Lời nói đầu
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua hơn 10 năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên bước đầu khẳng định được uy tín, chinh phục đựơc khách hàng chiếm lĩnh được thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất do đó cần thiết phải có một lượng vốn lớn mà các ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế một cách có hiệu quả.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước và cấp kinh doanh là các ngân hàng thương mại. Cùng với việc triển khai thực hiện pháp lệnh ngân hàng ở nước ta trong thời gian qua đã tạo ra những chuyển biến rõ nét cả về tổ chức, hoạt động và trình độ nghiệp vụ của hệ thống ngân hàng góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền . Các tổ chức tín dụng hình thành mạng lưới trên hầu khắp các địa bàn cả nước. Ngoài hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh . Nghiệp vụ ngân hàng cũng được đổi mới và từng bước hiện đại hoá, tiếp cận với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển thị trường ngoại hối.
Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kỳ mới chuyển đổi sang cơ chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại đang gặp nhiều khó khăn nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng, từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng là một nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của ngành ngân hàng. Vấn đề càng trở nên bức xúc và cần thiết đối với hệ thống Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn có thị trường tín dụng chủ yếu là khu vực nông thôn.
Trước tình hình trên, là một sinh viên khoa ngân hàng - tài chính đang thực tập tại phòng Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn chi nhánh Bách Khoa, em đã quyết định chọn đề tài thực tập tốt nghiệp là: “Nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam chi nhánh Bách Khoa”.
Em hy vọng rằng bài viết của mình sẽ góp phần đẩy lùi những khó khăn cản trở trong công tác tín dụng, đưa hiệu quả tín dụng ngày càng tốt hơn, tạo đà cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Sở phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Bài viết của em được chia làm 3 chương:
Chương 1:Lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của ngân hàng Thương Mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam chi nhánh Bách Khoa.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam chi nhánh Bách Khoa.
60 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1894 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam chi nhánh Bách Khoa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước
72
74%
101
87%
213
93%
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
25
26%
15
13%
17
7%
Dư nợ
160
100%
208
100%
183
(18)
100%
Doanh nghiệp nhà nước
138
86%
176
84%
156
(18)
85%
Doanh nghiệp ngoài
quốc doanh
22
14%
32
15,4%
27
15%
(Nguồn: Sổ thống kê số liệu lịch sử, báo cáo tín dụng năm 2008)
Nhìn vào số liệu Bảng 2 ta thấy doanh số cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng cao trong doanh số cho vay của Sở, bao giờ cũng là 70% hoặc là hơn 70%. Nguyên nhân ở đây là do hầu hết khách hàng của Sở là doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nên có nhu cầu tín dụng cao và có uy tín với ngân hàng. Mặt khác có thể là do nhà nước không thực hiện cơ chế thế chấp tài sản đối với doanh nghiệp nhà nước nên việc đầu tư có thuận lợi hơn. Ngoài ra nguyên nhân làm cho doanh số cho vay ngoài quốc doanh giảm là do cơ chế cho vay đối với thành phần kinh tế này tương đối chặt chẽ về thủ tục thế chấp bảo lãnh vay vốn, việc phát mại tài sản thế chấp gặp nhiều khó khăn.Tính đến năm 2008 phòng có quan hệ với 9 đơn vị ngoài quốc doanh nhưng trong đó là 6 doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn,doanh nghiệp tư nhân bị đình đốn, tình hình tài chính yếu kém, vấn đề trả nợ rất khó khăn. Do vậy hiện nay ngân hàng đang tiếp tục chú trọng tập trung thu nợ của các đơn vị này.
* Tình hình cho vay dư nơ phân theo ngoại tệ và nội tệ
Bảng 3 : Bảng doanh số cho vay dư nợ phân theo ngoại tệ và nội tệ
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
2006
2007
2008
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng cho vay
52
100%
164
100%
223
100%
Nội tệ
0
49
30%
169
76%
Ngoại tệ
52
100%
115
70%
54
24%
Tổng dư nợ
160
100%
208
100%
183
100%
Nội tệ
0
48
23%
66
36%
Ngoại tệ
160
100%
160
77%
117
64%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006,2007,2008)
Theo số liệu trên thì năm 2008 phòng giao dịch hầu hết chỉ thực hiện cho vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh như: Nguyên vật liệu trong năm... Với doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ cao trong doanh số thu nợ điều đó chứng tỏ công tác cho vay ngắn hạn trong năm 2008 nói riêng và chất lượng tín dụng nói chung là khá hiệu quả, sự thành công này nhờ vào sự cố gắng của cán bộ tín dụng, các phòng ban và sự chỉ đạo của Ban giám đốc.
Tuy nhiên trong quá trình đầu tư tín dụng rủi ro luôn luôn làm các nhà ngân hàng đau đầu và tại phòng giao dịch cũng vậy mặc dù việc đôn đốc thu lãi, gốc được thực hiện thường xuyên song vẫn còn tồn tại tình trạng nợ quá hạn.
2.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch NHNo&PTNT chi nhánh Bách Khoa
Bảng 4:tình hình nợ quá nợ quá hạn qua các năm
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Tổng dư nợ
160
208
183
Tổng nợ quá hạn
49
48
39,7
Tỷ trọng nợ quá hạn/Tổng dư nợ
31%
23%
21,7%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006,2007,2008)
Số liệu Bảng 4 thể hiện nợ quá hạn tại ngân hàng trong thời gian gần đây có xu hướng giảm xuống. Cụ thể: Năm 2007 nợ quá hạn chiếm tỷ trọng 23% tổng dư nợ giảm 8% so với năm 2006, sang năm 2008 nợ quá hạn chiếm tỷ trọng 21,7% tổng dư nợ giảm 1,3% so với năm 2007.
Tuy nhiên con số này vẫn còn rất cao so với mức cho phép và ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng vì vậy ngân hàng cần phải tự kiểm điểm xem xét lại để thấy rõ những thiếu sót của mình trong quá trình cho vay để từ đó có những giải pháp chấn chỉnh nhằm đưa hoạt động tín dụng ngày một hiệu quả và an toàn.
Biểu đồ nợ quá hạn phân theo thời gian cho vay
21.6
20
15.7
27.4
28
24
0
5
10
15
20
25
30
2006
2007
2008
ngắn hạn
Trung hạn,
dài hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Nhìn vào Biểu đồ trên cho ta thấy nợ quá hạn năm 2007 gần tương đương với năm 2006 nhưng sang năm 2008 thì số nợ quá hạn giảm đi đáng kể so với 2007 cụ thể là:
- Nợ quá hạn ngắn hạn giảm 4,3 tỷ đồng
Nợ quá hạn trung, dài hạn giảm 4 tỷ đồng
Ơ đây nợ quá hạn thu hồi được trong năm 2008 chủ yếu là các khoản dư nợ quá hạn từ năm 2007 trở về trước bởi mặc dù năm 2007 dư nợ quá hạn là 39,7 tỷ đồng nhưng trong đó dư nợ quá hạn của các khoản vay từ năm 2007 trở về trước là 39,4 tỷ còn dư nợ quá hạn của các khoản vay năm 2008 chỉ là 0,3 tỷ đồng. Điều đó chứng tỏ công tác thu hồi nợ quá hạn từ năm 2007 về trước là khá hiệu quả đồng thời theo phân tích trên thì năm 2008 Sở chủ yếu thực hiện cho vay ngắn hạn và dư nợ quá hạn thuộc các khoản vay năm 2008 chỉ là 0,3 tỷ chứng tỏ hoạt động cho vay trong năm đã thực sự có chất lượng.
Ngoài ra công tác thu nợ quá hạn năm 2008 tại phòng giao dịch đã đạt được một số kết quả là tổng số thu nợ quá hạn 21412 triệu đồng
Kết cấu nợ quá hạn theo thành phần kinh tế
27.8
31
24.7
21.2
17
15
0
5
10
15
20
25
30
35
2006
2007
2008
Kinh tế quốc
doanh
Kinh tế ngoài
quốc doanh
Đơn vị: tỷ đồng
Nhìn vào biểu trên ta thấy trong thời gian qua nợ quá hạn tại các doanh
nghiệp quốc doanh chiếm tỷ lệ cao trong tổng nợ quá hạn :
- Năm 2006 chiếm 56,7 % tổng nợ quá hạn.
- Năm 2007 chiếm 64.6 % tổng nợ quá hạn.
- Năm 2008 chiếm 62,2 % tổng nợ quá hạn.
Mặc dù các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có một tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Song hoạt động của thành phần kinh tế này vẫn chưa thực sự hiệu quả bởi doanh số cho vay thấp hơn rất nhiều so với kinh tế quốc doanh. Mặt khác tỷ lệ nợ quá hạn tại phòng giao dịch cao song chúng ta cần xét đến khả năng thu hồi của các khoản nợ quá hạn như thế nào.
Bảng 5 :Phân loại nợ quá hạn theo khả năng thu hồi vào thời điểm 31/12/2008
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Tổng dư nợ quá hạn
GTTS đẫ xiết nợ nhưng chưa hạch toán giảm nợ
Dư nợ quá hạn đã xiết nợ bằng tài sản
Theo khả năng thu hồi
Dư nợ quá hạn bình thường
Nợ quá hạn có vấn đề
Nợ quá hạn khó thu hồi
Dư nợ ngắn hạn quá hạn
15.700
1230
480
13990
Dư nợ dài hạn quá hạn
24000
9400
7810
6790
Tổng
39700
10630
8290
20780
(Nguồn:Sổ thống kê số liệu lịch sử)
Theo số liệu bảng 7 cho ta thấy hiện nay tại phòng giao dịch có khoản nợ quá hạn là 39,7 tỷ đồng nhưng trong đó nợ quá hạn khó đòi là 20,78 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 52,3% tổng nợ quá hạn năm 2008. Đây là một kết quả không tốt bởi khi đã trở thành nợ quá hạn khó thu hồi thì khả năng đòi được vốn của ngân hàng là rất khó nó sẽ ảnh đến chất lượng công tác tín dụng của ngân hàng và kết quả kinh doanh trong thời gian tới .
Bên cạnh đó ta thấy rằng khoản nợ quá hạn bình thưòng và nợ quá hạn có vấn đề là 18,92 tỷ chiếm tỷ trọng 47,7% tổng nợ quá hạn .Để có thể thu hồi được những khoản nợ này cán bộ ngân hàng đặc biệt là cán bộ tín dụng cần phải tích cực trong việc đôn đốc, quản lý tốt quá trình thu nợ bởi các khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi tất dễ trở thành những khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.
- Ngoài khoản nợ quá hạn 39,7 tỷ đồng thống kê trên phòng giao dịch còn có một khoản nợ quá hạn cho vay khác là 142,337 tỷ đồng trong đó có 22,296 tỷ đồng đã đựơc xiết nợ bằng tài sản còn lại là 120,041 tỷ đồng đã đựơc khoahh.
Bảng 6: Phân tích nợ quá hạn theo nguyên nhân vào thời điểm 31/12/2008
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Tổng số tiền
Ngắn hạn
Trung,dài hạn
Cho vay khác
I-Nguyên nhân chủ quan
II-Nguyên nhân khách quan
182037
15700
24000
142337
1-Do bất khả khángvà cơ chế chính sách
+ Do thiên tai định hoạ
+ Do xắp xếp lại DN, giải thể DN
+Do thay đổi cơ chế chính sách
47660
11220
36440
9458
9458
17552
17552
20650
11220
9430
2- Do DN, khách hàng của ngân hàng
133506
5864
5955
121687
+ Do kinh doanh thua lỗ
+ Do sử dụng vốn không đúng mục đích
+ Do khách hàng vay có chủ ý lừa đảo
130702
2804
5864
5955
118883
2804
3- Nguyên nhân khác
871
378
493
(Nguồn: Sổ tổng kết số liệu lịch sử)
Theo số liệu Bảng 6 ta thấy nợ quá hạn phát sinh chủ yếu là do sự kinh doanh thua lỗ của các doanh nghiệp. Chúng ta sẽ phân tích cụ thể ở phần sau.
Sau đây là một số đánh giá khái quát về những kết quả đạt đựơc cũng như những tồn tại trong 3 năm qua.
2.3 Đánh giá chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch NHNo&PTNT chi nhánh Bách Khoa:
2.3.1 Những thành tựu đạt được:
Thực hiện chủ trương của chính phủ là xoá hình thức bao cấp. Phòng giao dịch đã phát huy năng lực của mình vượt qua khó khăn thử thách do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nhanh chóng hoà nhập với thị trường để tồn tại, đứng vững và ngày càng phát triển phục vụ tốt cho nhu cầu của xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện nước ta hiện nay đang trên đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, từng bước hoà nhập vào nền kinh tế trong khu vực, nhà nước ta đã và đang có những đổi mới trong cơ chế quản lý điều hành đất nước. Phòng giao dịch cũng đã có những định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước về mọi mặt kinh doanh nói chung và công tác tín dụng nói riêng.Trên cơ sở những định hướng đó phòng giao dịch đã không ngừng đổi mới về mô hình tổ chức pháp lý, qui chế nghiệp vụ... Đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của xã hội, nâng cao chất lượng công tác tín dụng.
Trong những năm qua bằng sự cố gắng của mình phòng giao dịch đã cung vốn cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh như : Đáp ứng kịp thời nhu cầu vay ngắn hạn để mua vốn lưu động tại một số doanh nghiệp, cung cấp vốn để các doanh nghiệp đổi mới công nghệ trang thiết bị, tài trợ xuất nhập khẩu, thực hiện cho vay theo chỉ định của chính phủ đặc biệt là ngân hàng đã thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp:Công ty tổng hợp Hà Anh, Công ty Sản Xuất Kinh Doanh Hàng Nhập Khẩu đây là 2 công ty chuyên nhập khẩu phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp. Vì vậy trong thời gian qua phòng giao dịch đã thực sự trở thành bạn hàng của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Với chính sách khách hàng ngân hàng xác định mọi hoạt động của ngân hàng khởi đầu từ khách hàng, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm mục tiêu hoạt động của mình, tạo thuận lợi cho khách hàng trong việc lập hồ sơ tín dụng theo đúng qui định, tạo điều kiện cho khách hàng sớm hoàn thành thủ tục xin vay, thực hiện phương thức giao dịch đơn giản, nhanh chóng, gọn nhẹ nhằm thu hút khách hàng tránh gây phiền hà trong việc vay vốn...
Bên cạnh đó phòng giao dịch đã thực hiện công tác phân tích tài chính trước khi cho vay để tìm ra những rủi ro tiềm ẩn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn vốn vay cho ngân hàng. Ngoài ra trong quá trình cho vay phòng giao dịch thực hiện công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, mỗi một khoản vay đều có người chịu trách nhiệm tuy theo từng mức độ khác nhau.
Với một đội ngũ cán bộ có năng lực nhiệt tình công tác trong những năm qua phòng giao dịch đã đạt được những kết quả nhất định:
Nguồn vốn huy động qua các năm tăng trưởng khá cao tạo ra một lượng vốn lớn ổn định cho ngân hàng điều đó cho thấy phòng giao dịch đang dần từng bước thu hút được khách hàng. Đây là một trong những thành công lớn mà ngân hàng cần phát huy hơn nữa bởi huy động vốn là khâu mở đường cho hoạt động kinh doanh.
Công tác cho vay: Luôn kết hợp yếu tố phát triển kinh tế, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật và có lợi nhuận. Trong thời gian qua từ năm 2006 đến năm 2008 doanh số cho vay của ngân hàng tăng lên đáng kể đặc biệt là năm 2008 tăng so với 2007 là 59 tỷ đáp ứng kịp thời nhu của khách hàng đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Công tác thu nợ: Đây là hoạt động quan trọng quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng. Thấy được tầm quan trọng của công tác này các bộ tín dụng tại ngân hàng đã tích cực trong việc đôn đốc, kiểm soát quá trình thu nợ. Kết qủa cho thấy sang năm 2008 doanh số thu nợ đạt 230 tỷ tăng 107 tỷ bằng 186,9% năm 2007.
Nợ quá hạn có giảm: Năm 2006 tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ là 31% nhưng sang đến năm 2008 chỉ còn 21,7%.
2.3.2 Những vấn đề tồn tại:
Ngoài những thành tựu đạt đựơc hiện nay tại phòng giao dịch còn có một số tồn tại nhất định.
Nguồn vốn tăng trưởng chậm, chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 8,5% so với đầu năm, đạt 48% so với kế hoạch năm 2008. Trong đó nguồn vốn nội tệ chỉ chiếm tỷ lệ 11% tổng nguồn vốn chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho vay nội tệ của phòng giao dịch.
Việc xây dựng quy trình nghiệp vụ chậm, chưa đầy đủ, chất lượng các nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, quản lý của ngành còn sai sót chậm chễ. Tuy đã tích cực trong việc đôn đốc và thu nợ hàng tháng song tình trạng nợ quá hạn tại phòng giao dịch còn cao so với kế hoạch đặt ra, một số khoản vay phải chuyển sang nợ khoanh.
Mặc dù ngân hàng đã trang bị hệ thống máy vi tính nhưng chưa thực sự hiệu quả vì vậy trong thời gian tới cần thiết phải hiện đại hoá hệ thống thông tin quản lý điều hành, thanh toán nối mạng toàn quốc nhằm đảm bảo thông tin kịp thời, chính xác tăng hiệu quả kinh doanh và giảm bớt rủi ro... Năm 2008 là năm chuyển trụ sở của phòng giao dịch vì vậy lao động của ngân hàng còn đang trong thời kỳ củng cố, bổ sung nên thiếu nhiều ...
2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại trên:
* Nguyên nhân chủ quan :
Trong công tác tiếp thị: Mặc dù phòng giao dịch có một trụ sở ngay tại trung tâm thành phố thuận lợi hơn so với các ngân hàng khác song vẫn chưa thu hút được nhiều khách hàng, phong cách giao tiếp với khách hàng chưa thực sự được tốt nên chưa tạo được uy tín lớn trong lòng khách hàng.
Chưa có biện pháp tích cực và hiệu quả trong quản trị điều hành kinh doanh, chưa phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên môn và các đoàn thể để tổ chức phong trào thi đua và nâng cao trách nhiệm của người lao động với nhiệm vụ của mình. Công tác kiểm tra sau khi cho vay của cán bộ tín dụng chủ yếu là xác định vốn vay, chưa thực sự đi sâu phân tích tài chính và biện pháp đảm bảo nợ vay và khả năng trả nợ của khách hàng nên hiệu quả chưa cao.
* Nguyên nhân khách quan:
Năm 2008 tình hình kinh tế khó khăn đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, hơn nữa khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu vì vậy khi nhu cầu nhập khẩu giảm dẫn đến dư nợ cho vay giảm.
Mặt khác do trên địa bàn Hà Nội đang có nhiều ngân hàng cùng hoạt động mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng ngay gắt đã làm giảm dư nợ tại ngân hàng.
- Tỉ lệ nợ quá hạn còn ở mức cao - nguyên nhân gây ra là :
Trong những năm qua nền kinh tế có nhiều diễn biến phức tạp. Khi xây dựng sản xuất kinh doanh và đầu tư vốn, các doanh nghiệp chưa lường hết được hậu quả. Thêm vào đó là tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã làm cho nhiều doanh nghiệp sản xuất đình vốn, tài chính thua lỗ nên rất khó khăn, không có khả năng trả nợ .
Một số doanh nghiệp do đầu tư vốn lớn nhưng trình độ quản lý điều hành kinh doanh lại hạn chế, vay vốn ngân hàng lớn, vốn tự có thấp dẫn đến hoạt động kinh doanh không hiệu quả... Có những doanh nghiệp người điều hành vi phạm pháp luật bị khởi tố, doanh nghiệp phải ngừng hẳn hoạt động kinh doanh hoặc bị phá sản, giải thể làm cho nợ ngân hàng không thu hồi được.
Một số đơn vị có dư nợ lớn, vay nhiều ngân hàng công nợ nhiều, khó kiểm soát quá trình chu chuyển hàng hoá và các khoản công nợ phải thu, phải trả vì vậy nếu không có giải pháp quản lý hữu hiệu chất lượng tín dụng sẽ bị ảnh hưởng, dễ xẩy ra rủi ro.
Quy trình nghiệp vụ tín dụng ngoại tệ trước đây còn chưa hoàn chỉnh, chưa xác định rõ trách nhiệm trong từng khâu công việc biểu hiện:
Trước đây quy trình tín dụng được tiến hành như sau :
Doanh nghiệp làm đơn xin vay gửi lên chi nhánh, chi nhánh tiến hành thẩm định và xin vay Sở Kinh Doanh Hối Đoái, Sở xem xét hạch toán giải ngân xuống chi nhánh sau đó chi nhánh tiến hành cho doanh nghiệp vay.
Sau này chuyển sang hình thức: Doanh nghiệp làm đơn xin vay gửi lên chi nhánh, chi nhánh tiến hành thẩm định sau đó gửi hồ sơ đã thẩm định lên Sở Kinh Doanh Hối Đoái, Sở tái thẩm định và thực hiện cho vay trực tiếp.
Theo hình thức này do địa bàn xa, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đa dạng nên công tác thu nợ kém, ngân hàng tiến hành bàn giao nợ cho các chi nhánh nhưng có chi nhánh Hải Phòng và Hà Tĩnh không nhận làm cho việc kiểm tra giám sát và đôn đốc xử lý thu hồi nợ không được thường xuyên dẫn đến hiệu quả thu nợ rất thấp. Trước tình hình đó ngân hàng tiến hành rà soát nợ, thực trạng sản xuất kinh doanh của khách hàng sau đó điều chỉnh kỳ hạn nợ. Việc gia hạn nợ vào những năm 2006 đã làm cho nợ quá hạn năm1998 giảm nhưng đến năm 2007,2008 thì những khoản nợ này lại đến hạn và hiện nay chưa có giải pháp khắc phục vì vậy nợ quá hạn trong những năm qua đang ở mức cao.
Dư nợ cho vay ngoại tệ từ ngày vay đến nay đang chịu ảnh hưởng bởi tỷ giá đồng USD so với đồng VND liên tục tăng. Trong khi đó doanh nghiệp không có nguồn thu về ngoại tệ làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn càng khó khăn.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bắt buộc phải có tài sản thế chấp, hầu hết các hợp đồng thế chấp tài sản vay ngoại tệ thông qua chi nhánh đều không qua công chứng nhà nước, tài sản thế chấp không còn đủ theo danh mục kê khai lúc vay vốn, giấy tờ gốc chứng minh quyền sử dụng đất và sở hữu tài sản bị thất lạc nhiều, không đảm bảo các thủ tục đã quy định. Mặc dù đã được khắc phục, chấn chỉnh nhưng vẫn chưa đảm bảo tính chất pháp lý. Việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn gặp nhiều khó khăn vì thiếu hồ sơ không giải quyết dứt điểm được...
Để khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì có nhiều biện pháp khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện và tình trạng kinh doanh của từng ngân hàng mà chúng ta có thể đưa ra những giải pháp khả thi. Trên cơ sở những nguyên nhân gây ra tình trạng khó khăn cho ngân hàng. Trong chương III em xin đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở trong thời gian tới .
chương III
giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
việt nam chi nhánh bách khoa
3.1 Mục tiêu, phương hướng hoạt động tín dụng tại Sở và những yêu cầu đặt ra phải nâng cao chất lượng tín dụng
3.1.1 Môi trường hoạt động của phòng giao dịch :
Là một đơn vị kinh doanh trong nền kinh tế do vậy mọi sự biến động của nền kinh tế đều tác động đến hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động tín dụng của phòng giao dịch.
* Thuận lợi :
Nền kinh tế đã đạt được những kết quả tích cực. Nhịp độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 5%.
Nông nghiệp đạt vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tổng sản lượng lương thực đạt 40,5 triệu tấn. Mức cao nhất từ trước đến nay.
Công nghiệp đạt mức tăng trưởng hơn 10%
Kim ngạch xuất khẩu tăng 25% so với năm 2008, vượt hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra, hạn chế các tác động bất lợi do hậu quả của khủng hoảng kinh tế khu vực.
Phòng giao dịch nằm tại 92- Võ Thị Sáu là địa bàn đẹp nằm ngay trung tâm thủ đô có điều kiện để thu hút khách hàng.
* Khó khăn :
Mức tăng trưởng kinh tế ở mức thấp sản xuất cầm chừng, nhiều sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ, khu vực dịch vụ tăng chậm, đầu tư trực tiếp nước ngoài liên
tục giảm mạnh.
Tình hình lũ lụt để lại nhiều hậu quả nặng nề trong khu vực, có tác động xấu đến nền kinh tế đất nước.
Nhà nước tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó trong năm 2008 nhà nước liên tục điều chỉnh giảm lãi suất trần cho vay làm ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động của NHNo&PTNT nói riêng.
Hơn nữa trên địa bàn Hà Nội hiện nay có rất nhiều ngân hàng thương mại quốc doanh và ngoài quốc doanh cùng hoạt động, các ngân hàng kinh doanh đa năng nội tệ, ngoại tệ và tham gia thanh toán quốc tế. Thực trạng một khách hàng vay nhiều ngân hàng đang phổ biến và là yêu cầu tất yếu của sự phát triển. Tuy nhiên các ngân hàng không có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, còn thiếu giải pháp có thể kiểm soát an toàn vốn vay. Việc canh tranh giữa các ngân hàng đôi khi gay gắt, thiếu lành mạnh, rất dễ xẩy ra rủi ro mà phòng giao dịch lại mới được thành lập số lượng khách hàng còn ít, năng lực sản xuất kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp khách hàng không đồng đều do vậy trong thời gian trước mắt sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng sẽ là một yếu tố không thuận lợi cho hoạt động của ngân hàng.
3.1.2. Định hướng và một số chỉ tiêu dự kiến trong thời gian tới :
Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, nhno&ptnt chi nhánh Bách Khoa, phòng giao dịch đã phát huy được những thuận lợi cơ bản, nhận thức được những khó khăn trong thời gian tới. Với tinh thần đoàn kết, sáng tạo, làm việc hết mình phòng giao dịch quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ năm 2009 với phương châm “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động theo luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng, từng bước phát triển bền vững, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ và hiệu quả hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò là Sở đầu mối của toàn ngành, góp phần thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ phục vụ tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá, từng bước hội nhập vào thị trường các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới”
Phát huy những kết quả đã đạt được năm 2008. Năm 2009 phòng giao dịch phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về hoạt động tín dụng như sau:
- Nguồn vốn tăng trưởng 35% so với năm 2008
- Nguồn nội tệ chiếm 20% tổng nguồn vốn
- Dư nợ cho vay tăng trưởng 25%
- Tỷ lệ nợ quá hạn nhỏ hơn 20% so với tổng dư nợ
- Tỷ lệ cho vay trung, dài hạn chiếm 50% so với tổng dư nợ
- Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp chiếm từ 90-95% tổng dư nợ cho vay
Tiếp tục triển khai nhanh tốc độ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, củng cố và phát triển mạng lưới thanh toán với các chi nhánh. Hoàn chỉnh mô hình tổ chức, các cơ chế nghiệp vụ, từng bước đưa hoạt động của phòng giao dịch phát triển đáp ứng được với nhiệm vụ và tầm vóc của Sở đầu mối .
3.2 giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch
Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đứng trước những nguy cơ rủi ro và tín dụng là một trong những lĩnh vực có rủi ro cao nhất. Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động tín dụng đang là lĩnh vực chủ đạo chiếm tỷ trọng từ 85-95% doanh thu nên việc đảm bảo tín dụng sẽ là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu và là một nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển của mỗi ngân hàng thương mại.
Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng .
Thông qua việc phân tích thực trạng tín dụng của phòng giao dịch trong chương II chúng ta thấy rằng tình trạng tín dụng tại ngân hàng đang còn nhiều vấn đề cần khắc phục. Để chất lượng tín dụng tại ngân hàng trong thời gian tới thực sự hiệu quả thì ngân hàng cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây:
3.2.1 Công tác huy động vốn :
Nguồn vốn mà ngân hàng huy động bao gồm có: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác như phát hành các giấy tờ có giá... Các loại tiền gửi này có thể được hưởng lãi hoặc không và ngân hàng phải hoàn trả khi khách hàng yêu cầu. Đây là nguồn vốn cơ bản để ngân hàng hoạt động cho vay và các dịch vụ khác mang lại lợi ích cho ngân hàng.
Trong công tác này khách hàng yêu cầu cần phải nhanh chóng dễ dàng, tạo thoải mái khi giao dịch, bí mật...Do đó đòi hỏi sự hướng dẫn của cán bộ nhân viên ngân hàng.
Phòng giao dịch là một đơn vị kinh doanh có nhiều ưu thế trong sự canh tranh giữa các ngân hàng như:
+Là một Ngân hàng thương mại thuộc sở hữu Nhà nước: Đây là một ưu thế tâm lý bởi khách hàng rất tin tưởng vào các Ngân hàng thương mại quốc doanh, khi gửi vào họ không sợ bị mất nhất là sau khi hàng loạt các trung tâm tín dụng đổ vỡ.
+Là một ngân hàng có uy tín, có địa điểm vị trí hoạt động thuận lợi địa bàn hoạt động ngay tại Thủ đô Hà Nội là nơi đông dân cư có đời sống cao.
+Về công nghệ ngân hàng: Đã đưa vào sử dụng hệ thống máy vi tính cập nhật thông tin hàng ngày, sử dụng máy ATM (máy rút tiền tự động)
+Về cán bộ nhân viên: Cán bộ làm việc tại ngân hàng hầu hết là những cán bộ có năng lực có trình độ có chuyên môn, nhiệt tình trong công việc, tận tụy với khách hàng.
Như vậy để phát huy được những thuận lợi trên nhằm thu hút tối đa lượng tiền gửi, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu vay vốn của các đơn vị kinh tế trên địa bàn thì trong thời gian tới: Phòng giao dịch vẫn phải quan tâm hơn nữa đến trình độ cán bộ nhân viên, đặc biệt là đối với các nhân viên giao dịch có quan hệ trực tiếp với khách hàng gửi tiền bởi với sự thông thạo nghiệp vụ, nhanh nhạy trong công tác, thái độ phong cách giao tiếp cư sử và văn hoá, lịch sự văn minh, ưa nhìn sẽ là một trong những nhân tố rất cơ bản quyết định đến sự thành công của ngân hàng trong công tác này. Cần tổ chức ra các kỳ thi tuyển có sự chọn lọc nghiêm minh, chính xác.
Củng cố và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho trụ phòng giao dịch. Việc nâng cấp, tân trang các phòng tiếp khách, điểm giao dịch sẽ khiến khách hàng cảm thấy thoải mái, tin tưởng hơn.
Thực hiện nhiều hình thức huy động đa dạng phong phú hấp dẫn khách hàng như nhận tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân, tiền gửi tổ chức kinh tế, tổ chức các đợt phát hành kỳ phiếu trái phiếu bằng nội tệ, ngoại tệ ...
Tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để ngân hàng tự giới thiệu về mình với khách hàng. Có thể nói cho đến nay trong phần lớn bộ phận dân cư còn chưa hiểu biết đầy đủ về phòng giao dịch nên việc làm trên sẽ tạo được ưu thế của phòng giao dịch trên thị trường có như vậy các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư mới có thể tập trung về ngân hàng.
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nên lượng vốn để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế ngày càng lớn. Vì vậy nếu phòng giao dịch thực hiện tốt những công tác trên sẽ thu hút được một lượng vốn đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng góp phần điều hoà vốn tốt nhất cho nền kinh tế.
3.2.2. Trong công tác cho vay và thu nợ :
Đây là công tác quan trọng nhất quyết định đến chất lượng của các khoản tín dụng và sự tồn tại của ngân hàng do vậy mục tiêu của ngân hàng ở đây không chỉ là mở rộng doanh số cho vay mà phải thực hiện các khoản vay có hiệu quả trong công tác này Sở cần phải áp dụng các biện pháp như :
* Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngân hàng :
Trong hoạt động tín dụng có vô số các rủi ro khác nhau có thể dẫn đến việc không trả được nợ khi đến hạn của khách hàng. Đều có thể đưa ra được quyết định cho vay các nhà lãnh đạo ngân hàng phải cố gắng ước lượng những rủi ro không hoàn trả. Rủi ro này có thể dự đoán được trong quá trình phân tích tín dụng hay thẩm định tín dụng.
Thẩm định tín dụng là xác định khả năng hay ý muốn của người vay trong việc hoàn trả tiền vay. Có rất nhiều yếu tố mà các nhà ngân hàng cần phải xem xét về khả năng và sự sẵn lòng hoàn trả tiền vay phù hợp với các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Trong đó còn chú ý tới 5 nhân tố quan trọng đó là: Năng lực, uy tín, vốn, tài sản thế chấp, điều kiện hoạt động. Trong các nhân tố này uy tín nổi lên là nhân tố quan trọng nhất bởi nhiều khoản tín dụng được cấp với hi vọng sẽ được hoàn trả như thoả thuận.
Nếu như khâu thẩm định được được thực hiện tốt thì các nhà quản trị ngân hàng sẽ đưa ra được những quyết định đúng đắn. Tuy nhiên để làm được việc này các nhà ngân hàng phải.
-Thực hiện thu thập và xử lí thông tin một cách chính xác :
Trong điều kiện phòng giao dịch hiện nay mới chỉ thực hiện cho vay đối với các Doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân. Vì vậy việc thu thập, phân tích xử lý kịp thời chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, các thông tin về thị trường trước khi đưa ra quyết định cho vay luôn được coi trọng hàng đầu trong công tác thẩm định. Các thông tin thu thập được dùng để đánh giá chi phí tài sản, khả năng kiếm lời của người xin vay. Trong điều tra về đơn xin vay của doanh nghiệp ngân hàng cần phải biết về lịch sử của doanh nghiệp, sổ sách kế toán. Mối quan hệ của người lao động, kinh nghiệm trong việc phát triển và đưa vào thị trường các sản phảm mới, nguồn gốc của doanh thu và lợi nhuận.
Ngân hàng cũng cần phải biết về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp những sản phẩm nào được buôn bán, sản xuất, những loại dịch vụ nào được đưa ra, hàng hoá nào là chính, là phụ, phục vụ tiêu dùng hay sản xuất. Xa xỉ hay thiết yếu - đó sẽ là những thông tin có giá trị. Ngoài ra ngân hàng cũng cần thu thập các thông tin về tính ổn định của nguồn nguyên liệu, lao động, thị trường nơi doanh nghiệp cung ứng sản phẩm. Các điều khoản mua bán, phương pháp phân phối lợi nhuận v.v..
Để có được đầy đủ thông tin về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, ngân hàng phải xem xét báo cáo tài chính, phỏng vấn người xin vay để có được những thông tin về mục đích vay tiền, thu thập các thông tin về tình hình vay trả của đơn vị vay vốn trong quá khứ để từ đó đưa ra đánh giá về uy tín của đơn vị vay vốn. Bên cạnh đó ngân hàng còn điều tra các thông tin từ bên ngoài như: thông tin điều tra nơi hoạt động sản xuất kinh doanh, điều tra từ các bạn hàng của đơn vị vay vốn, các nguồn thông tin từ Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước và Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của nhno&ptnt chi nhánh bách khoa ...Tuy nhiên hoạt động của các trung tâm này mới chỉ đạt được một số kết quả nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của hoạt động tín dụng. Vì vậy ngân hàng cần trang bị các phương tiện thông tin hiện đại, tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác thu thập thông tin phòng ngừa rủi ro nhằm trang bị phương pháp tìm kiếm, tra cứu tạo lập thông tin về doanh nghiệp một cách chính xác.
Trong thời gian tới khi Sở thực hiện cho vay đối với hộ sản xuất thì nguồn thông tin thu thập chủ yếu ở đây là: Tên tuổi, địa chỉ của chủ hộ, trình độ học vấn, đạo đức, tính thật thà siêng năng, các tệ nạn như nghiện rượu, nghiện hút ... kinh nghiệm quản lý, tài sản hiện có, tình trạng gia đình (số lao động, số nhân khẩu), đối tượng xin vay vốn, diện tích canh tác, mức thu nhập bình quân/ tháng và một số tình hình khác ...
Trên cơ sở thông tin đã thu thập được tiến hành xử lý và phân tích các thông tin đó một cách chính xác và khoa học để từ đó đưa ra những quyết định chính xác.
- Phân tích tài chính đơn vị vay vốn :
Việc thường xuyên phân tích tài chính đơn vị vay vốn, để hiểu rõ về năng lực tài chính của đơn vị đó từ đó làm cơ sở đưa ra những phán quyết tín dụng là việc làm hết sức cần thiết. Mặt khác việc phân tích tài chính là việc phân tích tình hình hoạt động của đơn vị vay vốn từ đó biết được tình hình tài chính, khả năng trả nợ của người xin vay, các khoản thu, chi của đơn vị đó có hợp lý không, biết được các khoản phải trả, các khoản phải thu để có thể tính được các khoản mà đơn vị có thể trả trong tương lai cho ngân hàng...Chính vì vậy các cán bộ tín dụng cần đi sâu phân tích các khoản phải trả, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Đồng thời tính toán được hệ thống các chỉ số, đặc biệt chú trọng các chỉ số đánh giá khả năng thanh toán, hệ thống tài trợ vốn...
Nên duy trì phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính của đơn vị vay vốn 6 tháng một lần để kịp thời phân loại khách hàng cho từng thời kỳ, từ đó có định hướng đầu tư và có cơ chế ưu đãi phù hợp.
- Đánh giá tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và trình độ của người điều hành :
Dựa vào hồ sơ xin vay của khách hàng và các thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá phương án sản xuất mà khách hàng sử dụng vốn vay để đầu tư. Bởi phương thức kinh doanh có khả thi, có triển vọng tốt sẽ phần nào đảm bảo vốn vay của ngân hàng chắc chắn được hoàn trả. Hơn nữa sự thành công hay thất bại của phương án sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng, trìng độ và kinh nghiệm của người quản lý. Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào xẩy ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh với một người quản lý năng động, sáng tạo và có kinh nghiệm sẽ có thể giải quyết một cách nhanh chóng, có hiệu quả. Đây có thể coi là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được trước khi xem xét có cho vay hay không.
* Phân loại khách hàng :
Để đánh giá các khách hàng ngân hàng phải dựa vào một số tiêu chí nhất định, qua đó phân loại khách hàng ở các mức độ A,B,C khác nhau để từ đó đưa ra các giải pháp như: Tiến hành tập trung cho vay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, tài chính lành mạnh, vay trả sòng phẳng. Các đơn vị hiện nay có khó khăn nếu ổn định được sản xuất kinh doanh có khả năng vượt lên, phản ánh kinh doanh hiệu quả thì nghiên cứu thẩm định kỹ lưỡng để có giải pháp tháo gỡ cho đơn vị vay vốn hoạt động nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, có điều kiện trả nợ ngân hàng.
Từ chối, hạn chế cho vay khách hàng không có khả năng ổn định và phát triển trong sản xuất kinh doanh, không có các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả và khách hàng mới không hội đủ các nguyên tắc, điều kiện tín dụng, xu hướng phát triển không vững chắc.
Tiếp tục xây dựng và kiên trì thực hiện chiến lược khách hàng, xây dựng các cơ chế ưu đãi, tăng cường tìm kiếm khách hàng có chất lượng tốt, quy mô hoạt động lớn, đặc biệt là tổng công ty 90,91...
* Xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý :
Khi quyết định cho vay đối với các doanh nghiệp, cán bộ tín dụng cùng với doanh nghiệp cần phải xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Về nguyên tắc: Kỳ hạn nợ phải được xác định theo thời gian luân chuyển vốn. Nếu kỳ hạn nợ nhỏ hơn thời gian luân chuyển vốn sẽ tạo ra sự gấp gáp cho khách hàng trong việc trả nợ, khiến cho doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn hoặc dài hạn của đối tượng khác để hoàn trả, tạo nên sự rối loạn trong trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, nhiều khi làm tăng chi phí vốn. Ngược lại xác định kỳ hạn nợ quá thời gian luân chuyển vốn sẽ tạo ra khả năng sử dụng vốn vào mục đích khác, vận động của vốn tín dụng sẽ thoát ra khỏi chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sự kiểm soát của ngân hàng. Do đó việc xác định kỳ hạn nợ hợp lý là yếu tố quyết định đến việc khách hàng có trả nợ ngân hàng khi đến hạn hay không.
* Đối với các khoản vay ngắn hạn:
Kỳ hạn nợ ban đầu: Được xây dựng trên cơ sở chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng căn cứ vào một năm doanh nghiệp quay được mấy vòng vốn tức là xác định một vòng quay vốn của doanh nghiệp là mấy tháng và lấy số tháng đó để định ra kỳ hạn trả nợ. Muốn làm được điều này một mặt các doanh nghiệp phải cung ứng đầy đủ số liệu để cùng với ngân hàng xác định kỳ hạn trả nợ chính xác hoặc bản thân doanh nghiệp phải tự tính các khoản và thu được trong tương lai để lên kế hoạch trả nợ ngân hàng vì nếu không trả đúng hạn doanh nghiệp sẽ phải chịu một mức lãi suất của khoản nợ quá hạn (=150% lãi suất trên hợp đồng tín dụng). Do đó không chỉ ngân hàng bị rủi ro là không thu được vốn mà doanh nghiệp đương nhiên bị tăng chi phí do phải trả lãi suất cao hơn cho ngân hàng.
Kỳ gia hạn nợ: Không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng được gia hạn nợ mà Ngân hàng chỉ nên gia hạn cho các doanh nghiệp thực sự khó khăn hoặc doanh nghiệp phải chứng minh cho ngân hàng thấy được là có những khoản thu mà doanh nghiệp chắc chắn sẽ thu được trong tương lai và ngân hàng phải đàm phán với doanh nghiệp chắc chắn về kỳ hạn tới. Tuy nhiên việc làm này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải khéo léo trong quan hệ với khách hàng làm sao cho khách hàng phải thành thực với những yêu cầu của ngân hàng. Đồng thời ngân hàng cũng cần phải kiên quyết, cứng rắn với những khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng hoặc những khách hàng nhiều lần không trả được nợ thì chuyển sang nợ quá hạn để có biện pháp sử lý.
Đối với những khoản vay trung và dài hạn: Khi tính toán thời hạn trả nợ cuối cùng mà chưa hết thời hạn tối đa cho phép, thì thời gian gia hạn được phép tối đa bằng thời gian còn lại.
VD: Thời gian cho vay dài hạn tối đa 10 năm. Nhưng khi tính toán dự án cho vay thời gian thu hồi vốn là 7 năm. Nếu thực tế khách hàng cần gia hạn nợ Ngân hàng có thể xem xét kéo dài thêm 3 năm nữa.
* Thực hiện nghiêm túc các thể lệ, chế độ tín dụng hiện hành và giải quyết cho vay theo đúng qui trình công việc :
- Qui chế, thể lệ tín dụng:
Trong những năm gần đây thể lệ, chế độ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước luôn luôn được bổ sung, thay đổi để phù hợp với chính sách đổi mới và nền kinh tế thị trường. Vì vậy trong thực tiễn giải quyết công việc cán bộ làm công tác tín dụng khó có thể nắm vững được hết những văn bản pháp qui trong lĩnh vực này đang còn hiệu lực hoặc các văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan đến công tác tín dụng và khó lường trước được những nội dung trong văn bản pháp qui mâu thuẫn hoặc phủ nhận lẫn nhau. Thực trạng này đang là một trong những khó khăn, lúng túng cho cán bộ làm công tác tín dụng.
Chính vì vậy trong điều kiện kinh tế xã hội và pháp luật hiện nay, cần phải coi trọng việc vận dụng các văn bản pháp qui vào thực tiễn cho phù hợp với tình hình từng khách hàng. Ngoài ra cần phải giữ vững qui trình giải quyết công tác tín dụng theo 3 cấp: cán bộ thẩm định, trưởng phó phòng tín dụng tái thẩm định, lãnh đạo quyết định. Giải quyết công việc theo qui trình này sẽ đảm bảo thực hiện được dân chủ, phân định rõ ràng trách nhiệm và kiểm tra, kiểm soát đảm bảo an toàn tín dụng.
Song để thực hiện nghiêm túc các thể lệ chế độ tín dụng thì ngoài việc giáo dục đào tạo ý thức cho cán bộ tín dụng, cần phải nâng cao công tác kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành thể lệ, chế độ từ đó qui trách nhiệm thưởng phạt nghiêm minh, rõ ràng.
- Qui chế, thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản:
Việc thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản, khi vay vốn vẫn là một trong những biện pháp đảm bảo tín dụng. Được hầu hết các nước áp dụng và có hiệu quả bởi nó được thể chế hoá bằng pháp luật ở mức độ cao.
+ Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
+ Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả nợ.
+ Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ .
+ Cam kết thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Đối với khách hàng vay vốn phải có tái sản đảm bảo thì trên cơ sở NĐ 178 và thông tư 06, nhno&ptntvn đã ban hành “Quy định thực hiện các biện pháp đảm bảo tiền vay trong hê thống nhno&ptntvn ” trong đó quy định về mức cho vay so với giá trị tài bảo đảm tiền vay như sau:
+ Tài sản thế chấp: Mức cho vay tối đa=70% giá trị tài sản.
+Tài sản cầm cố : Mức cho vay tối đa=70% giá trị tài sản.
+Cho vay bộ chứng từ xuất khẩu: Mức cho vay tối đa=90% giá tri thanh toán mà khách hàng được thụ hưởng của bộ chứng từ hoàn hảo.
* Tăng cường kiểm tra giám sát các khoản vay :
Để các khoản tín dụng thực sự được hiệu quả, có nghĩa là các khoản cho vay ra phải thu hồi được. Muốn vậy các cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, đây là một hoạt động rất quan trọng bởi có kiểm tra, giám sát mới có thể biết được khách hàng sử dụng vốn vay như thế nào? Có đúng mục đích không và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh ra sao. Tuy nhiên trong thời gian qua công tác kiểm tra kiểm soát ở phòng giao dịch còn kém hiệu quả vì thế đã xuất hiện nhiều khoản nợ quá hạn phát sinh do nguyên nhân từ phía khách hàng. Để giải quyết vấn đề này, trong thời gian tới Sở cần quan tâm hơn nữa đến công tác kiểm tra, giám sát, tổ chức các đợt kiểm tra bất ngờ nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng. Công tác kiểm tra giám sát, không chỉ đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà quan trọng ở chỗ phải kiểm tra thanh lọc những cán bộ lãnh đạo, cán bộ tín dụng. mất phẩm chất, tiêu cực, thiếu trách nhiệm gây thất thoát tài sản xã hội chủ nghĩa, làm mất uy tín của ngân hàng.
* Xử lý các khoản nợ quá hạn :
Để nâng cao chất lượng tín dụng song song với việc thực hiện những giải pháp nhằm hạn chế phát sinh nợ qúa hạn mới thì việc sử lý các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi thiết nghĩ cũng rất quan trọng.
Hiện nay, qua số liệu năm 2001 chúng ta thấy rằng tình trạng nợ quá hạn tại PGD còn ở mức cao. Vậy làm thế nào để thu hồi được nợ quá hạn? Việc đầu tiên là phải phân tích các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi để tìm hiểu nguyên nhân phát sinh từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp.
Cán bộ tín dụng phải kiên trì bám sát các đơn vị để đôn đốc thu hồi nợ quá hạn, gửi công văn nhắc nhở khi các khoản nợ đã đến hạn mà khách hàng không trả, bày tỏ sự không hài lòng và nêu ra các biện pháp sử phạt nếu khách hàng cố tình không trả nợ và tất cả các công văn, hồ sơ cho vay cần phải lưu trữ cẩn thận để phòng trong quan hệ tố tụng.
Kiểm tra, củng cố hồ sơ cho vay: Hồ sơ thế chấp tài sản của các khoản nợ qúa hạn và trực tiếp kiểm soát diễn biến về cung cầu, giá cả của các tài sản thế chấp để xác định các khoản vay, tài sản có đủ điều kiện và khả năng giải quyết thì thực hiện xử lý nợ quá hạn theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, xử lý dứt khoát từng bước theo đúng qui trình nghiệp vụ và các qui định của pháp luật để làm cơ sở cho xử lý nợ rủi ro theo văn bản 238 của nhno&ptntvn. Mạnh dạn áp dụng các cơ chế tài chính cho phép để giải quyết các khoản nợ tồn đọng một cách có hiêụ quả như:
- Đối với các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước: Khi có tình hình tài chính khó khăn không có khả năng trả nợ, phát sinh nợ quá hạn thì tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể mà ngân hàng có thể đưa ra các biện pháp như: Cung cấp thêm vốn để phục hồi kinh doanh, gia hạn nợ... và biện pháp cuối cùng là xin Chính phủ cho phép khoanh nợ.
- Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Khi phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi mà ngân hàng đã xiết nợ bằng tài sản, những tài sản đó đã có đủ hồ sơ pháp lý hợp pháp khi thực hiện việc phát mại hoặc đưa sang trung tâm bán đấu giá tài sản, bán tài sản thu hồi vốn vay. Trường hợp không có thị trường tiêu thụ hoặc tiêu thụ chậm thì ngân hàng được phép cho thuê tài sản hoặc sử dụng vào phục vụ sản xuất kinh doanh tạo nguồn thu bù đắp phần lỗ phải trả lãi vốn huy động. Những tài sản thế chấp đã xiết nợ chưa đảm bảo tính pháp lý cần có sự phối hợp giúp đỡ của các ngành chức năng để hoàn thiện và tiếp tục xử lý. Trong trường hợp sau khi phân tích nợ, đôn đốc khách hàng trả nợ và phát mại tài sản thế chấp vẫn không còn khả năng thu thì đề nghị Nhà nước cho phép hạch toán vào rủi ro và phân bổ cho các năm sau:
* Đa dạng hoá các hình thức tín dụng :
Đa dạng hoá các hình thức cho vay là một biện pháp hữu hiệu nhằm phân tán rủi ro cho ngân hàng tránh tình trạng “bỏ tất cả trứng vào một rổ”.Căn cứ vào việc phân loại các hình thức tín dụng trong chương I thì hiện nay PGD đã thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, thực hiện cho vay gián tiếp thông qua chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh, cho vay ngắn, trung, dài hạn... Trong thời gian tới Sở cần phải tập trung hơn nữa trong việc đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm thu hút khách hàng, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
* Thực hiện các hoạt động Marketing ngân hàng :
Đây là biện pháp quảng cáo để khách hàng có thể hiểu rõ hơn về ngân hàng và từ đó đến giao dịch với ngân hàng Marketing ngân hàng có nhiều biện pháp như: Treo biểu lãi suất ra ngoài, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để ngân hàng tự giới thiệu về mình, tổ chức các hội nghị khách hàng theo định kỳ hoặc nhân dịp nào đó. Các loại hình hội nghị khách hàng có thể tổ chức là: Hội nghị khách hàng lớn, hội nghị khách hàng truyền thống, hội nghị khách hàng mở rộng từ việc mở hôị nghị khách hàng ngân hàng có thể rút ra những bài học kinh nghiệm từ những ý kiến đóng góp của khách hàng.
Ngoài ra ngân hàng có thể tác động vào tâm lý khách hàng qua việc trao đổi quà tặng cho khách hàng thứ bao nhiêu của mình hoặc có thể nhân một dịp nào đó trao quà tặng hay dành những ưu đãi riêng cho khách hàng... Những biện pháp này sẽ có tác dụng tâm lý tốt, có thể đem lại hiệu quả khi thực hiện.
Hiện nay tại SGD thiết nghĩ việc thành lập ra phòng Marketing cũng rất quan trọng vì với một đội ngũ các bộ chuyên về công tác Marketing sẽ đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, giới thiệu về Sở, các dịch vụ của SGD góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Sở.
* Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng :
Trong mọi lĩnh vực con người là yếu tốt quyết định đó là một chân lý song ở đây xin được cụ thể là việc đảm bảo chất lượng tín dụng trước hết phải do chính những người trực tiếp làm tín dụng - cán bộ tín dụng quyết định. Cán bộ tín dụng hàng ngày phải sử lý nghiệp vụ có tính biến động nhưng liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế, gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách hàng, đối mặt với nhiều cám dỗ, có nhiều cơ hội có thể thực hiện những hành vi vụ lợi... Vì vậy người cán bộ tín dụng cần phải được tuyển chọn cẩn thận, được bố trí hợp lý được quan tâm giáo dục, rèn luyện... và phải đảm bảo một số tiêu chuẩn cơ bản sau.
+ Phải có kiến thức trình độ nghiệp vụ cơ bản: Cán bộ tín dụng cần phải được đào tạo kiến thức nghiệm vụ cơ bản về tín dụng ngân hàng một cách chính qui ở trình độ đại học hoặc cao đẳng. Hiện nay chúng ta có rất nhiều loại hình đào tạo ở các hình thức. Thời gian chương trình khác nhau nên tất yếu sẽ có những loại chất lượng khác nhau. Vì vậy khi tuyển chọn cán bộ tín dụng cần có sự phân biệt rõ ràng và cần chọn những người chính qui dài hạn vì: Một mặt để học được chính qui dài hạn những người đó phải có một chỉ số thông minh nhất định, phương pháp và chất lượng đào tạo ở cấp học chính qui dài hạn sẽ tạo cho người học một lượng kiến thức cơ bản nhiều hơn sâu hơn các loại đào tạo khác. Trong quá trình làm việc Cán bộ tín dụng còn cần phải có tinh thần học hỏi, nghiên cứu học tập, nhằm cập nhật, bổ xung kiến thức để phù hợp và đáp ứng được sự vận động và phát triển của xã hội.
+ Phải có đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp cao: Người cán bộ tín dụng hơn bao giờ hết phải có đạo đức tốt, không thể bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, phải coi sự nghiệp, danh dự bản thân và lợi ích của ngân hàng lên trên hết. Bên cạnh đó còn phải có trách nhiệm nghề nghiệp rất cao mới có thể xử lý tốt công việc được giao. Thể hiện có trách nhiệm cao trong việc tìm tòi, học hỏi nghiệp vụ, trách nhiệm cao trong từng công việc, dám làm dám chịu trách nhiệm với cách xử lý của mình. Thực tế đã có một số cán bộ tín dụng đã không có đạo đức nghề nghiệp, lợi dụng cương vị quyền hạn để lừa đảo hoặc cấu kết với khách hàng để lừa đảo lấy tiền ngân hàng cũng có một số cán bộ tín dụng mặt dù không vụ lợi nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm trong xử lý nghiệp vụ làm theo chỉ đạo của người khác hoặc về cảm tình cá nhân mà bỏ qua các qui trình, tiêu chuẩn tín dụng nên gây thất thoát làm giảm chất lượng tín dụng.
+ Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm nghề nghiệp. Để có được kinh nghiệm và xác định được bản lĩnh nghề nghiệp của một cán bộ cần phải có thời gian. Vấn đề này đề cập đến việc cán bộ tín dụng cần phải có tinh thần học hỏi, rèn luyện và ngân hàng phải có chính sách đào tạo trong quá trình hoạt động thực tế. Đồng thời khi phân công giao việc cho cán bộ tín dụng cần chú ý đến kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp tương xứng với tính khó khăn phức tạp của công việc, lĩnh vực mà cán bộ tín dụng phụ trách...
Trên cơ sở những tiêu chuẩn nêu trên SGD với tư cách là một Sở đầu mối của toàn ngành thì tiêu chuẩn của một người cán bộ tín dụng lại càng nên chặt chẽ hơn. Thấy được tầm quan trọng của người cán bộ nên trong năm vừa qua nhno&ptntvn đã tổ chức ra cuộc thi tuyển chọn người tài để củng cố cán bộ nhno&ptntvn nói chung và SGD nói riêng. Mặc dù vậy nhưng số lượng cán bộ tín dụng tại phòng kinh doanh SGD vẫn còn thiếu. Hy vọng rằng trong năm tới với sự sáng suốt lựa chọn của ban lãnh đạo phòng kinh doanh sẽ có thêm được những cán bộ thực sự có đức, có tài góp phần nâng cao chất lượng công tác tín dụng.
* Tranh thủ sự chỉ đạo và ủng hộ của các cấp, các ngành :
Tất cả các biện pháp trên không chỉ đòi hỏi bản thân tất cả cán bộ công nhân viên của SGD phải tích cực mà bản thân họ phải là những người tài ba, tận dụng mọi nguồn vốn để kinh doanh và là những người có tầm nhìn chiến lược đưa SGD ngày càng phát triển chiếm thị phần lớn trên thị trường, đạt được mục tiêu lợi nhuận và họ phải biết phát huy hết khả năng thế mạnh của đơn vị mình đồng thời tranh thủ sự chỉ đạo và giúp đỡ của Trung tâm điều hành nhno&ptntvn sao cho phát huy được vai trò và chức năng của một SGD chính của hệ thống nhno&ptntvn
Kết luận
Hoà chung với công cuộc đổi mới của nền kinh tế, phòng giao dịch- nhno&ptnt chi nhánh Bách Khoa đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện trên nhiều mặt hoạt động đặc biệt là đối với hoạt động tín dụng là một hoạt động cơ bản nắm vai trò là hoạt động xương sống tại Sở. Với sự cố gắng hết mình của toàn thể các cán bộ công nhân viên trong sự giúp đỡ tận dùng của các ban ngành trong những năm qua Sở đã đạt được những thành tựu đáng kể, không những mang lại hiệu quả cho bản thân phòng giáo dịch mà còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho dân cư, tăng thu cho ngân sách Nhà nước...
Tuy nhiên trong quá trình phát triển và hoàn thiện phòng giao dịch đã gặp không ít những khó khăn trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng như tình trạng nợ quá hạn... Vậy để hoạt động kinh doanh trong thời gian tới được hiệu quả hơn đòi hỏi sự nỗ lực quyết tâm của Sở cũng như sự hỗ trợ của Trung tâm điều hành, và các ban ngành có liên quan. Em hy vọng rằng trong thời gian tới phòng giao dịch sẽ thực sự là địa chỉ tin cậy đối với các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế.
Tài liệu tham khảo
1. Feredrics.Míkin, tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính NXB: Khoa hoc và kỹ thuật nam 1994.
2. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ TS: Nguyễn Hữu Tài. NXB thống kê Hà Nội năm 2000
3. Peter Rose, quản trị ngân hàng thương mại, NXB tài chính.
4. Báo cáo thường niên của NHNo&PTNT chi nhánh Bách Khoa trong 3 năm 2006 đến năm 2008.
5. Ngân hàng thương mại của PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà, NXB: Đại học kinh tế quốc dân năm 2007.
6. Các trang wed:
- www.vnexpress.com.vn
- www.vneconomy.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A6196.DOC