Kết luận
Thực hành quyền công tố, tranh tụng
tại phiên tòa nói chung, tranh tụng tại
phiên tòa xét xử vụ án về các tội xâm phạm
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ,
trẻ em nói riêng là một trong những lĩnh
vực công tác thực hiện chức năng quan
trọng của ngành Kiểm sát nhân dân. Đây
cũng là lĩnh vực công tác khó khăn và rất
nhạy cảm, gắn với trách nhiệm của VKS
trong việc bảo đảm chống làm oan người
vô tội, chống bỏ lọt tội phạm, người phạm
tội; bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Trong những năm gần đây, quán triệt
và thực hiện các chủ trương cải cách tư
pháp của Đảng, VKS có nhiều biện pháp
đổi mới, nâng cao vai trò, trách nhiệm của
VKS, KSV trong công tác này nên hiệu quả,
chất lượng công tác ngày được nâng cao.
Tuy nhiên, trước tình hình tội phạm xâm
phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
phụ nữ, trẻ em ngày càng gia tăng, với tính
chất ngày càng phức tạp, thủ đoạn ngày
càng tinh vi, đòi hỏi VKS các cấp cần chú
trọng củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy;
bố trí, sắp xếp cán bộ, KSV cho phù hợp,
đảm bảo đủ cả về số lượng và chất lượng
để thực hiện tốt và có hiệu quả nhiệm vụ
được giao. KSV chủ động nghiên cứu kỹ hồ
sơ, chuẩn bị tốt đề cương xét hỏi, dự kiến
các nội dung tranh tụng; thực hiện việc xét
hỏi, luận tội, tranh luận tích cực và có trách
nhiệm; phát biểu quan điểm giải quyết vụ
án khách quan, toàn diện, có căn cứ, đúng
pháp luật. Tuy nhiên, để chất lượng tranh
tụng ngày càng được tăng cường, đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp, đòi hỏi KSV phải
nâng cao trách nhiệm pháp lý và phải được
thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng kiến
thức để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và kỹ năng giải quyết các vụ
án về các tội xâm phạm sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em. Bên
cạnh đó, mỗi KSV phải thường xuyên rèn
luyện đạo đức, tự trau dồi kiến thức, tích
lũy kinh nghiệm Ngoài ra, để bảo đảm
cho đội ngũ này yên tâm công tác, không
vi phạm, tiêu cực, cần phải có chế độ tiền
lương, phụ cấp phù hợp, bảo đảm các điều
kiện, phương tiện, trang thiết bị phục vụ
cho công tác để hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao, bảo đảm giải quyết vụ án hình
sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
đề cao quyền con người, quyền công dân
trong tố tụng hình sự, giữ vững trật tự, kỷ
cương pháp luật, khẳng định vị trí, vai trò
của ngành Kiểm sát nhân dân./.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về các tội xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
26
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
Tình trạng xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm (bạo lực) của phụ nữ, trẻ em là vấn đề được đặc biệt quan
tâm ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở
Việt Nam, tình trạng bạo lực đối với phụ
nữ, trẻ em thời gian gần đây có diễn biến rất
phức tạp và ngày càng nghiêm trọng. Đối
tượng xâm hại gồm cả những người thân
thiết, ruột thịt của người bị hại, xâm phạm
nghiêm trọng tới quyền con người, làm tổn
thương nặng nề đến thể chất và tinh thần
của phụ nữ, trẻ em; gây bất an cho các gia
đình nạn nhân và bức xúc trong dư luận xã
hội, làm ảnh hưởng xấu đến thuần phong,
mỹ tục, nếp sống văn hóa, làm suy đồi về
đạo đức lối sống, gây mất trật tự an toàn
xã hội.
Việt Nam đã tham gia nhiều Công ước
quốc tế về bảo đảm quyền con người nói
chung, bảo đảm quyền của phụ nữ, trẻ em
bị xâm hại bằng bạo lực nói riêng như Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
năm 1966 (ICCPR); Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966
(ICESCR); Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ
nữ năm 1979 (CEDAW); Công ước quốc tế
về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng
tộc năm 1955; Công ước về quyền trẻ em
năm 1989 (CRC) cùng Nghị định thư bổ
sung chống buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ
em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em;
Tuyên bố năm 1993 của Liên Hợp Quốc về
xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ với những
cam kết bảo đảm quyền của người phụ nữ,
trẻ em được sống một cuộc sống có phẩm
giá, bao gồm quyền được sống mà không
bị bạo lực và lo sợ bị bạo lực và đảm bảo
sự tiếp cận công lý của phụ nữ, trẻ em khi
những quyền đó bị vi phạm. Cam kết quốc
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI
PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA PHỤ NỮ, TRẺ EM
TRẦN CÔNG PHÀN *
* Tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao
Tình trạng xâm hại phụ nữ, trẻ em tại Việt Nam những năm gần đây có diễn
biến rất phức tạp và ngày càng nghiêm trọng khiến công tác đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này cũng gặp nhiều khó khăn. Trong bài viết này, tác giả đưa
ra một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên
tòa sơ thẩm về các tội xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em.
Từ khóa: Tranh tụng; phiên tòa sơ thẩm hình sự; xâm hại phụ nữ, trẻ em.
Ngày nhận bài: 06/9/2019; Ngày biên tập xong: 20/9/2019; Ngày duyệt đăng:
10/01/2020.
In Vietnam, the situation of abusing women and children has complicatedly
and seriously increased leading to difficulties in combating and preventing this
type of crimes. Within this paper, the author proposes some matters to improve
the quality of Prosecutors ligitation in first-instance trials on the crimes infringing
health, honour and dignity of women and children.
Keywords: Ligitation, first-instance criminal trials, abusing women and
children.
27Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
TRẦN CÔNG PHÀN
tế của Việt Nam là hành động tích cực để
đưa ra các biện pháp hiệu quả nhằm bảo vệ
phụ nữ, trẻ em.
Từ năm 2015 đến nay, hệ thống pháp
luật của Việt Nam về bảo vệ phụ nữ, trẻ em
liên tục được bổ sung, sửa đổi để đáp ứng
việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong
thực tế và tiệm cận với các chuẩn mực quốc
tế như: Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nhiều sửa
đổi, bổ sung theo hướng xử lý nghiêm đối
với hành vi xâm hại phụ nữ, trẻ em, thể
hiện ở một số tội danh cụ thể khi quy định
xâm hại phụ nữ có thai, trẻ em được coi là
tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự như tội giết người
(Điều 123), tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
(Điều 134), tội hành hạ người khác (Điều
140). BLHS đã chia độ tuổi của nạn nhân
bị xâm hại tình dục để quy định những tội
danh cụ thể với mức xử lý nghiêm khắc
hơn, đó là tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
(Điều 142), tội cưỡng dâm người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình
dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi (Điều 145) và tội dâm ô với người
dưới 16 tuổi (Điều 146).
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
2015 quy định thủ tục tố tụng đặc biệt đối
với người dưới 18 tuổi để bảo đảm thân
thiện và lợi ích tốt nhất của người dưới
18 tuổi. Luật trẻ em năm 2016 quy định
chương riêng (Chương IV) và nhiều điều,
khoản trong Luật về bảo vệ trẻ em theo 3
cấp độ: Phòng ngừa, Hỗ trợ và Can thiệp
đối với trẻ em có nguy cơ hoặc đang bị xâm
hại; đồng thời quy định các biện pháp bảo
vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi
phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập
cộng đồng. Bên cạnh đó, nhiều văn bản
pháp lý quan trọng liên quan đến bạo lực
trên cơ sở giới (đối với phụ nữ, trẻ em) ở
Việt Nam đã được ban hành, như: Chương
trình hành động phòng, chống tội phạm
buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến
năm 2010; Luật Bình đẳng giới năm 2006;
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm
2007; Luật phòng, chống mua bán người
năm 2011...
Quán triệt, nhận thức được tầm quan
trọng của việc bảo vệ phụ nữ, trẻ em, trong
những năm qua các cơ quan, tổ chức xã hội
đặc biệt quan tâm đến công tác đấu tranh,
phòng, chống những hành vi bạo lực đối
với phụ nữ, trẻ em, trong đó các Cơ quan
tiến hành tố tụng đã phát hiện và đưa ra
xử lý kịp thời nhiều vụ án, người phạm tội
bị trừng trị với mức án nghiêm khắc. Tuy
nhiên tình trạng bạo lực đối với phụ nữ vẫn
chưa giảm mạnh. Do vậy, để nâng cao hơn
nữa hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội
phạm, góp phần hạn chế, tiến tới xóa bỏ tình
trạng bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em, tạo sự
ổn định của xã hội thì yêu cầu đối với các
cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, Viện
kiểm sát (VKS) nói riêng là phải tăng cường
trách nhiệm, đề ra các giải pháp nâng cao
chất lượng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
nhất là việc tranh tụng của Kiểm sát viên
(KSV) tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự về các tội xâm phạm sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em.
Theo quy định tại Điều 26 BLTTHS
năm 2015, tranh tụng đã trở thành một
nguyên tắc trong hoạt động tố tụng, là yêu
cầu bắt buộc đối với KSV khi thực hành
quyền công tố tại phiên tòa. Kết quả của
hoạt động tranh tụng là căn cứ mang tính
chất quyết định để Tòa án xem xét, ban
hành bản án đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Xác định rõ tầm quan trọng của
hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên
tòa, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
28
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
tối cao đã có những chỉ đạo quyết liệt trong
công tác này, ban hành nhiều chỉ thị, không
chỉ trực tiếp liên quan đến tăng cường chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa mà còn nâng
cao chất lượng kiểm sát ở các giai đoạn tố
tụng trước khi diễn ra phiên tòa, bảo đảm
cho KSV nắm chắc, đầy đủ các tình tiết, nội
dung của vụ án để chủ động tranh tụng
tại phiên tòa. Có thể kể như Chỉ thị 06/
CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra, gắn công tố với hoạt động điều tra,
đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống
tội phạm, Chỉ thị số 09/CT-VKSTC ngày
06/4/2016 về tăng cường các biện pháp
nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng
của KSV tại phiên tòa
Để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm
vụ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và
hội nhập quốc tế, trên lĩnh vực công tác
thực hành quyền công tố, tranh tụng tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về
các tội xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của phụ nữ, trẻ em, ngành Kiểm sát
nhân dân cần tập trung thực hiện tốt các
nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Thứ nhất, KSV phải tăng cường trách
nhiệm, nghiên cứu, nắm chắc hồ sơ vụ án,
chuẩn bị kỹ càng, cẩn trọng các chứng cứ,
tài liệu trước khi tham gia phiên tòa, chủ
động xét hỏi, tranh tụng để bảo vệ quan
điểm truy tố của VKS
Yêu cầu đối với KSV được phân công
thực hành quyền công tố trước khi tham
gia phiên tòa là phải nghiên cứu kỹ hồ sơ,
nắm chắc nội dung vụ án, các chứng cứ
buộc tội và chứng cứ gỡ tội, nắm vững đặc
điểm nhân thân của bị cáo, dự kiến các luận
cứ của những người tham gia tố tụng trình
bày tại phiên tòa, dự kiến các tình huống
phải tranh luận để xây dựng kế hoạch, đề
cương xét hỏi, tranh luận, thực hiện việc
buộc tội bị cáo.
Đề cương xét hỏi dựa trên bản tổng
hợp chứng cứ, đặt ra tình huống có thể
xảy ra tại phiên tòa, chuẩn bị những luận
cứ, luận chứng đối đáp với bị cáo, luật
sư, những người tham gia tố tụng khác
để khẳng định và bảo vệ quan điểm truy
tố trong cáo trạng của VKS. Kế hoạch xét
hỏi cần tập trung làm rõ những vấn đề cơ
bản như: có vụ án xâm phạm sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm phụ nữ, trẻ em xảy
ra; nơi, thời điểm xảy ra; người thực hiện
các hành vi xâm hại; ý thức chủ quan của
người phạm tội; thủ đoạn phạm tội là gì;
hậu quả (về thể chất, tinh thần) do hành vi
phạm tội gây ra cho bị hại. Kế hoạch xét
hỏi dự kiến cả những vấn đề, những tình
tiết còn mâu thuẫn trong tài liệu, chứng cứ
vụ án, việc đối chất tại phiên tòa để làm rõ
các mâu thuẫn cũng như việc công bố các
tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Những
vấn đề, tình huống cần dự kiến như: thái
độ tâm lý của bị cáo, khả năng phản cung
của bị cáo, khả năng thay đổi lời khai của
những người tham gia tố tụng; những vấn
đề cần tranh tụng tại phiên tòa; tài liệu,
chứng cứ đưa ra để đấu tranh với bị cáo,
trích lục lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều
tra, đối chất tại phiên tòa; những vấn đề mà
người bào chữa, bị cáo có khả năng đưa ra
tại phiên tòa
Để đảm bảo tranh luận tại phiên toà
đạt chất lượng tốt, đòi hỏi KSV phải nắm
vững và đánh giá chứng cứ một cách khách
quan, toàn diện, phải coi trọng cả chứng cứ
buộc tội và chứng cứ gỡ tội, phải kiểm tra
tính hợp pháp và tính có căn cứ của các
chứng cứ, tài liệu thu thập được trong quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố.
KSV dự thảo bản luận tội theo mẫu
chung, nhưng tùy từng vụ án về các tội xâm
phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
29Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
TRẦN CÔNG PHÀN
phụ nữ, trẻ em khác nhau để xây dựng dự
thảo luận tội có tính thuyết phục. Dự thảo
luận tội phải phân tích, đánh giá chứng cứ
khách quan, toàn diện, có căn cứ; đánh giá
tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
xâm hại phụ nữ, trẻ em (dựa vào hành vi
phạm tội, các đặc điểm về nhân thân, đối
tượng, điều kiện, yêu cầu chăm sóc, bảo vệ
người bị hại để phân tích); hậu quả do tội
phạm gây ra về thể chất, tinh thần (dựa vào
khách thể là sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của phụ nữ, trẻ em bị xâm hại để phân tích);
vai trò, trách nhiệm của từng bị cáo, nhân
thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự; nguyên nhân,
điều kiện phạm tội; đề xuất áp dụng điểm,
khoản, điều của BLHS, hình phạt chính,
hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp,
bồi thường thiệt hại Những lý lẽ, lập luận
để bác bỏ những quan điểm sai trái, không
đúng của bị cáo, người bào chữa trên cơ sở
viện dẫn chứng cứ để chứng minh, bảo vệ
quan điểm truy tố của VKS.
Tại phiên tòa, theo quy định tại Điều
307 BLTTHS năm 2015 về trình tự xét hỏi
thì khi xét hỏi từng người, Chủ tọa phiên
tòa hỏi trước, sau đó quyết định để Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, KSV, người bào
chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Việc
ai hỏi trước, ai hỏi sau là do Chủ tọa phiên
tòa điều hành việc xét hỏi quyết định cho
hợp lý, phù hợp với từng vụ án và diễn biến
cụ thể tại các phiên tòa xét xử. Do vậy, KSV
cần chủ động việc xét hỏi tại phiên tòa khi
Chủ tọa phiên tòa yêu cầu xét hỏi. Khi được
xét hỏi, KSV hoàn toàn có quyền hỏi ai
trước, ai sau theo chủ ý của mình mà không
phụ thuộc vào ý chí của Chủ tọa phiên toà.
Để bảo vệ cáo trạng truy tố bị cáo về hành
vi xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của phụ nữ, trẻ em thì KSV phải hỏi
về toàn bộ vụ án (trên cơ sở những vấn đề,
tình huống đã được dự kiến, chuẩn bị trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử) để có cơ sở đề
xuất trong phần luận tội về tội danh, hình
phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của BLHS,
những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại,
xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp KSV
phải bảo đảm tất cả chứng cứ, tài liệu, đồ
vật có trong hồ sơ vụ án, như: biên bản nhận
dạng (bị hại và người làm chứng nhận dạng
chính xác bị cáo); biên bản đối chất (giữa
bị hại với bị cáo, giữa người làm chứng với
bị cáo, giữa bị hại với người làm chứng);
biên bản xác định địa điểm thực hiện hành
vi phạm tội; bản ảnh hiện trường, biên bản
khám nghiệm hiện trường, biên bản thực
nghiệm điều tra (diễn lại hành vi, lập bản
ảnh xác định vị trí xảy ra hành vi phạm
tội) và nhiều chứng cứ, tài liệu khác đều
phải được thẩm tra công khai tại phiên tòa,
không bỏ sót chứng cứ, tài liệu, đồ vật nào.
Khi xét hỏi, KSV phải hướng đến các
chứng cứ, tài liệu, đồ vật nêu trên được thu
thập đúng trình tự, thủ tục theo quy định
của tố tụng hình sự; không có dấu hiệu
mớm cung hay dụ cung (dẫn dắt lời khai)
của bất kỳ ai đối với bị hại và người làm
chứng, giữa gia đình của bị hại và gia đình
người làm chứng không có mâu thuẫn với
bị cáo
Tùy từng đối tượng và thái độ của
người được hỏi mà KSV có cách xét hỏi cho
phù hợp. Việc xét hỏi bị cáo, bị hại, người
làm chứng là người dưới 18 tuổi tại phiên
tòa được tiến hành phù hợp với lứa tuổi,
mức độ phát triển của họ. KSV đặt câu hỏi
phải ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản, nếu thấy
họ chưa hiểu câu hỏi thì cần nhắc lại và
có thể giải thích cho rõ hơn; không được
tỏ thái độ gay gắt mà phải làm cho những
người được xét hỏi bình tĩnh trả lời đúng
câu hỏi. KSV kết hợp xét hỏi đại diện gia
30
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
đình, nhà trường để xác định nguyên nhân,
điều kiện phạm tội, động cơ, mục đích,
hoàn cảnh phạm tội nếu trong vụ án có bị
cáo là người dưới 18 tuổi, trên cơ sở đó đề
nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng các
biện pháp xử lý cho phù hợp.
Đối với những người tham gia tố tụng
có vai trò làm rõ những tình tiết khách quan
của vụ án như người làm chứng, người giám
định thì KSV có thể hỏi trực diện vào vấn đề
cần làm rõ. Nếu quá trình điều tra, truy tố
hoặc tại phiên tòa, người tham gia tố tụng
có biểu hiện không trung thực, không thành
khẩn khai báo hoặc phản cung, thì KSV có
thể không hỏi trực diện mà phải hỏi có tính
chất “vòng quanh”. Khi hỏi “vòng quanh”,
KSV phải chú ý lắng nghe, ghi chép nhanh
và nhanh chóng tìm ra sự mâu thuẫn trong
những câu trả lời, từ đó tranh luận trở lại
để bác bỏ những nội dung không xác đáng,
không logic với các tình tiết khác của vụ án.
Đối với trường hợp bị cáo im lặng, không
khai báo, KSV cần giải thích, thuyết phục
bị cáo để bị cáo suy nghĩ trả lời. Nếu bị cáo
vẫn thể hiện thái độ cố tình không khai báo
thì KSV căn cứ vào các câu hỏi tình huống
đã dự kiến sẵn để đặt câu hỏi hoặc chuyển
sang hỏi những người khác.
KSV tiến hành xét hỏi người bị hại là
phụ nữ, trẻ em phải phù hợp với giới tính,
lứa tuổi, mức độ phát triển của họ. Khi
người bị hại trình bày, KSV cũng phải chú ý
lắng nghe, ghi chép đầy đủ những lời khai,
lời trình bày, những đề nghị, yêu cầu của
họ. Sau đó có thể hỏi thêm họ về những
điểm mà họ trình bày chưa rõ, chưa đầy đủ
hoặc có mâu thuẫn, nhưng chủ yếu là hỏi
họ về những nội dung, những tình tiết liên
quan đến vụ án, liên quan đến quyền và
lợi ích hợp pháp của họ như yêu cầu về bồi
thường thiệt hại, đề nghị của họ đối với việc
xử lý bị cáo và các vấn đề khác có liên quan.
KSV cần lưu ý, đối với tội phạm về tình
dục, nhất là đối với người bị hại là trẻ em
thì việc đặt câu hỏi để tìm ra sự thật khách
quan là rất cần thiết, nhưng cũng phải bảo
vệ danh dự, nhân phẩm của người bị hại.
Theo đó, không đặt câu hỏi để hỏi quá sâu,
quá kỹ về việc trẻ em bị xâm hại tình dục vì
như vậy sẽ gợi lại nỗi đau khổ cho các em.
Những mâu thuẫn (nếu có) giữa các
chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và
tại phiên tòa; giữa các lời khai của từng bị
cáo hoặc các bị cáo; giữa lời khai với vật
chứng; giữa lời khai với các kết luận giám
định hoặc các biên bản khám nghiệm hiện
trường Khi có sự mâu thuẫn này, KSV
phải xét hỏi bị cáo, người bị hại, người làm
chứng, người giám định để làm rõ về các
mâu thuẫn đó. KSV chỉ đề nghị HĐXX công
bố lời khai của người được xét hỏi đã khai
trước đó trong giai đoạn điều tra, truy tố
theo đúng quy định tại Điều 308 BLTTHS
năm 2015.
Đối với các chứng cứ, tài liệu, đồ vật
mới xuất hiện tại phiên toà, KSV phải kiểm
tra, xem xét thận trọng để có kết luận chấp
nhận hay bác bỏ. Việc chấp nhận hay bác
bỏ những chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải có
căn cứ. KSV phải hỏi kỹ và kiểm tra kỹ về
nguồn gốc, nội dung chứng cứ, tài liệu, đồ
vật mới để có kết luận chính xác. Trường
hợp cần phải xác minh chứng cứ, tài liệu,
đồ vật mà không thể thực hiện được ngay
tại phiên tòa thì KSV có thể đề nghị HĐXX
tạm ngừng phiên toà. Trường hợp chưa đủ
điều kiện kết luận mà tài liệu mới đó có thể
làm thay đổi nội dung, tính chất vụ án thì
KSV đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra
bổ sung.
Quá trình xét hỏi, nếu HĐXX kết hợp
xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa
đến phiên tòa được, thì KSV cùng HĐXX
31Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
TRẦN CÔNG PHÀN
thực hiện. Thông qua việc xem xét tại chỗ vật
chứng, KSV phải có nhận xét của mình để
lập luận, phân tích, đánh giá chứng cứ trong
phần luận tội và tranh tụng tại phiên toà.
Trong quá trình xét hỏi bị cáo, KSV cần
lắng nghe, theo dõi, đối chiếu với những
câu hỏi, những vấn đề đã được những
người hỏi trước, làm rõ và không mâu
thuẫn với bản cáo trạng. KSV chỉ xét hỏi về
những nội dung chưa được làm rõ hoặc có
mâu thuẫn với bản cáo trạng hoặc những
tình tiết mới xuất hiện tại phiên tòa.
Trong phần luận tội của mình, ngoài
việc phải tuân theo các quy định của
BLTTHS, KSV còn phải đáp ứng yêu cầu
trong các quy chế nghiêp vụ của Ngành
kiểm sát nhân dân. KSV trình bày luận tội
theo dự thảo đã chuẩn bị trước khi tham
gia phiên tòa nhưng phải kịp thời bổ sung,
chỉnh lý luận tội trên cơ sở chứng cứ được
thẩm tra tại phiên tòa. Thông qua phần xét
hỏi, thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, KSV
phải kịp thời bổ sung, chỉnh lý những nội
dung của dự thảo luận tội không còn phù
hợp, thiếu cơ sở chứng cứ, chưa đầy đủ,
chưa đúng với sự thật khách quan, diễn
biến của vụ án, nhằm đảm bảo cho những
lập luận, phân tích, đánh giá, quan điểm
của KSV thể hiện trong bản luận tội có cơ
sở pháp lý, phù hợp với sự thật khách quan
vụ án, bảo đảm có tính thuyết phục cao đối
với bị cáo, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác cũng như sẽ làm
hạn chế phát biểu tranh luận của họ. Một
bản luận tội chất lượng, phân tích đánh giá
sâu sắc, lập luận chặt chẽ có cơ sở pháp lý,
vận dụng pháp luật đúng đắn, đề ra quan
điểm, đường lối xử lý phù hợp với pháp
luật và tình tiết chứng cứ của vụ án, cũng là
cơ sở giúp cho việc tranh luận của KSV đạt
kết quả tốt nhất.
Ngoài các nội dung nêu trên, luận
tội của KSV trong các vụ án xâm hại phụ
nữ, trẻ em còn phải nêu được bài học rút
ra từ vụ án, vấn đề nhận thức, vai trò của
gia đình, nhà trường, xã hội trong công tác
tuyên truyền đấu tranh, phòng ngừa đối
với loại tội này. Qua đó rút ra được những
bài học kinh nghiệm không chỉ cho những
người tham gia phiên tòa mà còn cho tất cả
mọi người trong xã hội.
Khi tranh luận lại với những ý kiến,
quan điểm của bị cáo, người bào chữa,
người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa
khác với luận tội, thậm chí là trái ngược với
luận tội của KSV thì KSV cần phải lý giải,
lập luận để đối đáp trực diện, đến cùng với
các ý kiến, quan điểm đó mà không được
vòng vo, né tránh. Các ý kiến tranh luận
của KSV phải dựa trên những căn cứ pháp
luật, các chứng cứ, tài liệu, đồ vật có trong
hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra, đánh giá
công khai tại phiên toà.
KSV chỉ tranh luận với những quan
điểm, ý kiến khác với luận tội và có liên
quan tới việc giải quyết vụ án. Khi có
những ý kiến, quan điểm không liên quan
tới việc giải quyết vụ án hoặc đã được KSV
tranh luận, làm rõ trước đó thì KSV đề
nghị HĐXX bác bỏ các ý kiến, quan điểm
đó hoặc nêu rõ là ý kiến, quan điểm đó đã
được KSV đối đáp, tranh luận, làm rõ.
Để thực hiện tranh luận tại phiên toà
đạt chất lượng và đáp ứng được những yêu
cầu cải cách tư pháp, đòi hỏi KSV phải nắm
vững và đánh giá chứng cứ vụ án một cách
khách quan, toàn diện, cả chứng cứ buộc
tội và chứng cứ gỡ tội. KSV phải nắm vững
những quy định của BLTTHS để khẳng
định tính có căn cứ, hợp pháp của tài liệu
có trong hồ sơ vụ án, đồng thời chú ý thẩm
tra, xác minh công khai tại phiên toà để có
cơ sở bác bỏ những vi phạm, thiếu sót về
thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra khi
tranh luận với người bào chữa, khẳng định
32
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
bản chất của vụ việc đang được xem xét
đúng quy định của pháp luật.
Trong quá trình tranh luận, KSV phải
lắng nghe, ghi chép đầy đủ ý kiến của bị
cáo, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác. Đây là vấn đề bắt buộc
KSV phải thực hiện, qua đó xác định quan
điểm, ý kiến nào trái với quan điểm của
KSV để tập trung tranh luận. Nếu vụ án có
nhiều người cùng bào chữa cho một bị cáo
thì KSV có thể nghe từng người để tham
gia đối đáp hoặc tổng hợp ý kiến chung của
tất cả những người bào chữa để đối đáp.
Chú ý những mâu thuẫn trong tranh luận
với người bào chữa và giữa những người
bào chữa với nhau, giữa người bào chữa
với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự để làm cơ sở phản
bác lại những ý kiến của họ. KSV phải xác
định những vấn đề mà các bên đưa ra phải
là những nội dung có liên quan đến vụ án
và phải có trong hồ sơ án; trường hợp tài
liệu mới phát sinh thì cũng phải là tài liệu
có liên quan đến vụ án và đã được kiểm tra
nguồn gốc, tính hợp pháp tại phiên tòa để
có phương án lập luận, đối đáp.
Trong khi đối đáp, tranh luận, KSV
phải có thái độ bình tĩnh, tự tin, không
giận dữ, nóng nảy, lời lẽ đưa ra phải cân
nhắc hết sức thận trọng để bảo đảm tính
chính xác, tôn trọng bị cáo, người bào chữa,
người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Bên cạnh đó, KSV phải thực sự bản lĩnh,
sắc bén để tranh luận, bảo vệ quan điểm
truy tố, đồng thời cũng phải cầu thị, tôn
trọng kết quả thẩm vấn công khai tại phiên
tòa để đề xuất các quyết định xử lý đúng
đắn, phù hợp. Khi quyết định xử lý các vấn
đề trong vụ án, KSV phải và chỉ dựa trên cơ
sở chứng cứ khách quan và quy định của
pháp luật, không bị chi phối bởi bất kỳ tác
động chủ quan nào.
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý,
chỉ đạo, điều hành, công tác hướng dẫn, trả
lời thỉnh thị trong ngành Kiểm sát nhân
dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới
Viện trưởng VKS các cấp cần có kế
hoạch bố trí KSV cho phù hợp với nhiệm
vụ thực hành quyền công tố, tranh tụng
tại phiên tòa; lựa chọn, phân công KSV có
năng lực, trình độ, kinh nghiệm, bản lĩnh
nghề nghiệp vững vàng giải quyết các vụ
án về tội xâm phạm sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em có tính
chất phức tạp, được dư luận xã hội quan
tâm. Trong trường hợp vụ án có đông bị
cáo, có nhiều luật sư tham gia, Viện trưởng
VKS phải xem xét, quyết định phân công
số lượng KSV đủ để thực hiện tốt nhiệm
vụ thực hành quyền công tố, tranh tụng
tại phiên tòa. Các nhiệm vụ, quyền hạn
của từng KSV này phải được phân công cụ
thể, rõ ràng, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ,
nhịp nhàng, có hiệu quả tại phiên tòa.
Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa, Lãnh đạo VKS phải tăng cường
công tác quản lý, chỉ đạo điều hành các hoạt
động tố tụng hình sự trong suốt quá trình
giải quyết vụ án về các tội xâm phạm sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ,
trẻ em. Tập trung chỉ đạo làm tốt công tác
chuẩn bị xét xử như nghiên cứu kỹ hồ sơ
vụ án, chuẩn bị đề cương tham gia xét hỏi,
dự kiến tình huống tranh tụng, dự thảo
luận tội trên cơ sở nghiên cứu, nắm vững
nội dung của vụ án, hệ thống chứng cứ
buộc tội, gỡ tội và các nội dung khác có liên
quan đến việc giải quyết vụ án. Thực hiện
tốt việc nghe báo cáo án, chỉ đạo về đường
lối giải quyết vụ án, chỉ đạo cụ thể các vấn
đề nghiệp vụ mà KSV cần lưu ý khi tham
gia phiên toà. Tại phiên tòa phải yêu cầu
KSV quán triệt quan điểm chỉ đạo của Lãnh
33Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
TRẦN CÔNG PHÀN
đạo Viện trong việc giải quyết vụ án. Nếu
có phát sinh tình tiết mới tại phiên tòa làm
thay đổi quan điểm trước đó về giải quyết
vụ án thì phải kịp thời có phương án chỉ
đạo giải quyết.
Đối với các đơn vị nghiệp vụ thuộc
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, phải chủ
động quản lý, theo dõi tình hình công tác
của các VKS cấp dưới, nắm bắt các vấn đề
chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình giải
quyết vụ án về các tội xâm phạm sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em để
kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm, tổ chức
tập huấn và ban hành văn bản hướng dẫn
nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra, kiểm sát xét xử, tranh tụng tại
phiên tòa, nhất là đường lối giải quyết các
vụ án khó, phức tạp, được dư luận quan
tâm do VKS cấp dưới hoặc liên ngành tố
tụng cấp dưới thỉnh thị; kịp thời đề xuất các
biện pháp xử lý, bảo đảm áp dụng thống
nhất pháp luật, đấu tranh có hiệu quả đối
với loại tội phạm này.
Thứ ba, tăng cường công tác tập huấn,
đào tạo, bảo đảm cho KSV nắm vững đầy
đủ, nhận thức đúng đắn các quy định của
pháp luật và các yêu cầu chuyên môn,
nghiệp vụ của ngành Kiểm sát nhân dân
VKS các cấp cần thường xuyên tổ
chức quán triệt, tập huấn chuyên sâu cho
cán bộ, KSV về những nội dung mới của
BLHS (nhất là các tội phạm xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
con người), BLTTHS và các quy định của
pháp luật có liên quan. Mỗi cán bộ, KSV
phải có sự chuyển biến, đổi mới nhận thức,
chủ động nghiên cứu, nắm vững các quy
định mới của pháp luật, nâng cao kiến
thức chuyên môn, nghiệp vụ, tích lũy kinh
nghiệm thực tiễn. Đây là điều kiện tiên
quyết không thể thiếu đối với KSV thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố,
tranh tụng tại phiên tòa. Thực tế cho thấy,
KSV nào có trình độ chuyên môn, nắm
vững pháp luật, nhất là pháp luật về hình
sự, tố tụng tụng hình sự, nắm bắt các kiến
thức chuyên ngành, kiến thức xã hội thì
rất chủ động trong việc tranh luận và việc
tranh luận có căn cứ thuyết phục đối với
bị cáo, người bào chữa, những người tham
gia tố tụng khác, cũng như thuyết phục và
được HĐXX chấp nhận.
Ngoài ra, cần phải có những đột phá,
đổi mới trong các công tác đào tạo kỹ năng
như việc tổ chức tọa đàm, trao đổi, đối
thoại giữa KSV với luật sư về kỹ năng tranh
tụng, để từ đó KSV nhìn nhận lại những
hạn chế, cũng như học hỏi thêm các kinh
nghiệm của các luật sư trong quá trình
tranh tụng tại phiên tòa. Tổ chức các phiên
tòa rút kinh nghiệm, nhất là phiên tòa rút
kinh nghiệm trực tuyến trên phạm vi toàn
quốc để đội ngũ KSV toàn ngành Kiểm sát
nhân dân có điều kiện học hỏi kinh nghiệm
lẫn nhau. Bên cạnh đó, Lãnh đạo đơn vị,
Lãnh đạo VKS cần có kế hoạch tự đào tạo,
thông qua việc cử KSV có năng lực, kinh
nghiệm hướng dẫn, kèm cặp KSV ngạch
thấp hơn hoặc mới được bổ nhiệm nhằm
từng bước nâng cao trình độ, năng lực của
đội ngũ KSV.
Thứ tư, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ
máy, tăng cường cán bộ, KSV có đủ năng
lực để thực hiện tốt công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát xét xử hình sự
Cần đổi mới và kiện toàn bộ máy các
đơn vị làm công tác thực hành quyền công
tố, tranh tụng tại phiên tòa theo hướng
chuyên sâu. Khẩn trương, rà soát đội ngũ
cán bộ, công chức, cử các đối tượng đủ tiêu
chuẩn, điều kiện dự thi KSV các ngạch,
không hạn chế số lượng. Đổi mới phương
pháp thi tuyển KSV, nhất là khâu ra đề thi
nhằm bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng,
34
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI...
Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2020
chọn được người đủ phẩm chất, năng lực,
trình độ để bổ nhiệm vào các ngạch KSV
(KSV sơ cấp, KSV trung cấp, KSV cao cấp).
Thông qua việc thi tuyển KSV, tạo phong
trào học hỏi, nghiên cứu, tạo động lực phấn
đấu trong đội ngũ cán bộ, KSV; đánh giá,
phân loại cán bộ, KSV để có biện pháp đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng thích hợp; tăng
cường cán bộ, KSV có kinh nghiệm cho bộ
phận làm công tác thực hành quyền công
tố, kiểm sát xét xử hình sự; quan tâm xây
dựng đội ngũ chuyên gia chuyên sâu trong
từng loại án xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người
nói chung, xâm phạm sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em nói riêng.
Ngoài những giải pháp nêu trên,
ngành Kiểm sát nhân dân cần tiếp tục triển
khai nhiều giải pháp khác để nâng cao chất
lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa
như cơ chế biệt phái KSV ở VKS cấp trên
xuống cấp dưới làm nhiệm vụ thực hành
công tố và ngược lại đối với các vụ án về
các tội xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của phụ nữ, trẻ em mà VKS cấp trên
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra,
sau đó phân công cho VKS cấp dưới thực
hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ
thẩm tại phiên tòa.
Thứ năm, xây dựng tốt mối quan hệ
phối hợp giữa VKS với các cơ quan tiến
hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức liên
quan
VKS các cấp phải gắn chặt và chịu sự
chỉ đạo của cấp ủy địa phương để thông
qua chức năng thực hành quyền công
tố, tranh tụng tại phiên tòa, thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Cần xây dựng tốt mối quan hệ, bảo
đảm phối hợp chặt chẽ giữa VKS với các
cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan,
tổ chức liên quan cũng như giữa các đơn
vị ở các cấp VKS. Đây không chỉ là giải
pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố, tranh tụng tại phiên tòa mà còn là
nguyên tắc hoạt động của VKS, bởi khi có
cơ chế phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng trong
các hoạt động tố tụng sẽ nâng cao hiệu quả
công tác. Việc phối hợp phải thiết thực, cụ
thể, không trái với các quy định của pháp
luật, bảo đảm tính độc lập, thực hiện đúng
đắn chức năng tố tụng. Đặc biệt, cần tiếp tục
phối hợp với Tòa án các cấp để tổ chức tốt
các phiên tòa rút kinh nghiệm, thông qua
truyền hình trực tuyến kết nối từ phòng xử
án đến VKS các cấp, phục vụ cho công tác
đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ, KSV
về thực hành quyền công tố, nhất là kỹ
năng tranh tụng trong các phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự về các tội xâm phạm
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ,
trẻ em; chú trọng việc phân tích, đánh giá
hoạt động tranh tụng của KSV và đề ra giải
pháp nâng cao hơn nữa chất lượng tranh
tụng của KSV tại phiên tòa.
Thứ sáu, tăng cường bảo đảm các
điều kiện, phương tiện, trang thiết bị phục
vụ cho công tác thực hành quyền công tố,
tranh tụng tại phiên tòa
Trong những năm gần đây, cơ chế chính
sách, điều kiện về phương tiện, trang thiết
bị, kinh phí bảo đảm hoạt động cho ngành
Kiểm sát đã từng bước được nâng lên so
với trước nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu
cầu nên đã ảnh hưởng nhiều tới chất lượng,
hiệu quả hoạt động. Trong khi đó, BLTTHS
năm 2015 đặt ra nhiều yêu cầu, nhiệm vụ
mới, vai trò và trách nhiệm của VKS, KSV
ngày càng cao, đòi hỏi các điều kiện bảo
đảm, kinh phí, trang thiết bị, phương tiện
làm việc phải được trang bị đầy đủ để phục
vụ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ.
Theo đó, phải bảo đảm cho VKS đủ phòng
làm việc và các trang bị kỹ thuật (phương
35Khoa học Kiểm sátSố 01 - 2020
TRẦN CÔNG PHÀN
tiện giao thông, liên lạc, máy vi tính, máy
scan, USB, đĩa CD, VCD và các thiết bị kỹ
thuật phục vụ công tác xét xử...), trang bị
đủ các văn bản pháp luật hình sự, pháp
luật dân sự và các văn bản pháp luật có liên
quan cho VKS các cấp. Tập trung kinh phí
và xác định trọng điểm đầu tư xây dựng
mới hoặc sửa chữa, cải tạo, mở rộng trụ sở
làm việc cho các VKS cấp huyện. Do vậy,
VKS các cấp cần phải tự cân đối để sử dụng
có hiệu quả nguồn kinh phí được cấp; đồng
thời tiếp tục nghiên cứu để đề xuất với các
cơ quan có thẩm quyền quan tâm, đáp ứng
tốt hơn những nhu cầu thiết yếu về trụ sở
làm việc, kinh phí, trang thiết bị, phương
tiện làm việc, bảo đảm cho hoạt động thực
hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên
tòa đạt chất lượng, hiệu quả cao hơn. Bên
cạnh đó, cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất
đổi mới, cải cách chính sách tiền lương và
các chế độ đãi ngộ khác thoả đáng, phù hợp
với đặc thù nghề nghiệp của VKS. Kịp thời
khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân có
thành tích xuất sắc trong công tác và tuyên
dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến
trong công tác này.
Kết luận
Thực hành quyền công tố, tranh tụng
tại phiên tòa nói chung, tranh tụng tại
phiên tòa xét xử vụ án về các tội xâm phạm
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ,
trẻ em nói riêng là một trong những lĩnh
vực công tác thực hiện chức năng quan
trọng của ngành Kiểm sát nhân dân. Đây
cũng là lĩnh vực công tác khó khăn và rất
nhạy cảm, gắn với trách nhiệm của VKS
trong việc bảo đảm chống làm oan người
vô tội, chống bỏ lọt tội phạm, người phạm
tội; bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Trong những năm gần đây, quán triệt
và thực hiện các chủ trương cải cách tư
pháp của Đảng, VKS có nhiều biện pháp
đổi mới, nâng cao vai trò, trách nhiệm của
VKS, KSV trong công tác này nên hiệu quả,
chất lượng công tác ngày được nâng cao.
Tuy nhiên, trước tình hình tội phạm xâm
phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
phụ nữ, trẻ em ngày càng gia tăng, với tính
chất ngày càng phức tạp, thủ đoạn ngày
càng tinh vi, đòi hỏi VKS các cấp cần chú
trọng củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy;
bố trí, sắp xếp cán bộ, KSV cho phù hợp,
đảm bảo đủ cả về số lượng và chất lượng
để thực hiện tốt và có hiệu quả nhiệm vụ
được giao. KSV chủ động nghiên cứu kỹ hồ
sơ, chuẩn bị tốt đề cương xét hỏi, dự kiến
các nội dung tranh tụng; thực hiện việc xét
hỏi, luận tội, tranh luận tích cực và có trách
nhiệm; phát biểu quan điểm giải quyết vụ
án khách quan, toàn diện, có căn cứ, đúng
pháp luật. Tuy nhiên, để chất lượng tranh
tụng ngày càng được tăng cường, đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp, đòi hỏi KSV phải
nâng cao trách nhiệm pháp lý và phải được
thường xuyên tập huấn, bồi d ưỡng kiến
thức để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và kỹ năng giải quyết các vụ
án về các tội xâm phạm sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em. Bên
cạnh đó, mỗi KSV phải thường xuyên rèn
luyện đạo đức, tự trau dồi kiến thức, tích
lũy kinh nghiệm Ngoài ra, để bảo đảm
cho đội ngũ này yên tâm công tác, không
vi phạm, tiêu cực, cần phải có chế độ tiền
lương, phụ cấp phù hợp, bảo đảm các điều
kiện, phương tiện, trang thiết bị phục vụ
cho công tác để hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao, bảo đảm giải quyết vụ án hình
sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
đề cao quyền con người, quyền công dân
trong tố tụng hình sự, giữ vững trật tự, kỷ
cương pháp luật, khẳng định vị trí, vai trò
của ngành Kiểm sát nhân dân./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_chat_luong_tranh_tung_cua_kiem_sat_vien_tai_phien_t.pdf