khai hoạt động đào tạo nghề luật
sư tại Học viện Tư pháp, còn tồn tại một số
khó khăn, bất cập ảnh hưởng tới chất lượng
đào tạo như:
Thứ nhất, người học tham gia các khóa đào
tạo có trình độ cử nhân luật với nhiều loại hình
đào tạo khác nhau (chính quy, tại chức, từ xa,
vừa học vừa làm...), độ tuổi của người tham gia
khóa đào tạo rất đa dạng dẫn đến chất lượng
đầu vào của người học không đồng đều.
Thứ hai, mục đích học tập, kinh nghiệm
nghề nghiệp của học viên tham gia các khóa
đào tạo nghề luật sư khác nhau, trong khi đó
chương trình đào tạo chỉ hướng tới mục tiêu
chung là cung cấp những kiến thức hành nghề
cho một mặt bằng người học chung mà chưa
có sự phân loại cho đối tượng người học có
nhu cầu cao hơn.
Thứ ba, chương trình đào tạo nghề luật sư
hiện hành đã có cơ chế liên kết, phối hợp với
các tổ chức hành nghề luật sư nơi học viên
thực tập nhằm nâng cao chất lượng thực hành
nghề cũng như tạo điều kiện cho các tổ chức
hành nghề cũng như các đơn vị có nhu cầu sử
dụng nhân lực đã qua đào tạo nghề luật sư có
cơ hội lựa chọn và tuyển dụng được nhân lực
có chất lượng cao, phù hợp với tiêu chí hoạt
động của đơn vị mình tuy nhiên chưa thật
sự chặt chẽ.
Đây là những yếu tố làm ảnh hưởng đến
quá trình đào tạo nghề luật sư tại Học viện Tư
pháp trong thời gian qua.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo nghề luật sư đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp
Mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể theo Chiến
lược phát triển nghề luật sư của Chính phủ,
phấn đấu đến năm 2020, số lượng luật sư
trong cả nước đạt từ 18.000 đến 20.000 luật
sư; bảo đảm luật sư được đào tạo bài bản theo
chương trình chuẩn về cử nhân luật, đào tạo
nghề luật sư theo hướng hội nhập với khu vực
và thế giới, đảm bảo 100% số lượng luật sư
được bồi dưỡng thường xuyên và nâng cao về
nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng hành nghề,
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp theo chuẩn
mực nghề nghiệp luật sư. Phát triển đội ngũ
luật sư hành nghề chuyên sâu trong các lĩnh
vực pháp luật, chú trọng đến việc đào tạo
chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại, đầu tư,
phấn đấu đạt khoảng 1.000 luật sư phục vụ
yêu cầu hội nhập quốc tế
Nhằm khắc phục những khó khăn, bất cập
nêu trên; thực hiện được mục tiêu Chiến lược
phát triển nghề luật sư đến năm 2020 và Nghị
quyết số 49-NQ/TW đã đề ra, để nâng cao hơn
nữa chất lượng đào tạo luật sư trong thời gian
tới, Học viện Tư pháp cần thực hiện một số
giải pháp sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện chương trình
đào tạo nghề luật sư hiện hành theo định hướng
phát triển năng lực và phẩm chất của người học.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, khi
Việt Nam đang ngày càng gia nhập vào nền
kinh tế quốc tế trong khu vực và trên thế giới,
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
8
rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam đang tìm
kiếm thị trường nước ngoài cũng như các
doanh nghiệp nước ngoài đang đầu tư ngày
càng nhiều vào thị trường Việt Nam thì nhu
cầu về đội ngũ luật sư có kiến thức chuyên
môn tốt, am hiểu về các lĩnh vực công pháp, tư
pháp quốc tế cũng như có trình độ tiếng Anh
và kỹ năng làm việc cao đang đặt ra thách thức
mới đối với hoạt động đào tạo nghề luật sư tại
Học viện Tư pháp.
Trong khi các chương trình đào tạo nghề
luật sư tại Học viện Tư pháp chỉ nhằm hướng
tới mục tiêu chung là cung cấp những kiến
thức hành nghề cho một mặt bằng người học
chung, chưa có sự phân hóa người học để có
thể áp dụng các phương pháp giảng dạy phù
hợp và đạt được kỳ vọng của các nhà tuyển
dụng thì chương trình đào tạo luật sư hội nhập
kinh tế quốc tế, việc đào tạo chủ yếu được
thực hiện bằng tiếng Anh, chương trình chỉ
hướng đến đào tạo luật sư trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại, chưa đề cập đến việc đào
tạo nguồn nhân lực trong các lĩnh vực hình sự,
dân sự, hành chính.
Do đó, để đáp ứng nhu cầu của người học
cũng như yêu cầu ngày càng cao của người sử
dụng, Học viện Tư pháp cần nghiên cứu xây
dựng một chương trình đào tạo nghề luật sư
chất lượng cao. Chương trình có thể được xây
dựng và phát triển trên nền của chương trình
đào tạo nghề luật sư theo hình thức tín chỉ
đang triển khai và có tham khảo chương trình
đào tạo đang được áp dụng ở một trường đào
tạo nghề luật trong khu vực hoặc trên thế giới
đã được công nhận đạt chất lượng bởi tổ chức
kiểm định chất lượng có uy tín hoặc được cơ
quan có thẩm quyền của nước đó cho phép
thực hiện và cấp văn bằng hướng đến phát
triển năng lực năng lực chuyên môn; năng lực
nghiên cứu, năng lực ngoại ngữ; năng lực ứng
dụng công nghệ thông tin cho người học.
Để tổ chức lớp học theo chương trình này,
Học viện Tư pháp cần tổ chức tuyển sinh thí
điểm lớp đào tạo chất lượng cao thông qua
việc thi tuyển đầu vào để lựa chọn học viên,
bố trí giảng viên giỏi và giàu kinh nghiệm
tham gia giảng dạy, sử dụng các hình thức dạy
và học hiện đại, cung cấp hệ thống hồ sơ tình
huống, giáo trình, tài liệu phong phú, đa dạng;
chú trọng xây dựng hệ thống phòng học hiện
đại, có trang bị thiết bị phòng học, máy tính,
internet đầy đủ để học viên có điều kiện tra
cứu, thực hành các kỹ năng hành nghề tại chỗ.
Thứ hai, tổ chức thực hiện một cách hợp
lý chương trình đào tạo nghề luật sư hiện
hành. Hiện nay, khi Học viện Tư pháp bắt
đầu triển khai hoạt động đào tạo nghề luật sư
theo hình thức tín chỉ, để khắc phục những
khó khăn, bất cập từ phía người học như sự
khác nhau về trình độ đào tạo, độ tuổi, mục
tiêu nghề nghiệp, cần thiết phải thực hiện
một số các hoạt động khảo sát để xếp lớp học
theo sự đồng đều về mặt bằng trình độ nhận
thức của học viên. Điều này sẽ giúp cho các
Bộ môn thuận lợi trong triển khai các
phương pháp đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo.
Với phương châm đào tạo nghề “cầm tay,
chỉ việc”, cần chia lớp với số lượng khoảng
30 học viên nhằm tạo điều kiện cho học viên
được giảng viên hướng dẫn thực hành nghề
nhiều hơn, kỹ hơn.
Thứ ba, xây dựng và phát triển đội ngũ
nguồn nhân lực.
Về đội ngũ giảng viên: Một trong những
yếu tố quyết định đến sự thành công của một
chương trình đào tạo đó là yếu tố “người
thầy” đặc biệt với phương pháp giảng dạy lấy
người học làm trung tâm. Với đặc thù là một
cơ sở đào tạo nghề luật, giảng viên tham gia
giảng dạy luật sư với tư cách là người truyền
nghề phải là người có vốn sống, có kinh
nghiệm nghề nghiệp phong phú, kiến thức
chuyên môn sâu rộng, có thể truyền tải thông
tin đến người học một cách dễ dàng, đơn
giản, nhanh chóng, chuẩn xác và hiệu quả.
Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö”
9
Đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy luật
sư gồm các giảng viên cơ hữu và giảng viên
thỉnh giảng. Giảng viên cơ hữu là những
người được tuyển chọn theo những tiêu chí
như trình độ chuyên môn được đào tạo, có
thời gian hoạt động thực tiễn trong các chức
danh tư pháp và luôn được học tập, bồi
dưỡng bằng nhiều hình thức để không ngừng
nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp. Giảng viên thỉnh giảng giữ một vai
trò quan trọng trong đào tạo nghề luật sư,
gồm đội ngũ các chuyên gia pháp luật, các
giảng viên có uy tín của Trường Đại học Luật
Hà Nội, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội
và đặc biệt là đội ngũ đông đảo các luật sư,
thẩm phán, kiểm sát viên có uy tín, có kinh
nghiệm hành nghề. Tuy nhiên đa phần giảng
viên thỉnh giảng là người đã và đang đảm
nhiệm các chức danh tư pháp chưa được bồi
dưỡng và đào tạo về nghiệp vụ sư phạm một
cách bài bản nên có thể kỹ năng truyền đạt
các kinh nghiệm đến học viên chưa được hấp
dẫn, phong phú. Do đó, Đảng ủy và Lãnh đạo
Học viện Tư pháp cần phải: Có chủ trương,
kế hoạch tổ chức bồi dưỡng thường xuyên
cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng đồng thời
có cơ chế thu hút giảng viên có chức danh tư
pháp, có uy tín, có kinh nghiệm hành nghề
và nhiệt tình tham gia giảng dạy để tuyển
dụng làm giảng viên cơ hữu hoặc giảng viên
thỉnh giảng.
Bên cạnh đó, các bộ môn thuộc Khoa Đào
tạo Luật sư cần nâng cao chất lượng sinh
hoạt chuyên môn. Đây là hình thức nhằm bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư
phạm cho giảng viên, góp phần tháo gỡ
những khó khăn trong quá trình giảng dạy.
Qua sinh hoạt chuyên môn ở bộ môn, các
giảng viên có điều kiện trao đổi, thống nhất
quan điểm chuyên môn trong hoạt động
giảng dạy, giảng viên cơ hữu có cơ hội học
hỏi kinh nghiệm hành nghề từ các giảng viên
thỉnh giảng.
Về đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý:
Bên cạnh các yếu tố thầy giỏi, giáo trình,
phương tiện học tập đầy đủ, trò ham học là
những điều kiện tốt để đảm bảo chất lượng,
thì vai trò của người quản lý sẽ là yếu tố góp
phần vào việc tạo ra một môi trường sư phạm
minh bạch, thân thiện và an toàn. Vì vậy, đội
ngũ cán bộ làm công tác quản lý phải có đủ
năng lực chuyên môn, nhiệt tình, có kinh
nghiệm trong quản lý đào tạo; sử dụng thành
thạo các phần mềm quản lý liên quan; có năng
lực ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc.
Thứ tư, về nghiên cứu khoa học
Cần phát triển hoạt động nghiên cứu khoa
học theo hướng “Đẩy mạnh công tác nghiên
cứu khoa học theo hướng nâng cao tính lý
luận và tăng cường tính ứng dụng, góp phần
hỗ trợ công tác xây dựng pháp luật và hướng
dẫn áp dụng pháp luật thống nhất, đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp”. Đây được xem là
“sân chơi” cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, học
viên để cùng nhau trao đổi và qua đó nâng cao
chất lượng dạy và học.
Học viện cần chú trọng, đẩy mạnh hoạt
động nghiên cứu khoa học và dành kinh phí
phù hợp cho hoạt động này.
Thứ năm, xây dựng cơ chế phối hợp với
các tổ chức hành nghề luật sư có uy tín.
Hoạt động thực tập có vai trò quan trọng
và chiếm một tỉ trọng không nhỏ trong chương
trình đào tạo nghề luật sư. Vì vậy, để hoạt
động này đạt hiệu quả cao, giúp cho học viên
có điều kiện thực hành những kiến thức đã
được truyền đạt trong nhà trường vào hoạt
động nghề nghiệp trên thực tế, Học viện Tư
pháp cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ với các
tổ chức hành nghề luật sư để các tổ chức này
tiếp nhận và cử luật sư hướng dẫn khi học viên
đăng ký hay được cử đi thực tế. Hoạt động
phối hợp này cũng tạo điều kiện cho các tổ
chức hành nghề luật sư tiếp cận được với
nguồn nhân lực tương lai, có điều kiện để
quan sát, thử thách và tuyển dụng được nhân
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
10
lực phù hợp sau khi học viên có chứng chỉ đào
tạo nghề.
Đối với các học viên tham gia chương
trình đào tạo nghề luật sư phục vụ hội nhập
quốc tế, Học viện Tư pháp cần đẩy mạnh hoạt
động hợp tác quốc tế, tạo điều kiện để học
viên có cơ hội quan sát, giao lưu, thực hành
nghề học hỏi kinh nghiệm từ các tổ chức hành
nghề luật sư có uy tín trên thế giới; chuẩn bị
hành trang cho hoạt động nghề nghiệp trong
tương lai.
Thứ sáu, hoàn thiện về thể chế quản lý
đào tạo
Hiện nay việc đào tạo nghề luật sư đã
chuyển sang thực hiện chương trình đào tạo
theo hình thức tín chỉ trong khi đó Quy chế đào
tạo hiện hành chỉ phù hợp để áp dụng và đánh
giá đối với chương trình đào tạo theo hình thức
niên chế. Với đặc thù của việc đào tạo theo hình
thức tín chỉ là học viên có thể lựa chọn học vào
nhiều thời gian khác nhau nên để đồng bộ việc
đào tạo và đánh giá kết quả học tập thì Học viện
Tư pháp cần khẩn trương tiến hành xây dựng
mới Quy chế đào tạo để có cơ chế xét và đánh
giá kết quả học tập cũng như tốt nghiệp sớm khi
học viên có nhu cầu.
Thứ bảy, về cơ sở vật chất
Hệ thống giảng đường là yếu tố đóng vai
trò quan trọng đối với nhà trường trong việc
đảm bảo chất lượng đào tạo. Hiện nay, tại Hà
Nội Học viện Tư pháp có Toà nhà giảng
đường cao 11 tầng với 41 phòng học từ 20
đến 150 chỗ ngồi và 01 hội trường lớn 378
chỗ ngồi. Các phòng học đều được trang bị
hệ thống âm thanh chuẩn để giảng bài và có
hệ thống điều hoà nhiệt độ. Ngoài ra Học
viện Tư pháp còn có 02 phòng học được
trang bị đầy đủ các trang thiết bị dành riêng
cho việc diễn án. Học viện cũng có khu ký
túc xá với hơn 780 chỗ ở, được trang bị đồng
bộ, người ở được cung cấp đầy đủ chăn, ga,
gối, đệm, quạt điện cá nhân, hệ thống nước
nóng, dịch vụ ăn uống. Cơ sở Học viện Tư
pháp tại thành phố Hồ Chí Minh được khánh
thành vào tháng 11/2017 với hệ thống giảng
đường, hội trường diễn án, khu ký túc xá hiện
đại đáp ứng đủ năng lực đào tạo nghề tại Học
viện ở phía Nam với diện tích sàn xây dựng
khoảng 13.000 m2. Như vậy, Học viện Tư
pháp đã có thể đảm bảo về cơ sở vật chất cho
việc triển khai chương trình đào tạo.
Tuy nhiên, Học viện Tư pháp cũng cần định
kỳ rà soát lại hệ thống phòng học, nâng cấp hệ
thống thông tin, nâng cấp các trang thiết bị như
máy tính, máy chiếu, hệ thống âm thanh để
đảm bảo cho việc truyền đạt và tiếp nhận thông
tin giữa người dạy – người học đạt hiệu quả cao
nhất. Mặt khác, Học viện cũng cần đầu tư xây
dựng, triển khai, lắp đặt hệ thống phòng học
trang bị máy tính hiện đại nhằm giúp cho người
học dễ dàng tra cứu tài liệu, thực hành kỹ năng
nghề tại chỗ; xây dựng các mô hình phòng học
mang tính chất mô phỏng như phòng thực
hành, thực nghiệm, phòng kỹ thuật hình sự để
phục vụ cho việc triển khai giảng dạy những kỹ
năng nghề đặc thù.
Hệ thống thư viện: Tại các nước có nền
giáo dục phát triển, thư viện được xác định là
yếu tố cấu thành chất lượng giáo dục, là bộ
phận không thể thiếu trong việc hình thành
môi trường văn hóa học đường. Nhằm phục
vụ tốt hơn nữa yêu cầu của người học, thời
gian tới Học viện cần có kế hoạch đổi mới
hoạt động của hệ thống thư viện theo hướng:
quy hoạch để khu phòng mượn liên hợp với
khu phòng đọc, liền với khu giảng đường,
giúp cho người đọc không phải di chuyển
nhiều như hiện nay khi có nhu cầu về không
gian đọc và nghiên cứu tài liệu đồng thời xây
dựng hệ thống giáo trình, tài liệu, nguồn sách
tham khảo đa dạng, phong phú, hấp dẫn với
nguồn là của Học viện và một số cơ sở đào
tạo có uy tín,
(Xem tiếp trang 15)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_chat_luong_dao_tao_nghe_luat_su_dap_ung_yeu_cau_cai.pdf