(2) Nâng cao hiệu quả kỹ
thuật trong các doanh nghiệp
bằng việc đưa vào các giải pháp
quản lý, phát triển kỹ năng, tổ
chức sản xuất hiệu quả. Ngoài
đầu tư đổi mới công nghệ, để sử
dụng hiệu quả công nghệ mới,
tiên tiến, ở các doanh nghiệp
cũng cần tới các giải pháp nâng
cao hiệu quả của ứng dụng khoa
học công nghệ. Đó là các giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý,
trình độ lao động và tạo điều kiện
về môi trường kinh doanh.
Những năm qua, Chương trình
nâng cao năng suất chất lượng
sản phẩm hàng hóa của các
doanh nghiệp đã một phần hỗ trợ
thực hiện mục tiêu nêu trên, đặc
biệt đã truyền bá được ý nghĩa
của việc nâng cao năng suất,
tạo nhận thức trong cộng đồng
về năng suất, nhưng số doanh
nghiệp tiếp cận được với Chương
trình chưa nhiều và chưa liên kết
được việc ứng dụng các hệ thống
quản lý tiên tiến, công cụ cải tiến
năng suất với đổi mới sáng tạo
và đổi mới công nghệ nên chưa
tạo ra được những thay đổi đột
phá. Vì vậy, cần xây dựng được
cơ chế gắn kết các chương trình
hỗ trợ khác nhau, ví dụ, khi doanh
nghiệp nhận được các chương
trình hỗ trợ đổi mới công nghệ thì
cần đi kèm với các chương trình
đổi mới hệ thống quản trị hoặc
các chương trình đào tạo kỹ thuật.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 499 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao năng suất lao động dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 1+2 năm 2021
NSLĐ và tốc độ tăng NSLĐ của Việt 
Nam 
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, 
GDP bình quân đầu người của 
Việt Nam đã tăng gấp 5 lần, chủ 
yếu dựa vào tăng NSLĐ, đồng 
thời, hơn một nửa dân số đã thoát 
khỏi nghèo đói, chất lượng cuộc 
sống được cải thiện đáng kể. Mặc 
dù đã có nhiều thành tựu, nhưng 
vẫn còn một chặng đường khá 
dài để Việt Nam có thể bắt kịp 
các nền kinh tế phát triển. Theo 
số liệu của Quỹ tiền tệ quốc tế, 
GDP bình quân đầu người của 
Việt Nam tính theo sức mua 
tương đương năm 2020 khoảng 
10.755 USD/người, đứng thứ 106 
trên thế giới, tăng 6 bậc so với 
năm trước. 
Cơ cấu lao động của Việt Nam 
cũng có những thay đổi đáng 
kể. Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực 
nông nghiệp giảm gần một nửa, 
từ 71% năm 1991 xuống 33% 
vào năm 2020, trong khi đó, lĩnh 
vực dịch vụ tăng từ 19 lên 36% 
và công nghiệp - xây dựng tăng 
từ 10 lên 31%. 
Về tốc độ tăng năng suất lao 
động, bình quân giai đoạn 2016-
2020, NSLĐ của Việt Nam tăng 
5,77%, cao hơn mức tăng bình 
quân 4,35% của giai đoạn 2011-
2015, đạt mục tiêu tăng NSLĐ 
bình quân hàng năm được đưa 
ra trong Nghị quyết số 05-NQ/
TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp 
hành Trung ương Đảng khóa 
XII: “Giai đoạn 2016-2020: tốc 
độ tăng NSLĐ bình quân hàng 
năm cao hơn 5,5%”. Tính chung 
giai đoạn 2011-2020, NSLĐ bình 
quân tăng 5,06%/ năm1.
Trong thập kỷ qua, Việt Nam 
có tốc độ tăng NSLĐ cao nhất 
khối ASEAN và cũng là một trong 
những nước có tốc độ tăng năng 
suất cao nhất ở châu Á. Trong 
khi các nước trong khu vực như 
Singapore, Thái Lan, Malaysia 
đang duy trì một tốc độ tăng năng 
suất vừa phải, còn các nước phát 
triển như Nhật Bản đang có chiều 
Nâng cao năng suất lao động dựa trên khoa học, công nghệ 
và đổi mới sáng tạo
Nguyễn Thị Lê Hoa, Lê Xuân Biên
Viện Năng suất Việt Nam 
Trong thập kỷ qua, Việt Nam có tốc độ tăng năng suất lao động cao nhất khối ASEAN và cũng là một 
trong những nước có tốc độ tăng năng suất cao nhất ở châu Á. Mặc dù vậy, so với các nước dẫn đầu 
chúng ta vẫn còn khoảng cách khá xa. Với xu hướng hội nhập quốc tế và tác động của cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành nền 
tảng quan trọng nâng cao năng suất trong thập kỷ tới. 
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng năng suất cao nhất ở châu Á. 
1Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và 
năm 2020, ww.gso.gov.vn.
35
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 1+2 năm 2021
Hình 2. NSLĐ của Việt Nam so với các nước ASEAN và một số nước châu Á (2019).
Nguồn: Total Economy database, The Conference Board.
hướng giảm thì Việt Nam có tốc 
độ tăng năng suất nổi bật (hình 1). 
Hình 1. Tốc độ tăng NSLĐ bình quân 
năm giai đoạn 2011-2015 và 2016-
2019.
Nguồn: Total Economy database, The 
Conference Board. 
Mặc dù dẫn đầu về tốc độ 
tăng NSLĐ và sau 2 thập kỷ, 
NSLĐ của Việt Nam đã tăng 
gấp ba lần, khoảng cách với các 
nước đã được thu hẹp đáng kể, 
nhưng NSLĐ của Việt Nam vẫn 
ở nhóm thấp trong khu vực châu 
Á (hình 2). Điều này đang đặt ra 
cho chúng ta nhiệm vụ phải tăng 
cường cải thiện NSLĐ trong thời 
gian tới. 
CMCN 4.0 là cơ hội cải thiện NSLĐ
Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 
27/9/2019 của Bộ Chính trị về 
một số chủ trương, chính sách 
chủ động tham gia cuộc CMCN 
4.0 đặt ra mục tiêu tăng NSLĐ 
bình quân trên 7%/năm giai đoạn 
đến năm 2025 và tăng trên 7,5%/
năm giai đoạn đến năm 2030. 
Đây là một thách thức lớn, cần có 
các giải pháp thúc đẩy năng suất 
toàn diện. 
CMCN 4.0 với các công nghệ 
đột phá như trí tuệ nhân tạo đang 
làm thay đổi các hệ thống sản 
xuất toàn cầu. Các quy trình của 
nhà máy và việc quản lý chuỗi 
cung ứng toàn cầu đều bị ảnh 
hưởng. Điều này đang tạo ra một 
làn sóng cạnh tranh mới giữa các 
quốc gia, nếu đi đúng hướng, 
CMCN 4.0 có thể giúp tăng năng 
suất 30-40% (theo đánh giá của 
Diễn đàn kinh tế thế giới).
Trong số các khía cạnh động 
lực cho sản xuất, công nghệ và 
đổi mới là một yếu tố quyết định 
cho sản xuất trong tương lai, vì 
việc áp dụng và phổ biến các 
công nghệ mới nổi là mấu chốt 
của CMCN 4.0. 
Theo đánh giá của Diễn đàn 
kinh tế thế giới (2018) về sự sẵn 
sàng cho công nghệ và đổi mới 
cho sản xuất trong tương lai, Việt 
Nam đạt 3,09 điểm, đứng thứ 
90/100 nước. Điều này cũng nói 
lên rằng, Việt Nam còn nhiều việc 
cần phải làm cho việc xúc tiến 
công nghệ và đổi mới để chuẩn 
bị cho sản xuất trong tương lai.
Cuộc CMCN 4.0 với sự ra đời 
của những công nghệ mới và 
những sáng tạo có tầm bao phủ 
rộng đang lan tỏa nhanh chóng 
và rộng rãi hơn nhiều so với các 
cuộc cách mạng trước đó. Trong 
bối cảnh đó, công nghệ và đổi 
mới sáng tạo sẽ sớm giải phóng 
để tạo ra sự bùng nổ về năng 
suất và tăng trưởng kinh tế cao 
hơn. Quy luật cạnh tranh của nền 
kinh tế trong CMCN 4.0 sẽ khác 
với các thời kỳ trước. Để có được 
lợi thế cạnh tranh, quốc gia phải 
đi đầu trong đổi mới sáng tạo.
Về chỉ số đổi mới sáng tạo, 
theo báo cáo Chỉ số đổi mới sáng 
tạo toàn cầu GII của Tổ chức Sở 
hữu trí tuệ thế giới (WIPO), năm 
2020 Việt Nam đứng thứ 42 trên 
131 quốc gia/nền kinh tế, đứng 
thứ 3 trong khối ASEAN (chỉ 
sau Singapore và Malaysia), thứ 
hạng này đã cải thiện 20 bậc so 
với xếp hạng năm 2016 và đưa 
Việt Nam vươn lên xếp thứ nhất 
trong nhóm 26 quốc gia thu nhập 
trung bình thấp.
Trong suốt quá trình thực hiện 
cải cách từ những năm 90 của thế 
kỷ trước, Việt Nam đã nỗ lực rất 
nhiều để chuyển đổi hệ thống đổi 
mới sáng tạo, tìm kiếm con đường 
tăng trưởng và phát triển bền 
vững. Theo xu hướng này, Chiến 
lược phát triển kinh tế - xã hội của 
Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã 
36
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 1+2 năm 2021
nhấn mạnh tầm quan trọng của 
đổi mới sáng tạo và KH&CN. 
Chiến lược nêu rõ “Hướng trọng 
tâm hoạt động khoa học, công 
nghệ vào phục vụ công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá, phát triển theo 
chiều sâu góp phần tăng nhanh 
năng suất, chất lượng, hiệu quả 
và nâng cao sức cạnh tranh của 
nền kinh tế. Thực hiện đồng bộ 
các nhiệm vụ: nâng cao năng lực, 
đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh 
ứng dụng khoa học và công nghệ, 
tăng cường hội nhập quốc tế về 
khoa học, công nghệ”.
Sau một thập kỷ thực hiện 
Chiến lược, các chỉ tiêu đầu vào 
của nghiên cứu và phát triển như 
số lượng các bài báo khoa học, số 
bằng sáng chế đã được cải thiện. 
Năng lực đổi mới, ngoài việc tích 
lũy kiến thức từ các nghiên cứu và 
hoạt động sáng chế, còn thể hiện 
năng lực của một quốc gia khuyến 
khích sự sáng tạo, sự tương tác 
và hợp tác giữa các cá nhân và tổ 
chức, khả năng thương mại hóa 
các sản phẩm mới. Mặc dù về 
năng lực cho đổi mới đã được cải 
thiện nhiều, nhưng các chỉ số vẫn 
cần được tiếp tục cải thiện để đổi 
mới, sáng tạo trở thành động lực 
cho phát triển kinh tế trong giai 
đoạn tới theo đúng chủ trương đổi 
mới mô hình tăng trưởng của Việt 
Nam. 
Bằng các nỗ lực mở cửa nền 
kinh tế và thu hút đầu tư nước 
ngoài, chúng ta đã thành công 
trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh 
tế từ các ngành công nghiệp giá 
trị gia tăng thấp như dệt may sang 
các ngành công nghiệp có giá trị 
gia tăng cao như điện tử và viễn 
thông, công nghiệp chế biến chế 
tạo. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
đã góp phần cải thiện năng suất 
trên cả nước, đồng thời cũng là 
cơ hội cho các doanh nghiệp nội 
địa hội nhập vào chuỗi giá trị toàn 
cầu và mở rộng thị trường.
Chiến lược công nghiệp hóa 
hướng vào thu hút vốn đầu tư trực 
tiếp từ nước ngoài đã thúc đẩy 
hoạt động xuất khẩu tăng trưởng 
đáng kể. Tổng kim ngạch xuất 
khẩu tăng từ 14,4 tỷ USD năm 
2000 lên 264,2 tỷ USD năm 2019, 
chiếm 1,2% tổng kim ngạch xuất 
khẩu của thế giới. Tuy nhiên, hoạt 
động xuất khẩu bị chi phối bởi 
các doanh nghiệp có vốn đầu tư 
nước ngoài (FDI). Kim ngạch xuất 
khẩu của các doanh nghiệp FDI 
vượt qua doanh nghiệp nội địa, 
khoảng cách này ngày càng mở 
rộng cho thấy sự phụ thuộc ngày 
càng lớn vào các doanh nghiệp 
FDI, trong xuất khẩu chủ yếu ở 
ngành công nghiệp chế biến chế 
tạo2.
Khoảng cách về NSLĐ giữa 
các doanh nghiệp FDI và các 
doanh nghiệp nội địa của Việt 
Nam là trên 30% (tính toán của 
Viện Năng suất Việt Nam năm 
2019). Khoảng cách này liên 
quan đến quyền sở hữu cũng như 
trình độ công nghệ. Đây cũng là 
một hạn chế đối với vấn đề tăng 
trưởng trong tương lai của Việt 
Nam. 
Cần những giải pháp, chính sách hiệu 
quả thúc đẩy khoa học, công nghệ và 
đổi mới sáng tạo để nâng cao NSLĐ
Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 
27/9/2019 của Bộ Chính trị đưa ra 
tầm nhìn đến năm 2045 Việt Nam 
trở thành một trong những trung 
Các chuyên gia năng suất Hàn Quốc chia sẻ kinh nghiệm nâng cao NSLĐ trong 
doanh nghiệp với Viện Năng suất Việt Nam. 
2Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV 
năm 2020 và Tổng quan hoạt động xuất 
khẩu năm 2019.
37
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 1+2 năm 2021
tâm sản xuất và dịch vụ thông 
minh, trung tâm khởi nghiệp đổi 
mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn 
đầu khu vực châu Á; có NSLĐ 
cao, có đủ năng lực làm chủ và 
áp dụng công nghệ hiện đại trong 
tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, 
môi trường, quốc phòng, an ninh. 
Hiện tại, trên thế giới đã có 
khoảng gần 40 nước đang ở giai 
đoạn nền kinh tế hướng vào đổi 
mới, trong đó có 4 nước/vùng lãnh 
thổ châu Á gồm Nhật Bản, Hàn 
Quốc, Đài Loan và Singapore. 
Nâng cao năng suất dựa trên 
khoa học, công nghệ, đổi mới 
sáng tạo sẽ thúc đẩy phát triển 
nền kinh tế của Việt Nam chuyển 
sang hướng nền kinh tế đổi mới. 
Để làm được điều này, Việt Nam 
cần chú ý các biện pháp cốt lõi 
như: 
Một là, cần xây dựng một kế 
hoạch tổng thể nâng cao NSLĐ 
dựa trên khoa học, công nghệ và 
đổi mới sáng tạo. Trong đó, chú 
trọng sự liên kết bộ, ngành, địa 
phương và các thành phần kinh 
tế nhằm xây dựng các chương 
trình nâng cao năng suất, phát 
triển khoa học, công nghệ, đổi 
mới sáng tạo xuyên suốt.
Cho đến nay, được sự quan 
tâm của Chính phủ, nhiều chương 
trình KH&CN, đổi mới sáng tạo, 
thúc đẩy năng suất đã được triển 
khai thực hiện ở các bộ, ngành, 
nhưng các hoạt động tương đối 
độc lập, thiếu sự liên kết. Để thực 
hiện hiệu quả các chính sách, sự 
phối hợp giữa các bộ, ngành, địa 
phương và các thành phần kinh 
tế là rất quan trọng. 
KH&CN, đổi mới sáng tạo 
vừa là chìa khóa quan trọng tăng 
NSLĐ trong nội tại nền kinh tế, 
vừa là yếu tố nền tảng quyết định 
năng lực của một quốc gia trong 
việc nâng cao chất lượng đời 
sống của người dân. Vì vậy, trong 
giai đoạn tới, các chính sách thúc 
đẩy năng suất cần tác động toàn 
diện, tích cực và đồng bộ tới hệ 
thống đổi mới sáng tạo quốc gia, 
gồm chính sách đối với các viện 
nghiên cứu, trường đại học thúc 
đẩy hoạt động nghiên cứu tạo 
ra tri thức, công nghệ và chính 
sách đối với các doanh nghiệp để 
doanh nghiệp thực sự phát huy vị 
trí trung tâm của hệ thống đổi mới 
sáng tạo, phát huy vai trò trụ đỡ 
của nền kinh tế.
Hai là, xây dựng chính sách 
khuyến khích doanh nghiệp đổi 
mới sáng tạo, nâng cao năng 
suất. 
Để nâng cấp vị thế quốc gia 
trong chuỗi giá trị toàn cầu, bắt 
buộc phải có hàng loạt các công 
ty đổi mới, sáng tạo quan trọng 
chứ không nhất thiết là các công 
ty mới khởi nghiệp trong các 
ngành công nghệ cao như công 
nghệ thông tin, công nghệ sinh 
học, công nghệ nano. Các doanh 
nghiệp nhà nước truyền thống, 
doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần 
được nâng cấp để trở thành các 
công ty đổi mới, sáng tạo. Theo 
đó, để hàng hoá, dịch vụ của Việt 
Nam có thể cạnh tranh, hội nhập 
trong bối cảnh toàn cầu hoá, thì 
doanh nghiệp cần phải triển khai 
các hoạt động nghiên cứu phát 
triển, đưa doanh nghiệp trở thành 
trung tâm của hệ thống đổi mới 
sáng tạo quốc gia. Mỗi loại hình 
doanh nghiệp, cần có những 
chính sách, biện pháp phù hợp 
Chia sẻ mô hình đào tạo kết hợp với thực hành mô phỏng sản xuất và quản lý tự 
động tại Trung tâm Đào tạo (Đài Loan) cho các doanh nghiệp Việt Nam.
38
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 1+2 năm 2021
để thúc đẩy hoạt động KH&CN, 
đổi mới sáng tạo trong doanh 
nghiệp, cụ thể như sau:
- Nhóm những doanh nghiệp 
quy mô lớn đi đầu, dẫn dắt những 
doanh nghiệp vệ tinh, doanh 
nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp 
khởi nghiệp: chính sách cần tập 
trung vào khuyến khích tiếp cận, 
đổi mới KH&CN, khuyến khích 
đầu tư cho nghiên cứu và phát 
triển.
- Nhóm doanh nghiệp nhỏ và 
vừa: tập trung vào nâng cao năng 
lực hấp thụ công nghệ, ứng dụng 
và đổi mới công nghệ.
- Nhóm các doanh nghiệp 
KH&CN, doanh nghiệp công nghệ 
cao: tạo điều kiện thuận lợi cho 
việc đăng ký và hoạt động để tiếp 
nhận các ưu đãi theo luật, hỗ trợ 
giao tài sản hình thành từ nhiệm 
vụ KH&CN để thương mại hóa kết 
quả nghiên cứu và phát triển công 
nghệ, li-xăng công nghệ. 
- Nhóm doanh nghiệp khởi 
nghiệp đổi mới sáng tạo (có tiềm 
năng tăng trưởng nhanh dựa trên 
việc khai thác tài sản trí tuệ): 
chính sách tập trung vào hỗ trợ 
hình thành, kêu gọi đầu tư, nâng 
cao năng lực.
Ba là, nâng cao năng lực hấp 
thụ tiến bộ công nghệ.
Ở Việt Nam, doanh nghiệp vừa 
và nhỏ chiếm đến 98% tổng số 
doanh nghiệp cả nước, trong đó 
doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ 
chiếm 74%. Các doanh nghiệp 
quy mô nhỏ thường thiếu và yếu 
trong công tác đào tạo, tập huấn 
người lao động, cũng như hệ 
thống quản trị để có thể vận hành 
được công nghệ mới, hiện đại. Vì 
vậy, cần có một số hỗ trợ mang 
tính nền tảng cho việc hấp thụ 
công nghệ ở các doanh nghiệp, 
bao gồm các hoạt động:
(1) Đầu tư, phát triển vốn con 
người: cải thiện giáo dục và đào 
tạo, đào tạo nghề và phát triển 
kỹ năng. Các chương trình đào 
tạo ở các cấp cần có sự cập nhật 
nhanh chóng xu hướng công 
nghệ. Trong bối cảnh CMCN 4.0 
đang diễn ra (với sự phát triển 
của công nghệ số, công nghệ 
sinh học, vật liệu mới, năng lượng 
và môi trường) thì các chương 
trình học tập ở các cấp phổ thông 
hoặc bậc đại học, cao đẳng cũng 
như đào tạo nghề cần đưa vào 
các kiến thức và kỹ năng cơ bản 
để những người lao động trong 
tương lai hiểu được và có thể tiếp 
cận được công nghệ mới. Việc 
thay đổi các chương trình đào tạo 
cũng cần có sự nghiên cứu và 
cập nhật nhanh chóng để thích 
ứng với những thay đổi với tốc độ 
ngày càng nhanh của nền công 
nghiệp toàn cầu.
 (2) Nâng cao hiệu quả kỹ 
thuật trong các doanh nghiệp 
bằng việc đưa vào các giải pháp 
quản lý, phát triển kỹ năng, tổ 
chức sản xuất hiệu quả. Ngoài 
đầu tư đổi mới công nghệ, để sử 
dụng hiệu quả công nghệ mới, 
tiên tiến, ở các doanh nghiệp 
cũng cần tới các giải pháp nâng 
cao hiệu quả của ứng dụng khoa 
học công nghệ. Đó là các giải 
pháp nâng cao hiệu quả quản lý, 
trình độ lao động và tạo điều kiện 
về môi trường kinh doanh.
Những năm qua, Chương trình 
nâng cao năng suất chất lượng 
sản phẩm hàng hóa của các 
doanh nghiệp đã một phần hỗ trợ 
thực hiện mục tiêu nêu trên, đặc 
biệt đã truyền bá được ý nghĩa 
của việc nâng cao năng suất, 
tạo nhận thức trong cộng đồng 
về năng suất, nhưng số doanh 
nghiệp tiếp cận được với Chương 
trình chưa nhiều và chưa liên kết 
được việc ứng dụng các hệ thống 
quản lý tiên tiến, công cụ cải tiến 
năng suất với đổi mới sáng tạo 
và đổi mới công nghệ nên chưa 
tạo ra được những thay đổi đột 
phá. Vì vậy, cần xây dựng được 
cơ chế gắn kết các chương trình 
hỗ trợ khác nhau, ví dụ, khi doanh 
nghiệp nhận được các chương 
trình hỗ trợ đổi mới công nghệ thì 
cần đi kèm với các chương trình 
đổi mới hệ thống quản trị hoặc 
các chương trình đào tạo kỹ thuật.
Tóm lại, nâng cao NSLĐ dựa 
trên khoa học, công nghệ và đổi 
mới sáng tạo không còn là tuyên 
truyền khẩu hiệu, mà đã được ghi 
trong những văn bản chỉ đạo cao 
nhất của Đảng. Trong bối cảnh 
mới, đây vừa là công cụ, vừa là 
kim chỉ nam để các doanh nghiệp 
bứt phá vươn lên. Đó cũng chính 
là yêu cầu đặt ra đối với tất cả các 
bộ, ngành, địa phương, mọi thành 
phần kinh tế cùng chung tay phát 
triển đất nước nhanh, bền vững ?
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nang_cao_nang_suat_lao_dong_dua_tren_khoa_hoc_cong_nghe_va_d.pdf