Về báo cáo kết quả giám sát, cần đảm
bảo tính khách quan, chính xác, trung thực,
sát thực tế và quan trọng nhất là phải chỉ rõ
những hạn chế, tồn tại cụ thể, những vướng
mắc, khó khăn trong quá trình tổ chức thực
hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp, nêu ra
được những kiến nghị, đề xuất rõ ràng, chính
xác, phù hợp, khả thi gắn với các mốc thời
gian cụ thể để các cơ quan tổ chức thực hiện
được, tránh việc kết luận, kiến nghị chung
chung, gây khó khăn cho việc thực hiện.
- Đối với hoạt động giải trình, Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội cần tăng
cường hoạt động giải trình về những vấn đề
nổi cộm, bức xúc thuộc lĩnh vực phụ trách
nhằm góp phần tăng cường hiệu quả, hiệu
lực thực hiện pháp luật về cơ cấu lại ngành
nông nghiệp; đồng thời giúp giảm tải nhóm
vấn đề đưa ra giám sát và chất vấn tại kỳ
họp Quốc hội cũng như tại phiên họp của Ủy
ban thường vụ Quốc hội. Việc giải trình phải
trọng tâm, trọng điểm, đúng phạm vi, chức
năng của Hội đồng, Ủy ban.
- Đối với các kiến nghị sau giám sát, quá
trình theo dõi, đôn đốc thực hiện kiến nghị
sau giám sát cần được xác định là quá trình
tiếp tục của hoạt động giám sát, coi đây là
nhiệm vụ thường xuyên, liên tục; chưa có kết
quả thực hiện kiến nghị sau giám sát đồng
nghĩa với việc hoạt động giám sát chưa kết
thúc. Đặc biệt, những vấn đề sau giám sát
được kiến nghị nhiều lần nhưng chưa được
giải quyết cần tổ chức giám sát lại để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động giám
sát. Trong trường hợp cần thiết, Quốc hội
ban hành nghị quyết về thực hiện kiến nghị
giám sát. Đây là biện pháp sử dụng vai trò
quyền lực nhà nước để đảm bảo tính nghiêm
minh trong giám sát, buộc các bên liên quan
phải thực hiện
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 272 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát của quốc hội đối với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
ĐỐI VỚI CƠ CẤU LẠI NGÀNH NÔNG NGHIỆP
Tóm tắt:
Bài viết phân tích thực trạng hoạt động giám sát của Quốc
hội trong việc thực hiện pháp luật về cơ cấu lại ngành nông
nghiệp, đồng thời chỉ ra tác động tích cực qua việc giám sát
của Quốc hội đến thúc đẩy quá trình cơ cấu lại ngành nông
nghiệp; tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc
hội liên quan đến việc thực hiện pháp luật về cơ cấu lại ngành
nông nghiệp; qua đó, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát của Quốc hội trong việc thực hiện pháp luật về
cơ cấu lại ngành nông nghiệp.
Nguyễn Minh Sơn*
Trần Vũ Thanh**
* TS. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội.
** ThS. CVC Vụ Kinh tế, VPQH.
Abstract
This article provides analysis of the current status of the
National Assembly's supervisory activities in the enforcement
of the law on the restructure of the agriculture sector and also
provides the positive impacts resulted from the National
Assembly's supervision to accelerate the restructuring process
of agriculture sector; shortcomings and drawbacks in the
supervisory activities of the National Assembly related to the
enforcement of the law on the restructure of the agriculture
sector. Thereby, recommendations are given out to aime at
improving the effectiveness of the National Assembly's
supervision in the enforcement of the law on the restructure
of the agriculture sector.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Giám sát; Quốc hội; cơ cấu lại
ngành nông nghiệp.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 11/10/2019
Biên tập : 16/10/2019
Duyệt bài : 16/10/2019
Article Infomation:
Keywords: Supervision; National Assembly;
agriculture restructure
Article History:
Received : 11 Oct. 2019
Edited : 16 Oct. 2019
Approved : 16 Oct. 2019
1. Thực trạng hoạt động giám sát của
Quốc hội trong việc thực hiện pháp luật
về cơ cấu lại ngành nông nghiệp
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong
việc thực hiện pháp luật về cơ cấu lại ngành
nông nghiệp được thực hiện thông qua hoạt
động giám sát tối cao của Quốc hội, giám
sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, của Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,
của Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu
Quốc hội, cụ thể như sau:
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 21(397) T11/2019
1.1. Hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội
1.1.1. Giám sát theo chuyên đề
Thời gian qua, Quốc hội đã tăng cường
các hoạt động giám sát chuyên đề liên quan
đến cơ cấu lại ngành nông nghiệp, có thể kể
đến các chuyên đề giám sát như: (1) Chuyên
đề giám sát về “Việc thực hiện chính sách,
pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp,
nông dân, nông thôn” (2012); (2) Chuyên
đề giám sát về “Việc thực hiện chính sách,
pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân đối với các quyết định hành
chính về đất đai” (2012); (3) Chuyên đề
giám sát về “Việc thực hiện chính sách,
pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai tại
các nông, lâm trường quốc doanh giai đoạn
2004 - 2014” (2015); (4) Chuyên đề giám
sát về “Việc thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn
mới (giai đoạn 2010 - 2015) gắn với tái cơ
cấu ngành nông nghiệp” (2016); (5) Chuyên
đề giám sát về “Việc thực hiện chính sách,
pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn
2011 - 2016” (2017).
Qua hoạt động giám sát chuyên đề, Quốc
hội đã có những đánh giá sâu sắc tình hình
thực hiện chính sách, pháp luật, những tồn
tại, hạn chế và kịp thời đề ra những biện
pháp hữu hiệu để khắc phục những tồn tại,
hạn chế, nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách, pháp luật về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn, góp phần quan trọng trong thực
hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp.
1.1.2. Hoạt động chất vấn
Bên cạnh việc thực hiện các chuyên đề
giám sát tối cao, Quốc hội đã thực hiện chất
vấn tại các kỳ họp Quốc hội và đã xem xét
việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội,
nghị quyết, kết luận của Ủy ban thường vụ
Quốc hội về hoạt động giám sát chuyên đề,
hoạt động chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa
XIII đến năm 2015. Liên quan đến cơ cấu
lại ngành nông nghiệp, các ĐBQH đã chất
vấn Thường trực Chính phủ, Bộ trưởng Bộ
NN&PTNT về nhóm vấn đề liên quan đến
đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp toàn diện,
cả trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng,
khai thác thủy, hải sản, lâm nghiệp, bảo vệ
rừng và trồng rừng; thực hiện liên kết giữa
các ngành trong sản xuất nông nghiệp và với
các ngành khác/tiến hành các giải pháp để
tiếp tục thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát
triển toàn diện, bền vững.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Quốc hội đã
xem xét việc thực hiện các nghị quyết: Nghị
quyết số 21/2011/QH13 ngày 26/11/2011
của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn
tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII, Nghị
quyết số 52/2013/QH13 ngày 21/6/2013
của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn
tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, Nghị
quyết số 69/2013/QH13 ngày 29/11/2013
của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn
tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, Nghị
quyết số 26/2012/QH13 ngày 21/6/2012 của
Quốc hội về việc tiếp tục nâng cao hiệu lực,
hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật
đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân,
nông thôn.
Ngoài ra, Quốc hội giám sát việc thực
hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp kết hợp
với thẩm tra đánh giá kết quả thực hiện Nghị
quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm. Trong
quá trình giám sát việc thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng
năm, Quốc hội luôn dành sự quan tâm đặc
biệt đối với vấn đề cơ cấu lại ngành nông
nghiệp. Các báo cáo thẩm tra đánh giá kết
quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
và hằng năm đều cung cấp thông tin về tình
hình phát triển của khu vực nông nghiệp,
trong đó bao gồm cơ cấu lại ngành nông
nghiệp. Đây cũng là cơ sở để xây dựng nội
dung Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội cho năm tiếp theo.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 21(397) T11/2019
1.1.3. Hoạt động giám sát của Ủy ban
thường vụ Quốc hội
Thực hiện quy định của Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015,
hằng năm Ủy ban thường vụ Quốc hội đều
triển khai các hoạt động giám sát; qua đó,
phát hiện các vấn đề cần khắc phục trong hệ
thống chính sách, pháp luật. Việc thực hiện
giám sát các nội dung liên quan đến cơ cấu
lại ngành nông nghiệp của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội được thực hiện chủ yếu thông
qua các chuyên đề giám sát của Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài, một số chuyên đề giám sát
của Ủy ban thường vụ Quốc hội có nội dung
liên quan có thể kể đến như sau: (1) Chuyên
đề giám sát “Việc thực hiện chính sách,
pháp luật về đất ở, đất sản xuất cho đồng
bào dân tộc thiểu số” (2012); (2) Chuyên đề
giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp
luật đối với cá nhân, tổ chức khai thác, nuôi
trồng, chế biến hải sản trong phát triển kinh
tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an
ninh” (2017).
1.1.4. Hoạt động giám sát của Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội được giao chủ trì thực hiện các chuyên
đề giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội. Bên cạnh đó, thành viên của các
đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội và
Ủy ban thường vụ Quốc hội đều có các đồng
chí Thường trực Hội đồng Dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội tham gia.
Bên cạnh việc tham gia chương trình hoạt
động giám sát hằng năm của Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc,
các Ủy ban của Quốc hội cũng chủ động tiến
hành các hoạt động giám sát nhằm thu thập
thông tin nhằm tham mưu, phục vụ công tác
lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề
quan trọng của Quốc hội.
1.1.5. Hoạt động giám sát của Đoàn
ĐBQH và ĐBQH
Liên quan đến cơ cấu lại ngành nông
nghiệp, các Đoàn ĐBQH, ĐBQH tại các địa
phương đã phối hợp với các Đoàn giám sát
của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
triển khai các chuyên đề giám sát hằng năm.
Đồng thời, Đoàn ĐBQH các tỉnh, thành phố
trực thuộc TW cũng tổ chức giám sát tại địa
phương theo các chuyên đề giám sát của
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, xây
dựng báo cáo kết quả giám sát theo đề cương
và gửi đến Đoàn giám sát để tổng hợp, xây
dựng báo cáo kết quả giám sát chung.
Một số Đoàn ĐBQH đã tổ chức giám sát
các nội dung liên quan đến lĩnh vực nông
nghiệp như: Đoàn ĐBQH tỉnh An Giang
phối hợp với Thường trực HĐND tỉnh thành
lập Đoàn giám sát “Việc triển khai Luật Hợp
tác xã năm 2012 và thực hiện chính sách,
pháp luật về hợp tác xã nông nghiệp” trên
địa bàn tỉnh (năm 2015); Đoàn ĐBQH tỉnh
Phú Yên tiến hành giám sát “Việc xây dựng
hạ tầng giao thông nông thôn theo chương
trình MTQG về xây dựng nông thôn mới
(NTM) giai đoạn 2010-2020” trên địa bàn
tỉnh (năm 2015); Đoàn ĐBQH tỉnh Sóc
Trăng tổ chức giám sát “Việc sử dụng vốn do
Quốc hội phân bổ cho thực hiện các Chương
trình MTQG trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng,
giai đoạn 2011 - 2015”, trong đó có Chương
trình MTQG xây dựng NTM (năm 2015);
Đoàn ĐBQH tỉnh Hải Dương giám sát việc
đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên
địa bàn tỉnh (năm 2016), giám sát tình hình
xây dựng NTM tại các đơn vị cấp huyện
phấn đấu thành huyện NTM từ năm 2016-
2020 (năm 2017); Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng
Tháp giám sát tình trạng gây ô nhiễm môi
trường của một số công ty chăn nuôi, chế
biến thủy, hải sản trên địa bàn (năm 2017);
Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên giám sát tình
hình quản lý, sử dụng vốn đầu tư công; nợ
đọng xây dựng cơ bản nói chung và trong
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 21(397) T11/2019
xây dựng NTM nói riêng, đến hết năm 2016
(năm 2017)
Các ĐBQH đã tích cực thể hiện vai trò
của người đại biểu nhân dân trong việc tham
gia các hoạt động giám sát của Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các Đoàn
ĐBQH.
Đồng thời, các đại biểu cũng đã tham gia
chất vấn Thường trực Chính phủ, các Bộ
trưởng về những vấn đề liên quan đến cơ cấu
lại ngành nông nghiệp. Từ năm 2013 đến hết
năm 2016, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đã 4
lần trả lời chất vấn trước Quốc hội.
1.2. Tác động giám sát của Quốc hội
đến việc thúc đẩy quá trình cơ cấu lại
ngành nông nghiệp
Thực hiện các nghị quyết chuyên đề giám
sát và các kiến nghị của Quốc hội, Chính
phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã quan
tâm, chỉ đạo sát sao quá trình cơ cấu lại
ngành nông nghiệp. Hoạt động giám sát của
Quốc hội đã có những tác động tích cực, góp
phần đẩy mạnh việc thực hiện Đề án cơ cấu
lại ngành nông nghiệp. Cụ thể như sau:
(1) Hoạt động giám sát của Quốc hội đã
tạo được sự chuyển biến trong nhận thức
và thống nhất quan điểm của các cấp, các
ngành từ trung ương đến địa phương về sự
cần thiết phải cơ cấu lại ngành nông nghiệp
nhằm khắc phục những yếu kém nội tại,
nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng.
(2) Nhiều cơ chế, chính sách đã được
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các
Bộ, ngành, địa phương ban hành, từng bước
hoàn thiện khung pháp lý tạo thuận lợi và hỗ
trợ ngành nông nghiệp thực hiện cơ cấu lại.
(3) Hoạt động giám sát của Quốc hội góp
phần thúc đẩy thực hiện mục tiêu của Đề
án là phát triển nông nghiệp, nông thôn bền
vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường,
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người
tiêu dùng trong nước và đủ sức cạnh tranh
trên thị trường thế giới, nâng cao thu nhập
và cải thiện đời sống của người nông dân.
(4) Các quy hoạch ngành nông nghiệp đã
được tập trung rà soát, điều chỉnh, đồng thời
nghiên cứu xây dựng mới các quy hoạch
phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp.
(5) Cơ cấu kinh tế ngành đã có sự chuyển
dịch theo hướng hiệu quả hơn.
(6) Thị trường tiêu thụ sản phẩm được
mở rộng, xuất khẩu tăng nhanh.
(7) Các loại hình tổ chức sản xuất được
đổi mới phù hợp và hiệu quả hơn.
(8) KHCN nhất là công nghệ cao được
quan tâm chuyển giao và ứng dụng ngày
càng nhiều.
(9) Hoạt động giám sát của Quốc hội đã
góp phần cơ cấu lại đầu tư công, phát triển
kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
(10) Công tác cải cách hành chính, cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh và hỗ
trợ phát triển doanh nghiệp được triển khai
đồng bộ.
(11) Công tác quản lý nhà nước về an
toàn thực phẩm được tăng cường, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả.
(12) Hoạt động giám sát của Quốc hội
thúc đẩy việc thực hiện Chương trình MTQG
xây dựng NTM.
1.3. Những hạn chế, bất cập trong hoạt
động giám sát của Quốc hội liên quan
đến việc thực hiện pháp luật về cơ cấu lại
ngành nông nghiệp
Có thể nói, hoạt động giám sát của Quốc
hội liên quan đến việc thực hiện pháp luật về
cơ cấu lại ngành nông nghiệp đã góp phần
nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm
của các cơ quan quản lý nhà nước; đẩy mạnh
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về cơ
cấu lại ngành nông nghiệp trong cán bộ,
nhân dân; kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy
định pháp luật về nông nghiệp còn bất cập.
Tuy nhiên, công tác giám sát của Quốc hội
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 21(397) T11/2019
trong lĩnh vực này thời gian qua còn những
hạn chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, về nội dung giám sát, các giám
sát chuyên sâu về cơ cấu lại ngành nông
nghiệp chưa nhiều, trong khi đây là lĩnh vực
có tác động lớn đến đời sống người dân, nhất
là bộ phận dân cư nông thôn. Trên thực tế,
việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan đến lĩnh vực cơ cấu lại ngành nông
nghiệp chưa được triển khai thường xuyên
nên chất lượng nhiều văn bản được ban hành
còn hạn chế; nhiều quy định được ban hành
còn chậm, còn mâu thuẫn, chồng chéo, khó
thực hiện.
Thứ hai, về phương thức giám sát còn
nhiều bất cập, có thể kể đến như sau:
- Việc giám sát vẫn còn dựa nhiều vào
báo cáo của cơ quan chịu sự giám sát, thời
gian đi thực tế và trao đổi với các cơ quan
chịu sự giám sát còn ít, phần nào ảnh hưởng
đến tính đầy đủ, toàn diện của các nhận định,
đánh giá trong quá trình giám sát.
- Việc tổ chức triển khai thực hiện hoạt
động giám sát chuyên đề có lúc còn gặp khó
khăn, bất cập nhất định. Thời gian làm việc
với một số Bộ, ngành, địa phương thay đổi
so với kế hoạch; việc tham gia của các thành
viên trong Đoàn có lúc còn chưa đầy đủ;
việc tổ chức các cuộc hội thảo liên quan đến
chuyên đề chưa thực sự hiệu quả; việc lựa
chọn các cơ quan để làm việc ở một số nơi
chưa đạt yêu cầu đề ra; việc gửi báo cáo của
các cơ quan chịu sự giám sát, việc cung cấp
thông tin của các cơ quan thanh tra, kiểm
tra, kiểm toán còn chậm; việc xác định trách
nhiệm cá nhân đối với những mặt hạn chế
còn chưa rõ, một số báo cáo còn chưa đầy
đủ, thiếu số liệu minh họa, do đó thông tin
cung cấp cho ĐBQH không đảm bảo yêu
cầu chất lượng.
1 Khoản 1 Điều 52 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND quy định: “Đoàn giám sát do Trưởng đoàn hoặc
Phó Trưởng Đoàn ĐBQH làm Trưởng đoàn và có ít nhất ba ĐBQH là thành viên Đoàn ĐBQH tham gia Đoàn giám
sát”.
- Hoạt động chất vấn bị giới hạn do căn
cứ vào chương trình kỳ họp, ý kiến, kiến
nghị của cử tri, vấn đề xã hội quan tâm và
phiếu chất vấn của ĐBQH, Ủy ban thường
vụ Quốc hội trình Quốc hội quyết định nhóm
vấn đề chất vấn và người bị chất vấn. Do đó,
kể từ 1/7/2016 đến nay lĩnh vực NN&PTNT
mới bị chất vấn tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội
khóa XIV.
- Hoạt động giám sát của Hội đồng Dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội đối với việc
thực hiện pháp luật về cơ cấu lại ngành nông
nghiệp còn hạn chế. Một số Ủy ban được
giao triển khai chuyên đề giám sát của Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nên không
có điều kiện để triển khai các chuyên đề của
Ủy ban. Bên cạnh đó, kết quả giám sát của
các cơ quan này mặc dù đã phát hiện, chỉ ra
được một số bất cập, hạn chế trong thực hiện
pháp luật về cơ cấu lại ngành nông nghiệp
và đề xuất kiến nghị với Chính phủ, các Bộ,
ngành, địa phương, tuy nhiên tính hiệu lực,
hiệu quả chưa cao.
- Sự tham gia của các ĐBQH ở TW, các
ĐBQH kiêm nhiệm trong hoạt động giám
sát của Đoàn ĐBQH các địa phương còn hạn
chế; quy định về việc thành lập Đoàn giám
sát của Đoàn ĐBQH1 gây khó khăn cho một
số Đoàn vì số lượng ĐBQH trong một Đoàn
không nhiều; sự phối hợp hoạt động giám
sát giữa HĐND và Đoàn ĐBQH vẫn có sự
chồng chéo.
- Hoạt động giải trình chưa được thực hiện
chưa nhiều, chưa cân đối với các hoạt động
khác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và
những vấn đề nổi lên trong quá trình cơ cấu lại
ngành nông nghiệp.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 21(397) T11/2019
- Công tác theo dõi, đôn đốc việc thực
hiện kiến nghị sau giám sát chưa được chú
trọng thực hiện.
Thứ ba, việc thành lập Đoàn giám sát còn
gặp một số khó khăn do thiếu chuyên gia
trong lĩnh vực giám sát, cơ cấu ĐBQH trong
Đoàn giám sát chưa bao quát hết các khía
cạnh của quá trình cơ cấu lại ngành nông
nghiệp; việc tham gia hoạt động của Đoàn
giám sát của thành viên Hội đồng Dân tộc và
các Ủy ban có thời điểm còn chưa đầy đủ do
đa số ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
giám sát của Quốc hội trong việc thực
hiện pháp luật về cơ cấu lại ngành nông
nghiệp
2.1. Về hoàn thiện quy định pháp luật đối
với hoạt động giám sát của Quốc hội
- Thực hiện sơ kết việc thi hành Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội và HĐND năm
2015, tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để thực
hiện tốt chức năng giám sát của Quốc hội.
- Hoàn thiện cơ chế theo dõi, đôn đốc, xử
lý trách nhiệm của các đối tượng chịu giám
sát; quy định hình thức phù hợp để xem xét
trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức
khi không thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các
nội dung trong các nghị quyết giám sát, các
kiến nghị giám sát chuyên đề để đảm bảo
tính nghiêm minh trong hoạt động giám sát
của Quốc hội.
- Từng bước hoàn thiện quy định về chế
độ, kinh phí cho việc thuê khoán chuyên gia,
hỗ trợ tìm kiếm thông tin cho ĐBQH trong
hoạt động giám sát.
- Quy định chi tiết hơn về hoạt động của
Ủy ban lâm thời do Ủy ban thường vụ Quốc
hội trình Quốc hội quyết định thành lập để
điều tra về một vấn đề nhất định. Cần xác
định rõ việc thu thập chứng cứ của Ủy ban
lâm thời được tiến hành theo thủ tục tố tụng
nào; các toà án và chính quyền địa phương
có trách nhiệm phải giúp đỡ về mặt pháp lý
và chuyên môn đối với Ủy ban hay không;
các phiên họp của Ủy ban điều tra diễn ra
công khai hay họp kín; Ủy ban lâm thời có
quyền triệu tập các nhân chứng như Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch
Quốc hội hay những người được Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn hay không và sự có mặt
nhân chứng có bắt buộc không
2.2. Kiến nghị cụ thể đối với hoạt động
giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH
- Cần tăng cường hoạt động giám sát của
Quốc hội đối với việc thực hiện pháp luật về
cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đặc biệt cần
tập trung vào hai hình thức giám sát là giám
sát theo chuyên đề và giám sát thông qua
chất vấn.
- Tăng cường sự gắn kết giữa hoạt động
giám sát và hoạt động lập pháp, hoạch định
chính sách về cơ cấu lại ngành nông nghiệp
của Quốc hội. Hoạt động giám sát của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội cần xác định
nhằm cung cấp thông tin thực tiễn để hoàn
thiện chính sách, pháp luật, do đó, các kiến
nghị, đề xuất sau giám sát cần được nghiên
cứu nâng lên thành các chính sách để Quốc
hội tiến hành xem xét, có giải pháp cụ thể.
Trong điều kiện Quốc hội hoạt động không
thường xuyên, đòi hỏi phải có sự phối hợp
chặt chẽ giữa Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội trong việc yêu cầu các Bộ,
ngành giải trình về các chính sách trong các
dự án luật, giải trình về việc thực hiện các
nhiệm vụ, mục tiêu Quốc hội đã đề ra trong
lĩnh vực nông nghiệp.
- Tăng cường hoạt động giám sát của Hội
đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
đối với việc thực hiện pháp luật về cơ cấu
lại ngành nông nghiệp. Hội đồng Dân tộc và
mỗi Ủy ban của Quốc hội được phân công
phụ trách một mảng công việc chuyên môn
khác nhau, đều có liên quan nhất định tới
quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp. Do
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 21(397) T11/2019
đó, việc Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban
của Quốc hội tăng cường giám sát cấp Hội
đồng/Ủy ban đối với cơ cấu lại ngành nông
nghiệp sẽ bảo đảm tính chuyên môn sâu,
cũng như tập hợp được đa góc độ về bức
tranh tổng thể của quá trình cơ cấu lại ngành
nông nghiệp.
- Tăng cuờng hơn nữa sự phối hợp giữa
Đoàn ĐBQH và các cơ quan, đoàn thể ở
địa phương trong giám sát việc thực hiện
pháp luật về cơ cấu lại ngành nông nghiệp.
Việc phối hợp này sẽ tạo điều kiện cho các
ĐBQH trao đổi thông tin về tình hình chấp
hành pháp luật và triển khai cơ cấu lại ngành
nông nghiệp ở địa phương, cũng như kịp thời
phát hiện nhanh chóng những vướng mắc,
bất cập cần được tháo gỡ, góp phần nâng
cao chất lượng giám sát của Đoàn ĐBQH
và ĐBQH.
- Đa dạng hóa phương thức cũng như
nâng cao chất lượng cung cấp thông tin cho
ĐBQH để thực hiện các nhiệm vụ của người
đại biểu. Thực tế hoạt động cho thấy có hai
nguồn thông tin rất quan trọng trong quá
trình giám sát việc thực hiện pháp luật về
cơ cấu lại ngành nông nghiệp, rất cần được
quan tâm, đó là: (i) Dư luận xã hội nhất là từ
báo chí và các phương tiện thông tin, truyền
thông về vấn đề mà ĐBQH quan tâm; (ii)
Những kiến nghị, khiếu nại của nhân dân,
cử tri nhất là của đối tượng chịu sự tác động
bởi những văn bản về cơ cấu lại ngành nông
nghiệp gửi tới Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
và ĐBQH hoặc thông qua hoạt động tiếp
xúc cử tri.
- Chú trọng vấn đề hậu giám sát; tăng
cường công tác theo dõi, đôn đốc các cơ
quan có trách nhiệm thực hiện các nghị
quyết của Quốc hội về chuyên đề giám sát,
các kiến nghị của Đoàn giám sát đã được
Quốc hội chấp thuận.
- Đối với hoạt động chất vấn và trả lời
chất vấn, tại các phiên chất vấn và trả lời
chất vấn, ĐBQH cần tăng cường tranh luận
đến cùng với các thành viên Chính phủ về
những vấn đề liên quan đến cơ cấu lại ngành
nông nghiệp đã được trả lời nhưng chưa
thỏa đáng; thông tin tranh luận phải chính
xác, đúng phạm vi, trọng tâm chất vấn.
Tại phiên họp của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, sau khi kết thúc phiên chất vấn
và trả lời chất vấn định kỳ, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội cần ra nghị quyết nhằm nâng
cao tính pháp lý của các kết luận, quyết định
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, làm căn
cứ để các cơ quan báo cáo việc thực hiện tại
kỳ họp cuối năm của năm giữa nhiệm kỳ và
năm cuối nhiệm kỳ cùng với việc xem xét
các nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và
giám sát chuyên đề.
Tổng hợp các câu hỏi và trả lời chất vấn
thành các tập tài liệu theo định kỳ nhằm
cung cấp thông tin cho ĐBQH và cử tri, giúp
ĐBQH tránh được tình trạng đặt các câu hỏi
trùng lặp tại các kỳ họp Quốc hội trong một
nhiệm kỳ. Đồng thời, việc này cũng giúp các
ĐBQH, kể cả những đại biểu không đặt câu
hỏi, có thể giám sát các biện pháp đã triển
khai nhằm thực hiện cam kết của các thành
viên Chính phủ trong các phiên chất vấn.
- Đối với hoạt động giám sát chuyên đề
của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
để hạn chế tối đa những khó khăn cho các
cơ quan chịu sự giám sát, các địa phương
cũng như các cơ quan hữu quan trong việc
tham mưu, tổ chức phục vụ, trong thời gian
tới, ngay từ khi lựa chọn chuyên đề giám
sát, cần xem xét phạm vi về thời gian cho
phù hợp; sớm kiện toàn tổ chức, triển khai
công tác chuẩn bị các đoàn giám sát tối cao
của Quốc hội để tránh dồn dập vào cùng một
thời điểm, tránh tạo áp lực đối với các cơ
quan chịu sự giám sát.
Về thành phần đoàn giám sát, căn cứ
nội dung giám sát, cần lựa chọn đại biểu có
chuyên môn sâu, đúng chuyên ngành, lĩnh
vực về nội dung giám sát liên quan đến cơ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 21(397) T11/2019
cấu lại ngành nông nghiệp. Hội đồng Dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội, căn cứ vào
nghị quyết, kế hoạch, nội dung, chương
trình giám sát, ưu tiên và tạo điều kiện để
các thành viên của cơ quan mình trong thành
phần Đoàn giám sát tham gia đầy đủ các
hoạt động của Đoàn. Bên cạnh đó, cần huy
động nguồn lực từ các chuyên gia, nhà khoa
học trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động giám sát.
Về đề cương giám sát, cần lập đúng trọng
tâm và đủ các thông tin phục vụ cho nội
dung giám sát. Việc dự thảo đề cương báo
cáo giám sát cần được xây dựng trên cơ sở
các văn bản quy phạm pháp luật; chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của đối
tượng giám sát, các thông tin phản ánh trên
báo chí, qua tiếp xúc cử tri, tiếp công dân...
Thành lập các tổ công tác đi tiền trạm tại
một số địa phương để thu thập thông tin về
tình hình triển khai cơ cấu lại ngành nông
nghiệp ở địa phương, tổng hợp các vướng
mắc, bất cập để hoàn chỉnh đề cương giám
sát. Việc gửi kế hoạch, đề cương giám sát
cho cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát cần
theo đúng tiến độ, bảo đảm thời gian chuẩn
bị báo cáo.
Về tiến hành giám sát tại các cơ quan, đơn
vị, cần kết hợp chặt chẽ giữa nghe báo cáo
và khảo sát thực tế. Thành viên Đoàn giám
sát phải nắm vững chủ trương của Đảng,
quy định của pháp luật về nội dung giám sát,
nghiên cứu kỹ các báo cáo, kết hợp với xem
xét các hồ sơ cần thiết có liên quan, ý kiến
cần có tính chất vấn, phản biện... đặc biệt,
cần thu thập thêm thông tin tại các buổi khảo
sát thực tế, có xác minh tại chỗ để làm căn
cứ đưa ra các nhận định, đề xuất các kiến
nghị sau giám sát. Trong quá trình giám sát
cần đi sâu, tìm hiểu kỹ tình hình thực hiện
tại cơ sở, yêu cầu đối tượng giám sát cung
cấp thông tin đầy đủ, chi tiết; có thể tổ chức
các đoàn khảo sát để thu thập thông tin sâu
hơn cho báo cáo kết quả giám sát.
Về báo cáo kết quả giám sát, cần đảm
bảo tính khách quan, chính xác, trung thực,
sát thực tế và quan trọng nhất là phải chỉ rõ
những hạn chế, tồn tại cụ thể, những vướng
mắc, khó khăn trong quá trình tổ chức thực
hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp, nêu ra
được những kiến nghị, đề xuất rõ ràng, chính
xác, phù hợp, khả thi gắn với các mốc thời
gian cụ thể để các cơ quan tổ chức thực hiện
được, tránh việc kết luận, kiến nghị chung
chung, gây khó khăn cho việc thực hiện.
- Đối với hoạt động giải trình, Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội cần tăng
cường hoạt động giải trình về những vấn đề
nổi cộm, bức xúc thuộc lĩnh vực phụ trách
nhằm góp phần tăng cường hiệu quả, hiệu
lực thực hiện pháp luật về cơ cấu lại ngành
nông nghiệp; đồng thời giúp giảm tải nhóm
vấn đề đưa ra giám sát và chất vấn tại kỳ
họp Quốc hội cũng như tại phiên họp của Ủy
ban thường vụ Quốc hội. Việc giải trình phải
trọng tâm, trọng điểm, đúng phạm vi, chức
năng của Hội đồng, Ủy ban.
- Đối với các kiến nghị sau giám sát, quá
trình theo dõi, đôn đốc thực hiện kiến nghị
sau giám sát cần được xác định là quá trình
tiếp tục của hoạt động giám sát, coi đây là
nhiệm vụ thường xuyên, liên tục; chưa có kết
quả thực hiện kiến nghị sau giám sát đồng
nghĩa với việc hoạt động giám sát chưa kết
thúc. Đặc biệt, những vấn đề sau giám sát
được kiến nghị nhiều lần nhưng chưa được
giải quyết cần tổ chức giám sát lại để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động giám
sát. Trong trường hợp cần thiết, Quốc hội
ban hành nghị quyết về thực hiện kiến nghị
giám sát. Đây là biện pháp sử dụng vai trò
quyền lực nhà nước để đảm bảo tính nghiêm
minh trong giám sát, buộc các bên liên quan
phải thực hiện
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 21(397) T11/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_hieu_luc_hieu_qua_giam_sat_cua_quoc_hoi_doi_voi_co.pdf