Thứ nhất, tăng cường sự chỉ đạo, lãnh
đạo và kiểm tra hoạt động bồi dưỡng
Đảng đoàn Quốc hội, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội cần tăng cường quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo, bảo đảm hoạt động bồi dưỡng
đúng định hướng, mục đích; phê duyệt
những nội dung, chương trình, phương pháp
mang tính chủ đạo; tăng cường kiểm tra, kịp
thời cho ý kiến những vấn đề phát sinh, hoặc
những thiếu sót, tồn tại cần khắc phục, đặc
biệt là về nội dung, chương trình, phương
thức bồi dưỡng.
Thứ hai, tăng cường sự phối hợp trong
công tác bồi dưỡng
Cần tập trung toàn bộ hoạt động bồi
dưỡng Quốc hội về một đầu mối là Ban
Công tác đại biểu để khắc phục tình trạng
trùng lặp về nội dung, thời gian địa điểm tổ
chức bồi dưỡng của các cơ quan khác nhau
trong Quốc hội. Tăng cường phối hợp với
các cơ quan chuyên môn trong quá trình
nghiên cứu, trao đổi xây dựng chương trình,
nội dung bồi dưỡng gắn với hình thức,
phương pháp bồi dưỡng. Bên cạnh đó, tăng
cường sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức
hữu quan, với đoàn ĐBQH, quan tâm tạo
điều kiện để đại biểu được tham gia các hoạt
động bồi dưỡng; tăng cường hợp tác quốc tế
trong hoạt động bồi dưỡng.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng đại biểu quốc hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI DƯỠNG ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI1
1 Nghiên cứu này là kết quả thuộc phạm vi Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Bồi dưỡng ĐBQH - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” của Viện Nghiên cứu Lập pháp do TS. Trần Tuyết Mai làm Chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Hoạt động bồi dưỡng đại biểu Quốc hội thời gian qua đã góp phần
không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội
nói chung và đại biểu Quốc hội nói riêng. Bên cạnh những kết quả
đạt được, việc bồi dưỡng đại biểu Quốc hội vẫn còn một số bất cập,
khó khăn, cần có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động bồi dưỡng đại biểu Quốc hội Việt Nam trong thời gian tới.
Trần Tuyết Mai*
* TS. Viện Nghiên cứu Lập pháp
Abstract
Capacity buidling for the deputies of National Assembly has so far
provided significant improvements of the quality of the National
Assembly’s performance in general and those of the National
Assembly deputies in particular. Along with the achievements,
capacity buidling for the National Assembly deputies has still faced
with certain abstacles and difficulties which need to be reviewed
for appropriate remendies to improve the effeciency in the capacity
buidling for the deputies of National Assembly in the future.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: bồi dưỡng đại biểu Quốc
hội, bồi dưỡng nghị sĩ, bồi dưỡng kiến
thức, bồi dưỡng kỹ năng
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 22/04/2019
Biên tập : 10/05/2019
Duyệt bài : 17/05/2019
Article Infomation:
Keywords: capacity building for
National Assembly deputies, capacity
building for parliamentarian, capacity
buidling of knowledge, capacity
buidling of skill
Article History:
Received : 22 Apr. 2019
Edited : 10 May 2019
Approved : 17 May 2019
Trong bối cảnh nền dân chủ đang ngày càng mở rộng, hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, Hiến pháp năm
2013 và các văn bản pháp luật liên quan
đến tổ chức, hoạt động của Quốc hội và cá
nhân đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đã đi vào
cuộc sống, đặt ra yêu cầu đối với việc nâng
cao năng lực cho ĐBQH, tạo điều kiện cho
họ có đầy đủ kiến thức và kỹ năng để tham
gia hiệu quả và thực chất hơn nữa vào hoạt
động của Quốc hội, xứng đáng với vai trò
đại diện cho cử tri cả nước. Tuy nhiên, năng
lực, kinh nghiệm hoạt động nghị trường của
mỗi đại biểu, mỗi nhóm ĐBQH luôn không
CHÑNH SAÁCH
43Số 10(386) T5/2019
đồng đều do sự đa dạng trong cơ cấu, thành
phần, kinh nghiệm, độ tuổi, nghề nghiệp...
của các đại biểu. Ngoài ra, mỗi nhiệm kỳ
Quốc hội luôn có một số lượng lớn đại biểu
Quốc hội trúng cử lần đầu nên chưa có nhiều
kinh nghiệm trong hoạt động nghị trường,
cũng như chưa hiểu biết nhiều về các quy
định, các quy trình, thủ tục trong hoạt động
Quốc hội2. Vì vậy, cùng với chủ trương tiếp
tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của Quốc hội, vấn đề nâng cao năng
lực hoạt động của đại biểu cũng được quan
tâm và là giải pháp then chốt nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Công tác
bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng hoạt động của
đại biểu dân cử là một trong những phương
thức hỗ trợ đại biểu tăng cường năng lực và
nâng cao hiệu quả hoạt động.
Cụ thể hóa những chủ trương của
Đảng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, từ năm
2004, hoạt động bồi dưỡng đại biểu dân cử
được tiến hành chuyên biệt thông qua việc
thành lập Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân
cử - hiện là đơn vị cấp vụ thuộc Văn phòng
Quốc hội, trực tiếp giúp việc Ban Công tác
đại biểu3 tổ chức các hoạt động bồi dưỡng
kiến thức, kỹ năng hoạt động đối với đại biểu
dân cử. Qua thực tiễn hoạt động gần 15 năm
của Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử,
công tác bồi dưỡng đại biểu dân cử đã đạt
được những thành tựu đáng ghi nhận nhưng
cũng còn không ít tồn tại, hạn chế cần hoàn
thiện. Bên cạnh đó, quy định pháp luật về
công tác bồi dưỡng chưa đầy đủ và quá trình
tổ chức thực hiện còn gặp một số khó khăn,
vướng mắc. Điều này dẫn đến hiệu quả hoạt
động bồi dưỡng ĐBQH thời gian qua chưa
đạt được như mong muốn, tác động trực tiếp
của công tác bồi dưỡng đến hoạt động của
các ĐBQH chưa rõ ràng và mạnh mẽ.
2 Khoá XII có 27,59% là đại biểu khóa XI tái cử; Khóa XIV có 30,32% đại biểu khóa XIII tái cử.
3 Là cơ quan thuộc UBTVQH, trực tiếp giúp UBTVQH trong công tác bồi dưỡng đại biểu dân cử.
1. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn triển
khai hoạt động bồi dưỡng đại biểu Quốc hội
1.1 Quy định pháp luật về bồi dưỡng ĐBQH
Trong những năm qua, việc đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nhà
nước nói chung, bồi dưỡng ĐBQH nói riêng
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú
trọng. Mặc dù đã có một số quy định pháp
luật về bồi dưỡng ĐBQH, nhưng khuôn khổ
pháp luật về hoạt động này vẫn chưa đầy đủ.
Đặc biệt, một số nội dung then chốt về bồi
dưỡng ĐBQH vẫn chưa được quy định, cụ
thể là:
- Chưa có quy định về bộ tiêu chuẩn
chất lượng đối với các “chương trình bồi
dưỡng kiến thức và kỹ năng hoạt động
ĐBQH” để quản lý và bảo đảm chất lượng,
hiệu quả.
- Chưa có quy định về quyền và trách
nhiệm tham gia chương trình bồi dưỡng của
ĐBQH: Chưa có quy định một số nội dung
bồi dưỡng có tính chất nền tảng mà ĐBQH
bắt buộc phải tham gia, bên cạnh những
chủ đề ĐBQH có thể đăng ký tham gia tự
nguyện theo nhu cầu.
- Chưa có các quy định trách nhiệm
và điều kiện bảo đảm: Nhóm quy định này
có ba nội dung lớn: (i) Quy định trách nhiệm
của các cơ quan, cá nhân hữu quan quản lý
ĐBQH trong việc tạo điều kiện về thời gian
để ĐBQH tham dự các hoạt động bồi dưỡng;
(ii) Quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền
hạn của một Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu
dân cử; iii) Quy định về chế độ tài chính cho
các hoạt động bồi dưỡng.
- Còn thiếu các nội dung quy định về
cơ chế phối hợp, điều phối hoạt động bồi
dưỡng ĐBQH: Cơ quan chịu trách nhiệm
điều phối cần xây dựng chương trình bồi
CHÑNH SAÁCH
44 Số 10(386) T5/2019
dưỡng toàn khóa, từng năm, gắn với chương
trình hoạt động của Quốc hội để làm căn cứ
triển khai, trong đó xác định vai trò chủ trì
và phối hợp tổ chức cũng như của các cơ
quan bồi dưỡng khác trong từng hoạt động;
đồng thời phân bổ thời gian và đối tượng
tham dự bồi dưỡng hợp lý.
1.2 Thực tế đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng
của ĐBQH
Trong hơn hai nhiệm kỳ Quốc hội gần
đây, đã có khoảng gần 120 hội nghị được tổ
chức dành cho ĐBQH, với số lượng khoảng
6.000 lượt ĐBQH tham dự4. Về cơ bản, các
nội dung bồi dưỡng thiết thực đã hỗ trợ cho
ĐBQH, đặc biệt là với các đại biểu lần đầu
trúng cử. Kết quả khảo sát năm 2018 cho
thấy, phần lớn những người tham gia bồi
dưỡng khẳng định bản thân áp dụng được
nhiều kiến thức, kỹ năng vào hoạt động của
ĐBQH, với 79 người, chiếm 62,7%.
Bên cạnh những kết quả đạt được,
thực tế cho thấy vẫn còn một số hạn chế liên
quan đến đối tượng bồi dưỡng5 như: Các
nhóm ĐBQH dưới 40 tuổi, ĐBQH tham
gia nhiệm kỳ đầu tiên, ĐBQH kiêm nhiệm,
ĐBQH người dân tộc ít người chưa tham gia
nhiều các hoạt động bồi dưỡng các ĐBQH
giữ chức vụ cao hầu như không tham gia
các hoạt động bồi dưỡng; việc thiết kế các
chương trình riêng cho một số đối tượng đặc
thù như ĐBQH dân tộc ít người, ĐBQH nữ,
ĐBQH kiêm nhiệm ở địa phương, không giữ
các chức vụ lãnh đạo, còn chưa được quan
tâm một cách thỏa đáng.
1.3 Nội dung, chương trình bồi dưỡng
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
4 Tổng hợp từ Báo cáo 10 năm công tác bồi dưỡng đại biểu dân cử của Ban Công tác đại biểu, 2014; Báo cáo tổng kết
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII của Ban Công tác đại biểu, 2016; báo cáo hoạt động hàng năm của Trung tâm Bồi dưỡng
đại biểu dân cử đến năm 2017.
5 Tổng hợp từ Báo cáo 10 năm công tác bồi dưỡng đại biểu dân cử của Ban Công tác đại biểu, 2014; Báo cáo tổng kết
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII của Ban Công tác đại biểu, 2016; báo cáo hoạt động hàng năm của Trung tâm Bồi dưỡng
đại biểu dân cử đến năm 2017.
quyền hạn của mình, ĐBQH cần được bồi
dưỡng cả kiến thức về Quốc hội; kỹ năng
hoạt động của ĐBQH tại nghị trường; kiến
thức theo lĩnh vực chuyên môn mà ĐBQH
phải xem xét, thảo luận, quyết định. Tuy
nhiên, các nội dung này rất rộng, thậm chí
rất chuyên sâu, trong khi điều kiện thời gian,
nguồn lực con người, tài chính không cho
phép tổ chức nhiều hoạt động bồi dưỡng,
không thể đáp ứng hết tất cả các nhu cầu của
ĐBQH về các nội dung đó. Do đó, thời gian
qua chương trình, nội dung bồi dưỡng đã
đi theo các hướng: bồi dưỡng theo nhu cầu
của nhóm ĐBQH; nội dung bồi dưỡng qua
các năm của nhiệm kỳ Quốc hội. (Ví dụ: tập
trung bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cần thiết
nhất trong năm thứ nhất và hai của nhiệm
kỳ, một số rải đều trong các năm còn lại).
Theo Khung chương trình bồi dưỡng
ĐBQH đã được Đảng đoàn Quốc hội khóa
XII phê duyệt, việc bồi dưỡng kiến thức cơ
bản tập trung vào năm đầu của nhiệm kỳ như:
tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các quy
trình, thủ tục làm việc của Quốc hội, quyền
hạn, trách nhiệm của ĐBQH. Chương trình
bồi dưỡng các kỹ năng chuyên sâu bắt đầu
vào năm thứ hai, thứ ba gồm: kỹ năng tiếp
xúc cử tri, kỹ năng thảo luận tại Hội trường,
kỹ năng chất vấn, kỹ năng phân tích chính
sách, kỹ năng về hoạt động đối ngoại
Sang năm thứ ba đến cuối nhiệm kỳ, các
kỹ năng như giám sát, phân tích chính sách
được lồng ghép với việc bồi dưỡng các kiến
thức chuyên sâu gắn với chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, một số
chủ đề trọng tâm về kinh tế - xã hội, có tính
thời sự.
CHÑNH SAÁCH
45Số 10(386) T5/2019
Bên cạnh những kết quả đạt được,
trong thời gian qua, một số chương trình,
nội dung bồi dưỡng ĐBQH chưa “trúng”
với nhu cầu của người học6. Cụ thể, việc bồi
dưỡng các kỹ năng như thuyết trình, kỹ năng
tư duy sáng tạo, kỹ năng quản lý thời gian
và điều phối công việc của đại biểu chưa
được chú ý. Còn thiếu các chủ đề bồi dưỡng
mang tính cập nhật về chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng trực tiếp liên quan
và chỉ đạo hoạt động của Quốc hội; các nội
dung bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu liên
quan trực tiếp đến chương trình lập pháp
và giám sát của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội.
Ngoài ra, việc điều tra nhu cầu và phát
triển các chương trình nâng cao năng lực cho
một số nhóm đại biểu đặc thù (ĐBQH trẻ,
ĐBQH là phụ nữ, ĐBQH có chức vụ cao)
vẫn chưa tương xứng với yêu cầu của công
tác này. Khung chương trình của năm vẫn
còn những điểm chưa thật sự hợp lý so với
thực tế hoạt động của ĐBQH; chưa có sự chỉ
đạo thống nhất từ cấp có thẩm quyền trong
việc tổ chức các chương trình bồi dưỡng,
vẫn còn tình trạng để xảy ra sự trùng lắp về
thời gian, đối tượng bồi dưỡng với các cơ
quan khác của Quốc hội.
1.4 Hình thức và phương pháp bồi dưỡng
Theo kết quả khảo sát năm 2018,
ĐBQH tham gia nhiều hình thức bồi dưỡng:
hội thảo, tọa đàm (trình bày, trao đổi); khóa
tập huấn (lý thuyết, thực hành), cung cấp tài
liệu tự nghiên cứu, tra cứu tài liệu trên trang
web về bồi dưỡng ĐBQH, tập huấn từ xa qua
mạng internet và tham quan, trao đổi trong
và ngoài nước. Tuy nhiên, hội thảo, tọa đàm
(trình bày, trao đổi) và tập huấn là hai hình
thức có nhiều người tham gia nhất. Tiếp đó
6 Tổng hợp từ Báo cáo 10 năm công tác bồi dưỡng đại biểu dân cử của Ban Công tác đại biểu, 2014; Báo cáo tổng kết
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII của Ban Công tác đại biểu, 2016; báo cáo hoạt động hàng năm của Trung tâm Bồi dưỡng
đại biểu dân cử đến năm 2017.
là hình thức tự nghiên cứu tài liệu. Ngược
lại, ít ĐBQH trải nghiệm hình thức tập huấn
trực tuyến, qua mạng internet. Trong công
tác tổ chức bồi dưỡng ĐBQH, các phương
pháp dạy và học tích cực, lấy người học làm
trung tâm đã được vận dụng trong nhiều hội
nghị, ví dụ như: phương pháp động não,
tình huống, đóng vai, thảo luận nhóm Tuy
nhiên, bên cạnh các hội nghị đã áp dụng các
phương pháp tập huấn mới đa dạng, tại khá
nhiều hội nghị, việc thuyết trình một chiều
của các báo cáo viên, với thảo luận ngắn
toàn thể vẫn là phương pháp chủ yếu.
1.5 Đánh giá hiệu quả bồi dưỡng ĐBQH
Việc theo dõi, đánh giá hiệu quả bồi
dưỡng ĐBQH ở Việt Nam đã được thực hiện
bước đầu. Tại các hội nghị bồi dưỡng, Trung
tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử gửi phiếu để
đại biểu tham dự hội nghị đánh giá, chấm
điểm về chất lượng tổ chức hội nghị và tổ
chức các hội nghị tổng kết, đánh giá về các
hội nghị bồi dưỡng đại biểu dân cử. Qua đó
có thể thấy vẫn còn những hạn chế trong
triển khai đánh giá hoạt động bồi dưỡng.
Cụ thể như: việc tự đánh giá của mỗi giảng
viên, đồng nghiệp góp ý hầu như chưa được
thực hiện; việc đánh giá của học viên đôi
khi mang tính chủ quan, định kiến; đặc biệt,
hầu như không đánh giá được sự thay đổi
trong hành vi của đại biểu sau khi được bồi
dưỡng và chưa đánh giá được tác động của
hoạt động bồi dưỡng đối với hoạt động của
Quốc hội nói chung.
1.6 Bộ máy, nhân lực thực hiện bồi
dưỡng
Hiện nay, Ban Công tác đại biểu là
cơ quan được Uỷ ban thường vụ Quốc hội
chính thức giao nhiệm vụ thực hiện công
tác bồi dưỡng ĐBQH (Nghị quyết số 575/
CHÑNH SAÁCH
46 Số 10(386) T5/2019
UBTVQH12 ngày 31/1/2008). Tham mưu,
giúp việc cho Ban Công tác đại biểu trong tất
cả các hoạt động liên quan đến bồi dưỡng đại
biểu dân cử là Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu
dân cử. Tuy nhiên, hiện nay Trung tâm Bồi
dưỡng đại biểu dân cử chỉ có hơn 10 người.
Trong khi đó, các nhóm công việc hiện nay
đều có khối lượng lớn, yêu cầu chất lượng,
hiệu quả cao, với những đặc thù riêng.
Bên cạnh đó, từ trước đến nay, tại
Quốc hội luôn diễn ra một thực trạng là
có khá nhiều cơ quan đứng ra tổ chức hoạt
động bồi dưỡng kỹ năng, cung cấp thông tin
cho ĐBQH dẫn đến sự trùng lặp hoặc gây
khó khăn cho ĐBQH trong việc bố trí tham
dự. Thực tế này đặt ra vấn đề cần một đầu
mối liên kết các hoạt động đó, và quy định
rõ ràng về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
trong Quốc hội trong bồi dưỡng ĐBQH.
* Nguyên nhân của thành công và
hạn chế
Nguyên nhân của những kết quả đạt
được của hoạt động bồi dưỡng ĐBQH thời
gian qua là do: các cấp có thẩm quyền đã
có chủ trương, quan điểm phù hợp về bồi
dưỡng ĐBQH; hoạt động bồi dưỡng đã đáp
ứng đúng nhu cầu phục vụ hoạt động của
ĐBQH; sự nỗ lực đổi mới hình thức, phương
pháp bồi dưỡng và sự nhiệt tình, trách nhiệm
của cơ quan tổ chức bồi dưỡng đã thu hút
được sự tham gia của ĐBQH.
Qua nghiên cứu có thể chỉ ra một số
nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong
triển khai hoạt động bồi dưỡng ĐBQH như
sau: 1) Thiếu một khuôn khổ pháp lý đầy đủ
về trách nhiệm của các chủ thể liên quan, về
cơ chế phối hợp và các điều kiện đảm bảo;
2) Sự hạn chế của đội ngũ báo cáo viên, của
bộ máy tham mưu, phục vụ; 3) Thiếu các
tiêu chí (Bộ tiêu chuẩn) để đánh giá hiệu quả
hoạt động bồi dưỡng; 4) Kinh phí và cơ chế
sử dụng kinh phí còn bất cập; 5) Bản thân
ĐBQH khó bố trí thời gian tham gia do gánh
trên vai nhiều trọng trách.
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả bồi
dưỡng đại biểu Quốc hội
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả
trong thời gian tới, thiết nghĩ hoạt động bồi
dưỡng ĐBQH cần đáp ứng những yêu cầu
định hướng sau:
- Bảo đảm hoạt động bồi dưỡng phải
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực
hoạt động của Quốc hội cũng như Chương
trình hoạt động của Quốc hội cả nhiệm kỳ
và từng năm.
- Đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng của
ĐBQH, phù hợp với đặc điểm của các nhóm
đại biểu, nhất là đại biểu mới được bầu lần
đầu và đại biểu tái cử.
- Bảo đảm nguyên tắc hài hòa giữa
trách nhiệm và quyền lợi của ĐBQH trong
tham gia các chương trình bồi dưỡng.
- Xây dựng khuôn khổ pháp lý chặt
chẽ và khả thi về chế độ, trách nhiệm, tiêu
chuẩn bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho
ĐBQH; các chế độ tài chính và điều kiện
đảm bảo có liên quan.
- Làm rõ trách nhiệm, quyền hạn của
từng cơ quan, đơn vị trong hoạt động bồi
dưỡng, quản lý, điều phối, phối hợp hoạt
động, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả.
Trên cơ sở các định hướng nêu trên,
có thể đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản
như sau:
2.1 Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức
Trong thời gian tới, lãnh đạo các cấp
cần chú trọng hơn đến các nội dung sau: (i)
tiếp tục ban hành các chủ trương, chính sách
mới về đổi mới hoạt động này nhằm đáp ứng
yêu cầu hiện nay; (ii) tiếp tục chỉ đạo hoàn
thiện các quy định pháp luật về bồi dưỡng
ĐBQH tạo khung pháp luật đầy đủ về các
nội dung liên quan đến hoạt động này.
Bản thân ĐBQH cần nhận thức việc
bồi dưỡng là nhiệm vụ thường xuyên, liên
tục, kết hợp giữa việc “được bồi dưỡng” và
CHÑNH SAÁCH
47Số 10(386) T5/2019
“tự bồi dưỡng”. ĐBQH cần chủ động và tích
cực tham gia, đóng góp ý kiến và đặt những
yêu cầu để hoạt động bồi dưỡng ngày càng
hiệu quả hơn, đáp ứng được nhu cầu hoạt
động của đại biểu.
Đội ngũ chuyên trách triển khai hoạt
động bồi dưỡng phải luôn có ý thức không
ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ thông qua việc tự đào tạo, bồi dưỡng,
nghiên cứu hoặc tham gia các hoạt động đào
tạo bồi dưỡng do các đơn vị, cơ quan tổ chức
và thông qua trao đổi, học hỏi kinh nghiệm
giữa các cán bộ có kinh nghiệm và các cán
bộ trẻ.
Các báo cáo viên cần chủ động, tích
cực trong việc tìm hiểu, cập nhật kiến thức
để luôn luôn đáp ứng được yêu cầu về bồi
dưỡng trong thời đại mới; chủ động tìm ra
những phương pháp sư phạm thích hợp để
việc giảng dạy có hiệu quả nhất. Sau mỗi
buổi tập huấn, biết lắng nghe những phản
hổi, góp ý từ học viên về những ưu, nhược
điểm trong cách giảng dạy của mình để phát
huy ưu điểm, khắc phục hạn chế.
Các cơ quan nơi ĐBQH đang công tác
cần tạo điều kiện thuận lợi cho ĐBQH có
thời gian tham dự các lớp bồi dưỡng; chủ
động phối hợp, hỗ trợ để đảm bảo các hoạt
động bồi dưỡng ĐBQH đạt chất lượng tốt.
2.2 Nhóm giải pháp hoàn thiện quy định
pháp luật
Để bổ sung, hoàn thiện các quy định
pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác
bồi dưỡng ĐBQH, cần hoàn thiện quy định
về một số nội dung sau:
- Cần có quy định về nội dung, phương
thức bồi dưỡng phù hợp với cơ cấu ĐBQH
(đại biểu nữ, đại biểu dân tộc ít người),
phù hợp với đặc thù hoạt động (đại biểu
mới trúng cử lần đầu, đại biểu đã có kinh
nghiệm; đại biểu chuyên trách, đại biểu
kiêm nhiệm) để đảm bảo chất lượng và
hiệu quả các khóa bồi dưỡng.
- Cần nghiên cứu xây dựng quy định
về trách nhiệm tham gia bồi dưỡng của
ĐBQH, coi đó là một tiêu chí đánh giá hoạt
động hàng năm của ĐBQH. Cân nhắc bổ
sung trong Quy chế hoạt động của ĐBQH
quy định: hàng năm mỗi ĐBQH phải dành
ít nhất 10 ngày tham gia các lớp bồi dưỡng.
- Cần hoàn thiện quy định về các chế
độ, định mức kinh phí dành cho ĐBQH khi
tham gia các lớp bồi dưỡng. Cơ chế chi kinh
phí cho ĐBQH tham dự các hoạt động bồi
dưỡng có thể thực hiện theo một trong các
phương án sau: (i) cấp trực tiếp khoản kinh
phí cho ĐBQH sử dụng và trực tiếp thanh
toán; ii) giao khoản kinh phí này cho Đoàn
ĐBQH tỉnh/thành quản lý; iii) giao khoản
kinh phí này cho Ban Công tác đại biểu điều
phối. Đồng thời, cần quy định rõ định mức
kinh phí tham gia hoạt động bồi dưỡng hằng
năm cho ĐBQH để đại biểu có thể cân đối,
đăng ký tham gia theo nhu cầu của bản thân,
đồng thời để các cơ quan có liên quan biết
và thực hiện.
- Bổ sung quy định sự phối hợp giữa
các cơ quan có liên quan trong tổ chức hoạt
động bồi dưỡng để tránh lãng phí, chồng
chéo, bảo đảm hiệu quả theo tinh thần Kết
luận số 21-KL/ĐĐQH12 của Đảng đoàn
Quốc hội khóa XII. Cụ thể: Ban Công tác
đại biểu lấy ý kiến các cơ quan của Quốc
hội, Đoàn ĐBQH để xây dựng chương trình
bồi dưỡng toàn khóa và từng năm, phù hợp
với chương trình hoạt động của Quốc hội.
Theo đó, cần quy định quy trình: các cơ
quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH thông báo
cho Ban Công tác đại biểu kế hoạch, chương
trình bồi dưỡng của đơn vị mình để Ban tổng
hợp, sắp xếp lịch bồi dưỡng của Ban tránh
chồng chéo, trùng lặp, tạo điều kiện thuận
lợi để ĐBQH và các báo cáo viên tham gia.
Ngoài ra, cần nghiên cứu bổ sung quy
định về sự phối hợp của Viện Nghiên cứu
Lập pháp, Văn phòng Quốc hội trong việc
CHÑNH SAÁCH
48 Số 10(386) T5/2019
cung cấp, chia sẻ tài liệu tham khảo và đảm
bảo cơ sở vật chất cho việc triển khai các
lớp bồi dưỡng; Đoàn ĐBQH và Văn phòng
Đoàn ĐBQH sẽ phối hợp khi các lớp bồi
dưỡng, hội nghị tập huấn được tổ chức tại
địa phương.
2.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện nội dung,
phương thức bồi dưỡng
- Nghiên cứu xây dựng Bộ tiêu chuẩn
của chương trình bồi dưỡng kiến thức và kỹ
năng hoạt động ĐBQH, trong đó cần bao
gồm: (1) Các tiêu chuẩn về nội dung gắn với
hoạt động của Quốc hội, (2) Các tiêu chuẩn
về phương pháp đáp ứng yêu cầu truyền
đạt hiệu quả nội dung và thích hợp đối với
ĐBQH; (3) Các tiêu chuẩn về hình thức
bồi dưỡng gồm các hình thức hội nghị, hội
thảo, tọa đàm, khóa tập huấn kiến thức - kỹ
năng, nguồn học liệu cho tự học, bồi dưỡng
từ xa; (4) Quy định về quy trình xây dựng
Khung chương trình, xây dựng bộ tài liệu
bồi dưỡng; (5) Quy trình chuẩn bị, phục vụ
một hoạt động bồi dưỡng; (6) quy trình đánh
giá hiệu quả ứng dụng kết quả bồi dưỡng
vào hoạt động của ĐBQH
- Về nội dung, phương pháp bồi
dưỡng: Nội dung bồi dưỡng cần tập trung
vào hai vấn đề chính là kiến thức cơ bản,
chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực và kỹ năng
hoạt động. Nghiên cứu xây dựng nội dung,
chương trình đào tạo dành riêng cho từng
đối tượng đại biểu khác nhau, phù hợp với
nhu cầu của đại biểu; đáp ứng yêu cầu chức
năng, nhiệm vụ, cũng như yêu cầu bổ sung,
cập nhật kiến thức, kỹ năng nhằm nâng cao
năng lực hoạt động thực tiễn của đại biểu.
Ví dụ như: Đối với đại biểu lần đầu trúng cử
nên tập trung vào những kiến thức chung về
tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các kỹ
năng hoạt động cơ bản; đối với đại biểu đã
tái cử nên tập trung vào các kiến thức mang
tầm hoạch định chính sách pháp luật, các kỹ
năng chuyên sâu và các chuyên đề nâng cao.
Nội dung chương trình bồi dưỡng cũng
nên bố trí theo từng giai đoạn hoạt động của
ĐBQH: trong 2 năm đầu cần tập trung vào
các kiến thức cơ bản và kỹ năng để giúp cho
đại biểu sớm có khả năng tham gia các hoạt
động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội; năm thứ 3 trở đi chú ý hơn tới việc cập
nhật các thông tin và kiến thức cho các lĩnh
vực chuyên môn phù hợp với Chương trình
xây dựng luật và pháp lệnh của Quốc hội
cũng như các vấn đề kinh tế - xã hội của đất
nước.
Cần quan tâm việc tập huấn phương
pháp, cách thức giảng dạy mới phù hợp cho
các giảng viên, báo cáo viên áp dụng trong
quá trình giảng dạy, tạo sự sinh động, hấp
dẫn, phấn khích, nhiệt tình đối với người
học. Ngoài ra, cần chú trọng khảo sát, đánh
giá, nắm bắt kịp thời nhu cầu và nguyện
vọng của đại biểu nhằm tổng hợp, phân loại,
xác định rõ những nhu cầu bồi dưỡng chung,
nhu cầu cho từng hoạt động, từng thời điểm,
từng nhóm đại biểu.
2.4 Nhóm giải pháp về các điều kiện đảm
bảo hoạt động bồi dưỡng
Thứ nhất, tăng cường sự chỉ đạo, lãnh
đạo và kiểm tra hoạt động bồi dưỡng
Đảng đoàn Quốc hội, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội cần tăng cường quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo, bảo đảm hoạt động bồi dưỡng
đúng định hướng, mục đích; phê duyệt
những nội dung, chương trình, phương pháp
mang tính chủ đạo; tăng cường kiểm tra, kịp
thời cho ý kiến những vấn đề phát sinh, hoặc
những thiếu sót, tồn tại cần khắc phục, đặc
biệt là về nội dung, chương trình, phương
thức bồi dưỡng.
Thứ hai, tăng cường sự phối hợp trong
công tác bồi dưỡng
Cần tập trung toàn bộ hoạt động bồi
dưỡng Quốc hội về một đầu mối là Ban
Công tác đại biểu để khắc phục tình trạng
CHÑNH SAÁCH
49Số 10(386) T5/2019
trùng lặp về nội dung, thời gian địa điểm tổ
chức bồi dưỡng của các cơ quan khác nhau
trong Quốc hội. Tăng cường phối hợp với
các cơ quan chuyên môn trong quá trình
nghiên cứu, trao đổi xây dựng chương trình,
nội dung bồi dưỡng gắn với hình thức,
phương pháp bồi dưỡng. Bên cạnh đó, tăng
cường sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức
hữu quan, với đoàn ĐBQH, quan tâm tạo
điều kiện để đại biểu được tham gia các hoạt
động bồi dưỡng; tăng cường hợp tác quốc tế
trong hoạt động bồi dưỡng.
Thứ ba, kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng
cường năng lực cơ quan trực tiếp triển khai
hoạt động bồi dưỡng
Cần nghiên cứu xây dựng một Trung
tâm nguồn, với nhiệm vụ chủ đạo là bảo
đảm nguồn báo cáo viên, nguồn tư liệu
bồi dưỡng, các chương trình bồi dưỡng, hệ
thống phương pháp, các chương trình hợp
tác v.v..; đồng thời, làm tốt nhiệm vụ phối
hợp, điều phối các hoạt động bồi dưỡng khác
(nếu có). Việc xây dựng năng lực của Trung
tâm bồi dưỡng dựa trên các nội dung sau: (i)
Trình độ, năng lực nghiên cứu, tham mưu,
chuyên môn hóa của cán bộ công chức; (ii)
Xây dựng năng lực quản lý tổ chức, thiết
kế chương trình; (iii) Khả năng điều phối
chương trình, bảo đảm hiệu quả, khoa học;
(iv) Xây dựng và phát triển đội ngũ giảng
viên, báo cáo viên nguồn, xây dựng năng
lực cộng tác viên; (v) Khả năng tiếp cận, tạo
điều kiện, tạo mối quan hệ thường xuyên với
ĐBQH.
Thứ tư, xây dựng và phát triển đội ngũ
Báo cáo viên
Tiếp tục chủ động tổ chức các khóa
tập huấn báo cáo viên nguồn trên toàn quốc.
Chú ý mở rộng mạng lưới các báo cáo viên
trong các lĩnh vực lâu nay còn thiếu báo cáo
viên, như kỹ năng giám sát về tài chính -
ngân sách, giám sát về môi trường, đầu tư
xây dựng cơ bản, đất đai. Chú trọng xây
dựng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên là
những người thực sự tâm huyết, có chuyên
môn sâu, người có nhiều kinh nghiệm hoạt
động tại các cơ quan dân cử và có cơ chế,
chính sách thích đáng để đãi ngộ, đào tạo
báo cáo viên nguồn.
Thứ năm, bảo đảm kinh phí, cơ sở vật
chất và các điều kiện cần thiết khác cho hoạt
động bồi dưỡng
Cần có cơ chế bảo đảm kinh phí và các
điều kiện cần thiết khác cho hoạt động bồi
dưỡng, theo hướng vừa bảo đảm những quy
định chế độ chung, vừa đáp ứng tính chất
đặc thù của hoạt động bồi dưỡng. Khai thác
các nguồn lực thông tin, nghiên cứu và phối
hợp đồng bộ, nhịp nhàng trong việc cung
cấp thông tin đáp ứng tốt yêu cầu của đại
biểu. Tăng cường sử dụng công nghệ thông
tin trong việc xây dựng, lưu giữ, quản lý các
văn bản, chuyên đề, các dữ liệu thông tin
liên quan khác phục vụ công tác bồi dưỡng.
2.5 Xây dựng các tiêu chí đánh giá chất
lượng hoạt động bồi dưỡng ĐBQH
Các tiêu chí đánh giá cụ thể bao gồm:
(1) Đáp ứng nhu cầu phục vụ hoạt động của
ĐBQH; (2) Chất lượng giảng viên, báo cáo
viên; (3) Phương pháp bồi dưỡng phù hợp,
linh hoạt, kết hợp truyền đạt và trao đổi; (4)
Tài liệu, nội dung bài giảng được chuẩn bị
chu đáo, ngắn gọn, mạch lạc, dễ hiểu, có sự
tương thích giữa lý luận và thực tiễn, phù
hợp với đối tượng bồi dưỡng, chương trình,
thời gian bồi dưỡng; (5) Địa điểm thuận lợi
cho việc đi lại; (6) Thời điểm tổ chức hội
nghị hợp lý; (7) Không khí và môi trường
bồi dưỡng thoải mái, công tác tổ chức phục
vụ chu đáo, thuận lợi, tạo phấn khích và
động lực học tập; (9) Sự tham gia đầy đủ,
nhiệt tình và trách nhiệm của đại biểu; (10)
Thỏa mãn yêu cầu của đại biểu, được đa số
đại biểu đánh giá tốt, được ứng dụng trong
hoạt động của ĐBQH
CHÑNH SAÁCH
50 Số 10(386) T5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_hieu_qua_boi_duong_dai_bieu_quoc_hoi.pdf