Thứ ba, thúc đẩy năng suất và trình độ lao
động tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, công
nghệ cao.
Để nâng cao kỹ năng nghề cho lực lượng lao
động hướng tới mục tiêu thúc đẩy việc làm có
năng suất thực sự hiệu quả đáp ứng nhu cầu hiện
tại và tương lai của thị trường lao động, theo
chúng tôi cần tập trung thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: (i) Một là, thực hiện đổi mới, phát
triển dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng dạy
nghề để “hình thành đội ngũ lao động có tay
nghề cao, trước hết cho các ngành kinh tế mũi
nhọn, các vùng kinh tế trọng điểm, góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội
nhập quốc tế”, phục vụ mục tiêu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; và (ii) Hai là, đẩy
mạnh thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
lao động nông thôn đến năm 2020, nhằm nâng
cao trình độ kỹ năng nghề, nâng cao chất lượng,
năng suất và tính cạnh tranh của sản xuất nông
nghiệp góp phần bổ sung nhân lực vào lực lượng
lao động có tay nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và cơ cấu lao động đảm bảo phát triển bền vững
và an sinh xã hội.
Xây dựng hệ thống các chính sách khuyến
khích doanh nghiệp tham gia tích cực vào hoạt
động dạy nghề, thiết lập một mối liên kết chặt
chẽ, phù hợp giữa các chương trình đào tạo nghề
với các yêu cầu về kỹ năng mà thị trường lao
động đang cần, tăng cường hợp tác quốc tế, trao
đổi kinh nghiệm về hoạt động dạy nghề; sử dụng
chương trình dạy nghề, tiêu chuẩn kỹ năng nghề
của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế
giới; khuyến khích hợp tác, đầu tư của nước
ngoài vào dạy nghề ở Việt Nam; hài hòa các tiêu
chuẩn kỹ năng của các nước trong khu vực để
tiến tới xây dựng cơ chế công nhận lẫn nhau về
trình độ kỹ năng nghề của người lao động trong
ASEAN./.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 210 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp - Yêu cầu để kinh tế Việt Nam thăng hạng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
84 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Mở đầu
Việt Nam là một trong những nền kinh tế
tăng trưởng ấn tượng nhất trên thế giới trong
hai thập kỷ qua, hiện nay GDP bình quân đầu
người của Việt Nam đã tăng trung bình mỗi năm
gần 6,8%. Nền kinh tế tiếp tục giữ được đà tăng
trưởng, mức sống và thu nhập người dân được
nâng cao, đặc biệt là Việt Nam đã hội nhập sâu
vào nền kinh tế toàn cầu và vươn lên thành một
trong những điểm đến hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư. Việt Nam đang đứng trước điểm chuyển
giao quan trọng từ tăng trưởng dựa trên các lợi
thế so sánh sẵn có sang tăng trưởng dựa trên
việc nâng cấp năng lực cạnh tranh và xây dựng
những lợi thế cạnh tranh mới ở trình độ cao hơn.
Năng suất lao động của Việt Nam tăng lên, giúp
dẫn dắt tăng trưởng. Sự tăng năng suất lao động
của Việt Nam chủ yếu là do kết quả của gia tăng
vốn đầu tư cùng với sự dịch chuyển lao động từ
nông nghiệp sang khu vực chế biến, chế tạo và
dịch vụ.
NÂNG CAO NĂNG LỰC SẢN XUẤT CỦA DOANH NGHIỆP -
YÊU CẦU ĐỂ KINH TẾ VIỆT NAM THĂNG HẠNG
Ths. Trần Mạnh Tiến*
Ngày nhận bài: 4/10/2019
Ngày chuyển phản biện: 6/10/2019
Ngày nhận phản biện: 19/10/2019
Ngày chấp nhận đăng: 23/10/2019
Trong những năm qua chỉ số cạnh tranh của Việt Nam đang được cải thiện lên rất nhiều, xếp hạng thứ:
49/53 năm 1997, 53/59 năm 2000, 81/117 năm 2005, 59/139 năm 2010, 76/140 năm 2015 và lần đầu tiên
vươn lên trong nửa trên của bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) 2019, đứng vị trí
67/141 nền kinh tế được xếp hạng, tăng 10 bậc và 3,5 điểm trong một năm (Diễn đàn Kinh tế Thế giới
(WEF) vừa công bố Bảng xếp hạng Năng lực cạnh tranh toàn cầu - GCI). Tại khu vực ASEAN, Việt Nam
đã đứng thứ 5 trong bảng chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu. Theo báo cáo GCI đánh giá Việt Nam là
quốc gia có điểm số tăng mạnh nhất toàn cầu, nằm trong khu vực châu Á, Thái Bình Dương có năng
lực cạnh tranh cao nhất thế giới, không chỉ có sự đổi mới trong hoạt động kinh tế nói chung, mà còn là
nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của Chính phủ và sự năng động của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế. Để duy trì bền vững thứ hạng cạnh tranh của Việt Nam, nhân tố năng lực sản xuất, dù
chỉ số này đã được nâng cao nhưng mức tăng trưởng vẫn chưa phát huy hết khả năng cũng như đáp
ứng mong muốn của các nhà quản lý. Chính vì thế, trong thời gian tới, năng lực sản xuất không cải thiện
nhanh chóng hơn thì thứ hạng cạnh tranh của Việt Nam sẽ tự “rơi” xuống mức thấp.
• Từ khóa: thăng hạng, phát triển bền vững.
In recent years, Vietnam’s competitiveness
index has been greatly improved, ranked as
49/53 in 1997, 53/59 in 2000, 81/117 in 2005,
59/139 in 2010, 76/140 in 2015 and the first rise
in the top half of the Global Competitiveness
Ranking (GCI) 2019, standing 67/141 economies
are ranked, up 10 places and 3.5 points in a
year (World Economic Forum) (WEF) has just
released the Global Competitiveness Chart -
GCI. In ASEAN, Vietnam has ranked 5th in the
global competitiveness index. According to GCI
report evaluating Vietnam is the country with the
strongest increase in global score, located in Asia,
Pacific region world’s highest competitiveness, not
only innovation in economic activity in general, but
also efforts to improve the government’s business
and investment environment and the dynamics of
businesses in economy. To sustainably maintain
Vietnam’s competitive rank, factor of production
capacity, though This index has been improved
but the growth rate has not been fully developed
as well as met desired response of managers.
Therefore, in the future, production capacity does
not improve more quickly, Vietnam’s competitive
rank will “fall” to a low level.
• Keywords: ranking, sustainable development.
* Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp
TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Soá 11 (196) - 2019
85Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Có thể thấy trong bảng
năng lực cạnh tranh thì
nhóm tiêu chí về ứng
dụng công nghệ thông tin,
mức độ phức hợp trong
kinh doanh và thị trường
hàng hóa là tăng mạnh
nhất. Trong đó, một số
chỉ tiêu liên quan tới năng
suất lao động tăng trưởng,
đó là nhóm tiêu chí đổi
mới sáng tạo tăng 6 bậc,
với 36,8 điểm, xếp thứ
76 nhờ sự tiến bộ của các
chỉ tiêu về tính đa dạng
của lực lượng lao động
(tăng 16 bậc), mức độ phát triển các cụm ngành
(tăng 33 bậc); hợp tác đa phương giữa các doanh
nghiệp và giữa doamh nghiệp với các trường đại
học (tăng 17 bậc); mức độ tinh thông của khách
hàng trong việc nhận thức, đánh giá về sản phẩm
tăng lên (tăng 46 bậc).
Tuy các nhóm tiêu chí có sự cải thiện, nhưng
một số tiêu chí thành phần có sự sụt giảm về
điểm số và thứ hạng. Điều này cho thấy sức
cạnh tranh của Việt Nam còn thiếu bền vững.
Tiêu chí quản trị doanh nghiệp được đánh giá
thấp khi các yếu tố thành phần như mức độ tuân
thủ chuẩn mực kế toán, kiểm toán chỉ đạt 3,6/7
điểm (xếp hạng 128/141) và các biện pháp giải
quyết vấn đề xung đột lợi ích chỉ đạt 4,3/7 điểm
(xếp hạng 112/141), chưa có cải thiện so với
năm trước.
Một chỉ số quan trọng để phản ánh năng lực
sản xuất và năng lực cạnh tranh của một quốc
gia là giá trị gia tăng của ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo (MVA). MVA của Việt Nam đã
tăng từ mức 15,15 tỷ USD năm 2006, lên 26,61
tỷ năm 2016. Tuy nhiên so với các quốc gia
trong khu vực, MVA của Việt Nam ở mức thấp,
chỉ bằng khoảng 1/3 Malaysia, 1/4 Thái Lan và
1/8 Indonesia.
Thực trạng năng lực sản xuất của các
doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo của Việt Nam hiện nay
Bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay, việc
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên quy mô
toàn cầu là tất yếu khách quan và áp lực cạnh
tranh này tác động lên tất cả các doanh nghiệp
chứ không chỉ riêng Việt Nam. Nếu xét trên
góc độ vĩ mô: Việc hội nhập
kinh tế quốc tế hay ký kết các
hiệp định thương mại tự do
mang lại nhiều cơ hội cho các
doanh nghiệp, nhưng cũng có
nhiều thách thức. Ví dụ như,
theo hiệp định gần nhất vừa
mới có hiệu lực tại Việt Nam
từ ngày 14/1/2019 là Hiệp
định Đối tác toàn diện và Tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) thì có 3 nước lần
đầu tiên Việt Nam có quan hệ
hiệp định thương mại tự do là
Canada, Mexico, Peru. Điều
TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄPSoá 11 (196) - 2019
Bảng 1: Xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam năm 2018-2019
Có thể thấy trong bảng năng lực cạnh thì nhóm tiêu chí về ứ g dụng công nghệ
thông tin, mức độ phức hợp trong kinh doanh và thị trường hàng hóa là tăng mạnh nhất.
Trong đó, một số chỉ tiêu liên quan tới năng suất lao động tăng trưởng, đó là nhóm tiêu
chí Đổi mới sáng tạo tăng 6 bậc, với 36,8 điểm, xếp thứ 76 nhờ sự tiến bộ của các chỉ tiêu
về tính đa dạng của lực lượng lao động (tăng 16 bậc), mức độ phát triển các cụm ngành
(tăng 33 bậc); hợp tác đa phương giữa các doanh nghiệp và giữa doamh nghiệp với các
trường đại học (tăng 17 bậc); mức độ tinh thông của k ách hàng trong việc nhận thức,
đánh giá về sản phẩm tăng lên (tăng 46 bậc).
Tuy các hóm tiêu chí có sự cải thiện, nhưng một số tiêu chí thành phần có sự sụt
giảm về điểm số và thứ hạng. Điều này cho thấy sức cạnh tranh của Việt Nam còn thiếu
bền vững. Tiêu chí quản trị doanh nghiệp được đánh giá thấp khi các yếu tố thành phần
như mức độ tuân thủ chuẩn mực kế toán, kiểm toán chỉ đạt 3,6/7 điểm (xếp hạng
128/141) và các biện pháp giải quyết vấn đề xung đột lợi ích chỉ đạt 4,3/7 điểm (xếp hạng
112/141), chưa có cải thiện so với năm trước.
Một chỉ số quan trọng để phản ảnh năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh của
một quốc gia là giá trị gia tăng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo (MVA). MVA
của Việt Nam đã tăng từ mức 15,15 tỷ USD năm 2006, lên 26.61 tỷ năm 2016. Tu nhiên
so với các quốc gia trong khu vực, MVA của Việt Nam ở mức thấp, chỉ bằng khoảng 1/3
Malaysia, 1/4 Thái Lan và 1/8 Indonesia.
Bảng 2: MVA và tốc độ tăng trưởng của Việt Nam
cũng như các nước đối sánh (2006-2016)
MVA (mức quy đổi 2010, tỷ USD CAGR (%)
2006 2011 2016 2006-2011 2011-2016 2006-2016
Nhật Bản 1.179,48 1.155,14 1.288,07 -0,40% 0,22% 0,90%
Ấn Độ 192,62 288,39 419,03 8,40% 7,80% 8,10%
Hàn Quốc 239,23 324,19 370,75 6,30% 2,70% 4,50%
Indonesia 143,27 176,83 221,87 4,30% 4,60% 4,50%
Thái Lan 89,65 100,87 114,34 2,40% 2,50% 2,50%
Malaysia 56,47 63,01 79,00 2,20% 4,60% 3,40%
Philipines 37,44 44,83 63,78 3,70% 7,30% 5,50%
Singapore 37,81 51,43 52,99 6,30% 0,60% 3,40%
Việt Nam 15,15 17,12 26,61 2,50% 9,20% 5,80%
Nguồn: Các chỉ số phát triển thế giới
Thực trạng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế
biến chế tạo của Việt Nam hiện nay
Bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trên quy mô toàn cầu là tất yếu khách quan và áp lực cạnh tra h này tác động lên tất cả
các doanh nghiệp chứ không chỉ riêng Việt Nam. Nếu xét trên góc độ vĩ mô: Việc hội
nhập kinh tế quốc tế hay ký kết các hiệp định thương mại tự do mang lại nhiều cơ hội cho
các doanh nghiệp, nhưng cũng có nhiều thách thức. Ví dụ như, theo hiệp định gần nhất
vừa mới có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 14/1/2019 là Hiệp định Đối tác toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) thì có 3 nước lần đầu tiên Việt Nam có quan
hệ hiệp định thương mại tự do là Canada, Mexico, Peru. Điều này mở ra cơ hội cho các
doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường mới, có cơ hội đa dạng hóa nguồn nguyên vật
liệu đầu vào (như sợi trong ngành Dệt may), Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải đối
mặt với các thách thức, như: về năng lực cạnh tranh còn yếu, thể chể chính sách của Việt
Nam chưa hoàn thiện, chất lượng nguồn lao động chưa cao, năng lực sản xuất chưa đáp
ứng yêu cầu
Thực tế các doanh nghiệp trong ngành thời gian vừa qua chỉ thực hiện được mục
tiêu mở rộng kinh doanh mà mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh chưa thực hiện được.
Đây là một vấn đề tồn tại như một bài toán khó đối với mọi doanh nghiệp. Việc chưa
thực hiện được mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh là do ngoài những thuận lợi và nỗ
lực của bản thân doanh nghiệp thì còn có nhiều khó khăn, hạn chế từ môi trường bên
ngoài cũng như bên trong nội tại của doanh nghiệp đã tác động tiêu cực không nhỏ tới
mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Năng lực sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp trong 7 tháng năm 2019 đạt
mức tăng khá 9,4% so với cùng kỳ năm trước; tuy nhiên, thấp hơn mức tăng 10,7% của
86 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
này mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt
Nam tiếp cận thị trường mới, có cơ hội đa dạng
hóa nguồn nguyên vật liệu đầu vào (như sợi
trong ngành Dệt may), Bên cạnh đó, doanh
nghiệp cũng phải đối mặt với các thách thức,
như: về năng lực cạnh tranh còn yếu, thể chể
chính sách của Việt Nam chưa hoàn thiện, chất
lượng nguồn lao động chưa cao, năng lực sản
xuất chưa đáp ứng yêu cầu
Thực tế các doanh nghiệp trong ngành thời
gian vừa qua chỉ thực hiện được mục tiêu mở
rộng kinh doanh mà mục tiêu nâng cao hiệu quả
kinh doanh chưa thực hiện được. Đây là một
vấn đề tồn tại như một bài toán khó đối với mọi
doanh nghiệp. Việc chưa thực hiện được mục
tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh là do ngoài
những thuận lợi và nỗ lực của bản thân doanh
nghiệp thì còn có nhiều khó khăn, hạn chế từ
môi trường bên ngoài cũng như bên trong nội
tại của doanh nghiệp đã tác động tiêu cực không
nhỏ tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Năng lực sản xuất của các doanh nghiệp công
nghiệp trong 7 tháng năm 2019 đạt mức tăng
khá 9,4% so với cùng kỳ năm trước; tuy nhiên,
thấp hơn mức tăng 10,7% của cùng kỳ năm
2018 nhưng cao hơn mức tăng 7,2% của cùng
kỳ năm 2017 và năm 2016. Trong toàn ngành
công nghiệp, ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo tăng 10,7% so với cùng kỳ; trở thành động
lực quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. Tiếp
đến là ngành khai khoáng tăng nhẹ, tăng 1,1%
nhờ khai thác than tăng cao, bù đắp cho sự sụt
giảm của khai thác dầu thô; sản xuất và phân
phối điện tăng 10%, bảo đảm cung cấp đủ điện
cho sản xuất và tiêu dùng của nhân dân; ngành
cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng
7,6%. Trong các ngành công nghiệp, một số
ngành có chỉ số sản xuất 7 tháng tăng cao so với
cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng
trưởng chung của toàn ngành công nghiệp, đó
là: sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế
tăng 48%; sản xuất kim loại tăng 40,6%; khai
thác quặng kim loại tăng 16,8%; sản xuất sản
phẩm từ cao su và plastic tăng 15,6%...
Một số ngành có mức tăng thấp hoặc
giảm như: sản xuất sản phẩm điện tử, máy
tính và sản phẩm quang học tăng 3,2% (cùng
kỳ năm trước tăng 17%); sản xuất thuốc lá
tăng 1,5%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược
liệu tăng 0,6%; khai thác dầu thô và khí đốt
tự nhiên giảm 2,5%; sản xuất phương tiện
vận tải khác (mô tô, xe máy) giảm 5,6%...
7 tháng năm nay, một số sản phẩm công nghiệp
tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: sắt, thép
thô tăng 57,1%; xăng, dầu tăng 45,1%; tivi tăng
23,9%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 16,4%; thức
ăn cho thủy sản tăng 14,8%; sơn hóa học tăng
13,4%; điện thoại di động tăng 12,7% (điện
thoại thông minh tăng 15,2%)
Số lao động đang làm việc trong các doanh
nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/7/2019 tăng
1,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng
1,9% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó,
lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm
0,8%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,4%;
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
tăng 2,7%. Bên cạnh đó, số lao động đang làm
việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng
giảm 0,6% so với cùng thời điểm năm trước;
ngành chế biến, chế tạo tăng 2%; ngành sản xuất
và phân phối điện tăng 3,7%; ngành cung cấp
nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,2% và
theo dự báo, ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo khó tăng cao 6 tháng cuối năm 2019, bởi
ngành khó duy trì tốc độ tăng trưởng cao như
cùng giai đoạn 2018. Bên cạnh đó, một số ngành
hàng xuất khẩu chủ lực không còn duy trì đà
tăng như trước.
Mặt khác, dòng vốn FDI đổ vào ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo trong nửa đầu năm tăng
gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm tới
71% tỷ trọng cơ cấu vốn đầu tư.
Tuy nhiên, năng lực sản xuất cũng như tiếp
cận thị trường của các doanh nghiệp trong ngành
còn thiếu và yếu:
Thứ nhất, khả năng tiếp cận thị trường của
doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, thị
trường xuất khẩu của đa số các doanh nghiệp
hạn hẹp, DNNVV chủ yếu xuất khẩu gián tiếp
qua các doanh nghiệp lớn.
Thứ hai, phần lớn năng lực quản lý của
doanh nghiệp còn yếu kém, doanh nghiệp chưa
có chiến lược tầm nhìn dài hạn để phát triển.
Hiểu biết về pháp luật trong kinh doanh hay khả
TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Soá 11 (196) - 2019
87Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
năng nắm bắt thị trường, kỹ năng đàm phán chưa
cao nên dễ gặp rủi ro trong sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, hầu hết các DNNVV Việt Nam trong
ngành thường gặp khó khăn về nguồn vốn và
khả năng huy động vốn, do đó ảnh hưởng không
nhỏ đến khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh
và đầu tư vào trang thiết bị hiện đại để nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm.
Thứ tư, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu
có trình độ khoa học công nghệ, trang thiết bị
lạc hậu, tay nghề đội ngũ lao động thấp nên chất
lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ chưa cao, tỷ lệ
phế phẩm nhiều dẫn đến hạn chế năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Thứ năm, môi trường kinh doanh như thể
chế, chính sách chưa có sự chặt chẽ, còn bộc lộ
nhiều bất cập. Cơ sở hạ tầng chưa phát triển dẫn
đến gia tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp.
Có nhiều nhân tố bên ngoài chưa thực sự tạo
môi trường thuận lợi để doanh nghiệp Việt Nam
phát triển.
Thứ sáu, sự kết nối kinh doanh giữa
doanh nghiệp FDI và khu vực doanh nghiệp
tư nhân trong nước vẫn còn mờ nhạt, hiệu
ứng lan toả về công nghệ và năng suất lao
động từ các đối tác nước ngoài đến các
doanh nghiệp trong nước còn rất hạn chế.
Theo kết quả điều tra chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh (PCI), chỉ có khoảng từ 14-15%
doanh nghiệp tư nhân đang có khách hàng
là các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại
Việt Nam. Mặc dù, tỷ lệ này cũng có dấu hiệu
cải thiện theo thời gian, song rất chậm chạp.
Còn từ phía các doanh nghiệp FDI thì việc liên
kết hàng dọc với các công ty trong nước rất yếu.
Theo thống kê, chỉ 26,6% đầu vào của khu vực
này được mua tại Việt Nam; trong đó, một tỷ lệ
đáng kể là mua từ chính các doanh nghiệp FDI
khác. Các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh
vực sản xuất công nghệ cao thường có xu hướng
nhập khẩu hàng hóa đầu vào từ nước mình hơn
là việc sử dụng hàng hóa từ nhà cung cấp là các
doanh nghiệp tư nhân trong nước. Vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài là một động lực chính thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu. Với sự dẫn dắt của đầu
tư nước ngoài, xuất khẩu đã tăng trưởng mạnh
mẽ. Tuy nhiên, nhập khẩu còn tăng mạnh hơn để
phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu và nhu cầu nội
địa. Giá trị gia tăng của khu vực xuất khẩu còn
thấp. Năng suất của các khu vực khác trong nền
kinh tế còn khoảng cách khá xa so với năng suất
của khu vực FDI.
Một số khuyến nghị
Trong báo cáo năng lực của cạnh tranh toàn
cầu, Việt Nam vẫn đang xếp sau 5 quốc gia trong
ASEAN. Mục tiêu của Việt Nam là nằm trong
top 3 quốc gia cạnh tranh trong khu vực vào năm
2030. Để đạt được điều này, Việt Nam cần nâng
cao năng lực nội địa, tăng cường liên kết khu
vực FDI với hệ thống sản xuất trong nước, đồng
thời thúc đẩy năng suất và trình độ lao động, tập
trung vào lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao.
Thứ nhất, Việt Nam cần nâng cao năng lực
nội địa hóa:
Về phía doanh nghiệp: Do tỷ lệ DN Việt Nam
tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu còn thấp
nên tiềm năng, “khoảng trống” cho các DN Việt
tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu để phát
triển bền vững là rất lớn và DN cần tận dụng
các cơ hội này. Để kết nối thành công vào chuỗi
cung ứng toàn cầu, bước đầu tiên DN Việt cần
tìm hiểu kỹ lưỡng yêu cầu của bên mua về nhiều
khía cạnh như chất lượng, số lượng, thời gian
giao hàng, hay các yêu cầu về dịch vụ khách
hàng, tiêu chuẩn về lao động, môi trường....
Trên cơ sở đó, các bước tiếp theo, DN cần cân
nhắc khả năng cung ứng của mình; xác định,
xem xét sự khác biệt giữa khả năng cung ứng
của DN mình so với nhu cầu của bên mua (DN
nước ngoài) là gì để ưu tiên bổ sung sự thiếu
hụt; cần có những chiến lược bài bản để nâng
cao năng lực cạnh tranh của DN, khả năng cạnh
tranh của sản phẩm; cần bố trí nguồn lực để đầu
tư, đổi mới trang thiết bị, công nghệ hiện đại
giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm;
sản xuất tinh gọn để tối ưu hóa chi phí sản xuất,
giúp sản phẩm có giá thành cạnh tranh
Về phía Chính phủ: Chính phủ Việt Nam
cần tăng cường các chính sách cũng như hiệu
quả thực thi chính sách để thúc đẩy ngành công
nghiệp hỗ trợ trong nước phát triển, qua đó tăng
tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm Việt Nam. Hiện
giá trị nội địa hóa trong xuất khẩu thông qua
chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam là 115 tỷ
TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄPSoá 11 (196) - 2019
88 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
USD. Tiềm năng tăng trưởng cho Việt Nam qua
việc tăng cường chuỗi cung ứng trong nước là
58 tỷ USD. Điều đó cho thấy, khi nội địa hóa
tăng thì nền kinh tế và DN Việt mới thu được
nhiều lợi ích hơn từ việc tham gia vào các chuỗi
cung ứng toàn cầu.
Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cần thực hiện
hiệu quả các chính sách hỗ trợ nâng cao năng
lực cho DN, hỗ trợ DN quảng bá sản phẩm, xúc
tiến thương mại tìm kiếm đối tác, hỗ trợ kết nối
giữa DN trong nước và DNNN
Thứ hai, tăng cường liên kết khu vực FDI
với hệ thống sản xuất trong nước
Tổng kết 30 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) của Việt Nam đã cho thấy những nỗ
lực vượt bậc. Thành quả đem lại không chỉ giúp
thay đổi diện mạo của nền kinh tế; cải thiện đời
sống và tăng thu nhập bình quân của người lao
động, mà còn thúc đẩy sự phát triển của một số
ngành, lĩnh vực; trong đó, đặc biệt là xuất, nhập
khẩu và dịch vụ; góp phần từng bước hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường hiện đại.
Để tăng mức độ kết nối chặt chẽ giữa doanh
nghiệp FDI và khu vực tư nhân hơn nữa cần cải
thiện hiệu quả hoạt động đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp trong
nước cần đào tạo lao động tốt hơn để nắm bắt
được công nghệ mới. Nhà nước cần hỗ trợ họ
trong công tác này, bởi lẽ chỉ trông chờ vào sự
tự thân của doanh nghiệp là rất khó, nhất là với
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn đã rất yếu
và thiếu nguồn lực. Bên cạnh đó, cần có giải
pháp đột phá và thực tế để cải thiện cũng như
thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ của
các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp
FDI như là cung cấp dịch vụ tư vấn công nghệ
hiệu quả, vận hành quỹ phát triển công nghệ, sử
dụng các chính sách về thuế, tài chính để khuyến
khích đầu tư công nghệ cao...
Thứ ba, thúc đẩy năng suất và trình độ lao
động tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, công
nghệ cao.
Để nâng cao kỹ năng nghề cho lực lượng lao
động hướng tới mục tiêu thúc đẩy việc làm có
năng suất thực sự hiệu quả đáp ứng nhu cầu hiện
tại và tương lai của thị trường lao động, theo
chúng tôi cần tập trung thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: (i) Một là, thực hiện đổi mới, phát
triển dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng dạy
nghề để “hình thành đội ngũ lao động có tay
nghề cao, trước hết cho các ngành kinh tế mũi
nhọn, các vùng kinh tế trọng điểm, góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội
nhập quốc tế”, phục vụ mục tiêu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; và (ii) Hai là, đẩy
mạnh thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
lao động nông thôn đến năm 2020, nhằm nâng
cao trình độ kỹ năng nghề, nâng cao chất lượng,
năng suất và tính cạnh tranh của sản xuất nông
nghiệp góp phần bổ sung nhân lực vào lực lượng
lao động có tay nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và cơ cấu lao động đảm bảo phát triển bền vững
và an sinh xã hội.
Xây dựng hệ thống các chính sách khuyến
khích doanh nghiệp tham gia tích cực vào hoạt
động dạy nghề, thiết lập một mối liên kết chặt
chẽ, phù hợp giữa các chương trình đào tạo nghề
với các yêu cầu về kỹ năng mà thị trường lao
động đang cần, tăng cường hợp tác quốc tế, trao
đổi kinh nghiệm về hoạt động dạy nghề; sử dụng
chương trình dạy nghề, tiêu chuẩn kỹ năng nghề
của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế
giới; khuyến khích hợp tác, đầu tư của nước
ngoài vào dạy nghề ở Việt Nam; hài hòa các tiêu
chuẩn kỹ năng của các nước trong khu vực để
tiến tới xây dựng cơ chế công nhận lẫn nhau về
trình độ kỹ năng nghề của người lao động trong
ASEAN./.
Tài liệu tham khảo:
Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam, Viện nghiên cứu
quản lý kinh tế trung ương.
TS.Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và nghiên
cứu BIDV/nhadautu.vn “Việt Nam cần làm gì để tiếp tục cải
thiện năng lực cạnh tranh trong những năm tới”.
Phan Trang “Công nghiệp chế biến, chế tạo: Vẫn còn
nhiều dư địa trong năm 2019”.
Kinh-te/Cong-nghiep-che-bien-che-tao-Van-con-nhieu-du-
dia-trong-nam-2019/364102.vgp
Thế Hải “Tăng trưởng sản xuất của ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo chưa đạt như kỳ vọng. https://baodautu.
vn/tang-truong-san-xuat-cua-nganh-cong-nghiep-che-
bien-che-tao-chua-dat-nhu-ky-vong-d103738.html
https://vtv.vn/kinh-te/viet-nam-tang-27-bac-trong-
bang-xep-hang-nang-luc-canh-tranh-cong-nghiep-toan-
cau-20191023102620422.htm
TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Soá 11 (196) - 2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_nang_luc_san_xuat_cua_doanh_nghiep_yeu_cau_de_kinh.pdf