(2) Nâng cao hiệu quả kỹ
thuật trong các doanh nghiệp
bằng việc đưa vào các giải pháp
quản lý, phát triển kỹ năng, tổ
chức sản xuất hiệu quả. Ngoài
đầu tư đổi mới công nghệ, để sử
dụng hiệu quả công nghệ mới,
tiên tiến, ở các doanh nghiệp
cũng cần tới các giải pháp nâng
cao hiệu quả của ứng dụng khoa
học công nghệ. Đó là các giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý,
trình độ lao động và tạo điều kiện
về môi trường kinh doanh.
Những năm qua, Chương trình
nâng cao năng suất chất lượng
sản phẩm hàng hóa của các
doanh nghiệp đã một phần hỗ trợ
thực hiện mục tiêu nêu trên, đặc
biệt đã truyền bá được ý nghĩa
của việc nâng cao năng suất,
tạo nhận thức trong cộng đồng
về năng suất, nhưng số doanh
nghiệp tiếp cận được với Chương
trình chưa nhiều và chưa liên kết
được việc ứng dụng các hệ thống
quản lý tiên tiến, công cụ cải tiến
năng suất với đổi mới sáng tạo
và đổi mới công nghệ nên chưa
tạo ra được những thay đổi đột
phá. Vì vậy, cần xây dựng được
cơ chế gắn kết các chương trình
hỗ trợ khác nhau, ví dụ, khi doanh
nghiệp nhận được các chương
trình hỗ trợ đổi mới công nghệ thì
cần đi kèm với các chương trình
đổi mới hệ thống quản trị hoặc
các chương trình đào tạo kỹ thuật.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao năng suất lao động dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 1+2 năm 2021
NSLĐ và tốc độ tăng NSLĐ của Việt
Nam
Trải qua hơn 30 năm đổi mới,
GDP bình quân đầu người của
Việt Nam đã tăng gấp 5 lần, chủ
yếu dựa vào tăng NSLĐ, đồng
thời, hơn một nửa dân số đã thoát
khỏi nghèo đói, chất lượng cuộc
sống được cải thiện đáng kể. Mặc
dù đã có nhiều thành tựu, nhưng
vẫn còn một chặng đường khá
dài để Việt Nam có thể bắt kịp
các nền kinh tế phát triển. Theo
số liệu của Quỹ tiền tệ quốc tế,
GDP bình quân đầu người của
Việt Nam tính theo sức mua
tương đương năm 2020 khoảng
10.755 USD/người, đứng thứ 106
trên thế giới, tăng 6 bậc so với
năm trước.
Cơ cấu lao động của Việt Nam
cũng có những thay đổi đáng
kể. Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp giảm gần một nửa,
từ 71% năm 1991 xuống 33%
vào năm 2020, trong khi đó, lĩnh
vực dịch vụ tăng từ 19 lên 36%
và công nghiệp - xây dựng tăng
từ 10 lên 31%.
Về tốc độ tăng năng suất lao
động, bình quân giai đoạn 2016-
2020, NSLĐ của Việt Nam tăng
5,77%, cao hơn mức tăng bình
quân 4,35% của giai đoạn 2011-
2015, đạt mục tiêu tăng NSLĐ
bình quân hàng năm được đưa
ra trong Nghị quyết số 05-NQ/
TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa
XII: “Giai đoạn 2016-2020: tốc
độ tăng NSLĐ bình quân hàng
năm cao hơn 5,5%”. Tính chung
giai đoạn 2011-2020, NSLĐ bình
quân tăng 5,06%/ năm1.
Trong thập kỷ qua, Việt Nam
có tốc độ tăng NSLĐ cao nhất
khối ASEAN và cũng là một trong
những nước có tốc độ tăng năng
suất cao nhất ở châu Á. Trong
khi các nước trong khu vực như
Singapore, Thái Lan, Malaysia
đang duy trì một tốc độ tăng năng
suất vừa phải, còn các nước phát
triển như Nhật Bản đang có chiều
Nâng cao năng suất lao động dựa trên khoa học, công nghệ
và đổi mới sáng tạo
Nguyễn Thị Lê Hoa, Lê Xuân Biên
Viện Năng suất Việt Nam
Trong thập kỷ qua, Việt Nam có tốc độ tăng năng suất lao động cao nhất khối ASEAN và cũng là một
trong những nước có tốc độ tăng năng suất cao nhất ở châu Á. Mặc dù vậy, so với các nước dẫn đầu
chúng ta vẫn còn khoảng cách khá xa. Với xu hướng hội nhập quốc tế và tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành nền
tảng quan trọng nâng cao năng suất trong thập kỷ tới.
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng năng suất cao nhất ở châu Á.
1Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và
năm 2020, ww.gso.gov.vn.
35
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 1+2 năm 2021
Hình 2. NSLĐ của Việt Nam so với các nước ASEAN và một số nước châu Á (2019).
Nguồn: Total Economy database, The Conference Board.
hướng giảm thì Việt Nam có tốc
độ tăng năng suất nổi bật (hình 1).
Hình 1. Tốc độ tăng NSLĐ bình quân
năm giai đoạn 2011-2015 và 2016-
2019.
Nguồn: Total Economy database, The
Conference Board.
Mặc dù dẫn đầu về tốc độ
tăng NSLĐ và sau 2 thập kỷ,
NSLĐ của Việt Nam đã tăng
gấp ba lần, khoảng cách với các
nước đã được thu hẹp đáng kể,
nhưng NSLĐ của Việt Nam vẫn
ở nhóm thấp trong khu vực châu
Á (hình 2). Điều này đang đặt ra
cho chúng ta nhiệm vụ phải tăng
cường cải thiện NSLĐ trong thời
gian tới.
CMCN 4.0 là cơ hội cải thiện NSLĐ
Nghị quyết 52-NQ/TW ngày
27/9/2019 của Bộ Chính trị về
một số chủ trương, chính sách
chủ động tham gia cuộc CMCN
4.0 đặt ra mục tiêu tăng NSLĐ
bình quân trên 7%/năm giai đoạn
đến năm 2025 và tăng trên 7,5%/
năm giai đoạn đến năm 2030.
Đây là một thách thức lớn, cần có
các giải pháp thúc đẩy năng suất
toàn diện.
CMCN 4.0 với các công nghệ
đột phá như trí tuệ nhân tạo đang
làm thay đổi các hệ thống sản
xuất toàn cầu. Các quy trình của
nhà máy và việc quản lý chuỗi
cung ứng toàn cầu đều bị ảnh
hưởng. Điều này đang tạo ra một
làn sóng cạnh tranh mới giữa các
quốc gia, nếu đi đúng hướng,
CMCN 4.0 có thể giúp tăng năng
suất 30-40% (theo đánh giá của
Diễn đàn kinh tế thế giới).
Trong số các khía cạnh động
lực cho sản xuất, công nghệ và
đổi mới là một yếu tố quyết định
cho sản xuất trong tương lai, vì
việc áp dụng và phổ biến các
công nghệ mới nổi là mấu chốt
của CMCN 4.0.
Theo đánh giá của Diễn đàn
kinh tế thế giới (2018) về sự sẵn
sàng cho công nghệ và đổi mới
cho sản xuất trong tương lai, Việt
Nam đạt 3,09 điểm, đứng thứ
90/100 nước. Điều này cũng nói
lên rằng, Việt Nam còn nhiều việc
cần phải làm cho việc xúc tiến
công nghệ và đổi mới để chuẩn
bị cho sản xuất trong tương lai.
Cuộc CMCN 4.0 với sự ra đời
của những công nghệ mới và
những sáng tạo có tầm bao phủ
rộng đang lan tỏa nhanh chóng
và rộng rãi hơn nhiều so với các
cuộc cách mạng trước đó. Trong
bối cảnh đó, công nghệ và đổi
mới sáng tạo sẽ sớm giải phóng
để tạo ra sự bùng nổ về năng
suất và tăng trưởng kinh tế cao
hơn. Quy luật cạnh tranh của nền
kinh tế trong CMCN 4.0 sẽ khác
với các thời kỳ trước. Để có được
lợi thế cạnh tranh, quốc gia phải
đi đầu trong đổi mới sáng tạo.
Về chỉ số đổi mới sáng tạo,
theo báo cáo Chỉ số đổi mới sáng
tạo toàn cầu GII của Tổ chức Sở
hữu trí tuệ thế giới (WIPO), năm
2020 Việt Nam đứng thứ 42 trên
131 quốc gia/nền kinh tế, đứng
thứ 3 trong khối ASEAN (chỉ
sau Singapore và Malaysia), thứ
hạng này đã cải thiện 20 bậc so
với xếp hạng năm 2016 và đưa
Việt Nam vươn lên xếp thứ nhất
trong nhóm 26 quốc gia thu nhập
trung bình thấp.
Trong suốt quá trình thực hiện
cải cách từ những năm 90 của thế
kỷ trước, Việt Nam đã nỗ lực rất
nhiều để chuyển đổi hệ thống đổi
mới sáng tạo, tìm kiếm con đường
tăng trưởng và phát triển bền
vững. Theo xu hướng này, Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã
36
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 1+2 năm 2021
nhấn mạnh tầm quan trọng của
đổi mới sáng tạo và KH&CN.
Chiến lược nêu rõ “Hướng trọng
tâm hoạt động khoa học, công
nghệ vào phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phát triển theo
chiều sâu góp phần tăng nhanh
năng suất, chất lượng, hiệu quả
và nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Thực hiện đồng bộ
các nhiệm vụ: nâng cao năng lực,
đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh
ứng dụng khoa học và công nghệ,
tăng cường hội nhập quốc tế về
khoa học, công nghệ”.
Sau một thập kỷ thực hiện
Chiến lược, các chỉ tiêu đầu vào
của nghiên cứu và phát triển như
số lượng các bài báo khoa học, số
bằng sáng chế đã được cải thiện.
Năng lực đổi mới, ngoài việc tích
lũy kiến thức từ các nghiên cứu và
hoạt động sáng chế, còn thể hiện
năng lực của một quốc gia khuyến
khích sự sáng tạo, sự tương tác
và hợp tác giữa các cá nhân và tổ
chức, khả năng thương mại hóa
các sản phẩm mới. Mặc dù về
năng lực cho đổi mới đã được cải
thiện nhiều, nhưng các chỉ số vẫn
cần được tiếp tục cải thiện để đổi
mới, sáng tạo trở thành động lực
cho phát triển kinh tế trong giai
đoạn tới theo đúng chủ trương đổi
mới mô hình tăng trưởng của Việt
Nam.
Bằng các nỗ lực mở cửa nền
kinh tế và thu hút đầu tư nước
ngoài, chúng ta đã thành công
trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh
tế từ các ngành công nghiệp giá
trị gia tăng thấp như dệt may sang
các ngành công nghiệp có giá trị
gia tăng cao như điện tử và viễn
thông, công nghiệp chế biến chế
tạo. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
đã góp phần cải thiện năng suất
trên cả nước, đồng thời cũng là
cơ hội cho các doanh nghiệp nội
địa hội nhập vào chuỗi giá trị toàn
cầu và mở rộng thị trường.
Chiến lược công nghiệp hóa
hướng vào thu hút vốn đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài đã thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu tăng trưởng
đáng kể. Tổng kim ngạch xuất
khẩu tăng từ 14,4 tỷ USD năm
2000 lên 264,2 tỷ USD năm 2019,
chiếm 1,2% tổng kim ngạch xuất
khẩu của thế giới. Tuy nhiên, hoạt
động xuất khẩu bị chi phối bởi
các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (FDI). Kim ngạch xuất
khẩu của các doanh nghiệp FDI
vượt qua doanh nghiệp nội địa,
khoảng cách này ngày càng mở
rộng cho thấy sự phụ thuộc ngày
càng lớn vào các doanh nghiệp
FDI, trong xuất khẩu chủ yếu ở
ngành công nghiệp chế biến chế
tạo2.
Khoảng cách về NSLĐ giữa
các doanh nghiệp FDI và các
doanh nghiệp nội địa của Việt
Nam là trên 30% (tính toán của
Viện Năng suất Việt Nam năm
2019). Khoảng cách này liên
quan đến quyền sở hữu cũng như
trình độ công nghệ. Đây cũng là
một hạn chế đối với vấn đề tăng
trưởng trong tương lai của Việt
Nam.
Cần những giải pháp, chính sách hiệu
quả thúc đẩy khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo để nâng cao NSLĐ
Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày
27/9/2019 của Bộ Chính trị đưa ra
tầm nhìn đến năm 2045 Việt Nam
trở thành một trong những trung
Các chuyên gia năng suất Hàn Quốc chia sẻ kinh nghiệm nâng cao NSLĐ trong
doanh nghiệp với Viện Năng suất Việt Nam.
2Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV
năm 2020 và Tổng quan hoạt động xuất
khẩu năm 2019.
37
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 1+2 năm 2021
tâm sản xuất và dịch vụ thông
minh, trung tâm khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn
đầu khu vực châu Á; có NSLĐ
cao, có đủ năng lực làm chủ và
áp dụng công nghệ hiện đại trong
tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội,
môi trường, quốc phòng, an ninh.
Hiện tại, trên thế giới đã có
khoảng gần 40 nước đang ở giai
đoạn nền kinh tế hướng vào đổi
mới, trong đó có 4 nước/vùng lãnh
thổ châu Á gồm Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan và Singapore.
Nâng cao năng suất dựa trên
khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo sẽ thúc đẩy phát triển
nền kinh tế của Việt Nam chuyển
sang hướng nền kinh tế đổi mới.
Để làm được điều này, Việt Nam
cần chú ý các biện pháp cốt lõi
như:
Một là, cần xây dựng một kế
hoạch tổng thể nâng cao NSLĐ
dựa trên khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo. Trong đó, chú
trọng sự liên kết bộ, ngành, địa
phương và các thành phần kinh
tế nhằm xây dựng các chương
trình nâng cao năng suất, phát
triển khoa học, công nghệ, đổi
mới sáng tạo xuyên suốt.
Cho đến nay, được sự quan
tâm của Chính phủ, nhiều chương
trình KH&CN, đổi mới sáng tạo,
thúc đẩy năng suất đã được triển
khai thực hiện ở các bộ, ngành,
nhưng các hoạt động tương đối
độc lập, thiếu sự liên kết. Để thực
hiện hiệu quả các chính sách, sự
phối hợp giữa các bộ, ngành, địa
phương và các thành phần kinh
tế là rất quan trọng.
KH&CN, đổi mới sáng tạo
vừa là chìa khóa quan trọng tăng
NSLĐ trong nội tại nền kinh tế,
vừa là yếu tố nền tảng quyết định
năng lực của một quốc gia trong
việc nâng cao chất lượng đời
sống của người dân. Vì vậy, trong
giai đoạn tới, các chính sách thúc
đẩy năng suất cần tác động toàn
diện, tích cực và đồng bộ tới hệ
thống đổi mới sáng tạo quốc gia,
gồm chính sách đối với các viện
nghiên cứu, trường đại học thúc
đẩy hoạt động nghiên cứu tạo
ra tri thức, công nghệ và chính
sách đối với các doanh nghiệp để
doanh nghiệp thực sự phát huy vị
trí trung tâm của hệ thống đổi mới
sáng tạo, phát huy vai trò trụ đỡ
của nền kinh tế.
Hai là, xây dựng chính sách
khuyến khích doanh nghiệp đổi
mới sáng tạo, nâng cao năng
suất.
Để nâng cấp vị thế quốc gia
trong chuỗi giá trị toàn cầu, bắt
buộc phải có hàng loạt các công
ty đổi mới, sáng tạo quan trọng
chứ không nhất thiết là các công
ty mới khởi nghiệp trong các
ngành công nghệ cao như công
nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ nano. Các doanh
nghiệp nhà nước truyền thống,
doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần
được nâng cấp để trở thành các
công ty đổi mới, sáng tạo. Theo
đó, để hàng hoá, dịch vụ của Việt
Nam có thể cạnh tranh, hội nhập
trong bối cảnh toàn cầu hoá, thì
doanh nghiệp cần phải triển khai
các hoạt động nghiên cứu phát
triển, đưa doanh nghiệp trở thành
trung tâm của hệ thống đổi mới
sáng tạo quốc gia. Mỗi loại hình
doanh nghiệp, cần có những
chính sách, biện pháp phù hợp
Chia sẻ mô hình đào tạo kết hợp với thực hành mô phỏng sản xuất và quản lý tự
động tại Trung tâm Đào tạo (Đài Loan) cho các doanh nghiệp Việt Nam.
38
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 1+2 năm 2021
để thúc đẩy hoạt động KH&CN,
đổi mới sáng tạo trong doanh
nghiệp, cụ thể như sau:
- Nhóm những doanh nghiệp
quy mô lớn đi đầu, dẫn dắt những
doanh nghiệp vệ tinh, doanh
nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp
khởi nghiệp: chính sách cần tập
trung vào khuyến khích tiếp cận,
đổi mới KH&CN, khuyến khích
đầu tư cho nghiên cứu và phát
triển.
- Nhóm doanh nghiệp nhỏ và
vừa: tập trung vào nâng cao năng
lực hấp thụ công nghệ, ứng dụng
và đổi mới công nghệ.
- Nhóm các doanh nghiệp
KH&CN, doanh nghiệp công nghệ
cao: tạo điều kiện thuận lợi cho
việc đăng ký và hoạt động để tiếp
nhận các ưu đãi theo luật, hỗ trợ
giao tài sản hình thành từ nhiệm
vụ KH&CN để thương mại hóa kết
quả nghiên cứu và phát triển công
nghệ, li-xăng công nghệ.
- Nhóm doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo (có tiềm
năng tăng trưởng nhanh dựa trên
việc khai thác tài sản trí tuệ):
chính sách tập trung vào hỗ trợ
hình thành, kêu gọi đầu tư, nâng
cao năng lực.
Ba là, nâng cao năng lực hấp
thụ tiến bộ công nghệ.
Ở Việt Nam, doanh nghiệp vừa
và nhỏ chiếm đến 98% tổng số
doanh nghiệp cả nước, trong đó
doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
chiếm 74%. Các doanh nghiệp
quy mô nhỏ thường thiếu và yếu
trong công tác đào tạo, tập huấn
người lao động, cũng như hệ
thống quản trị để có thể vận hành
được công nghệ mới, hiện đại. Vì
vậy, cần có một số hỗ trợ mang
tính nền tảng cho việc hấp thụ
công nghệ ở các doanh nghiệp,
bao gồm các hoạt động:
(1) Đầu tư, phát triển vốn con
người: cải thiện giáo dục và đào
tạo, đào tạo nghề và phát triển
kỹ năng. Các chương trình đào
tạo ở các cấp cần có sự cập nhật
nhanh chóng xu hướng công
nghệ. Trong bối cảnh CMCN 4.0
đang diễn ra (với sự phát triển
của công nghệ số, công nghệ
sinh học, vật liệu mới, năng lượng
và môi trường) thì các chương
trình học tập ở các cấp phổ thông
hoặc bậc đại học, cao đẳng cũng
như đào tạo nghề cần đưa vào
các kiến thức và kỹ năng cơ bản
để những người lao động trong
tương lai hiểu được và có thể tiếp
cận được công nghệ mới. Việc
thay đổi các chương trình đào tạo
cũng cần có sự nghiên cứu và
cập nhật nhanh chóng để thích
ứng với những thay đổi với tốc độ
ngày càng nhanh của nền công
nghiệp toàn cầu.
(2) Nâng cao hiệu quả kỹ
thuật trong các doanh nghiệp
bằng việc đưa vào các giải pháp
quản lý, phát triển kỹ năng, tổ
chức sản xuất hiệu quả. Ngoài
đầu tư đổi mới công nghệ, để sử
dụng hiệu quả công nghệ mới,
tiên tiến, ở các doanh nghiệp
cũng cần tới các giải pháp nâng
cao hiệu quả của ứng dụng khoa
học công nghệ. Đó là các giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý,
trình độ lao động và tạo điều kiện
về môi trường kinh doanh.
Những năm qua, Chương trình
nâng cao năng suất chất lượng
sản phẩm hàng hóa của các
doanh nghiệp đã một phần hỗ trợ
thực hiện mục tiêu nêu trên, đặc
biệt đã truyền bá được ý nghĩa
của việc nâng cao năng suất,
tạo nhận thức trong cộng đồng
về năng suất, nhưng số doanh
nghiệp tiếp cận được với Chương
trình chưa nhiều và chưa liên kết
được việc ứng dụng các hệ thống
quản lý tiên tiến, công cụ cải tiến
năng suất với đổi mới sáng tạo
và đổi mới công nghệ nên chưa
tạo ra được những thay đổi đột
phá. Vì vậy, cần xây dựng được
cơ chế gắn kết các chương trình
hỗ trợ khác nhau, ví dụ, khi doanh
nghiệp nhận được các chương
trình hỗ trợ đổi mới công nghệ thì
cần đi kèm với các chương trình
đổi mới hệ thống quản trị hoặc
các chương trình đào tạo kỹ thuật.
Tóm lại, nâng cao NSLĐ dựa
trên khoa học, công nghệ và đổi
mới sáng tạo không còn là tuyên
truyền khẩu hiệu, mà đã được ghi
trong những văn bản chỉ đạo cao
nhất của Đảng. Trong bối cảnh
mới, đây vừa là công cụ, vừa là
kim chỉ nam để các doanh nghiệp
bứt phá vươn lên. Đó cũng chính
là yêu cầu đặt ra đối với tất cả các
bộ, ngành, địa phương, mọi thành
phần kinh tế cùng chung tay phát
triển đất nước nhanh, bền vững ?
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_nang_suat_lao_dong_dua_tren_khoa_hoc_cong_nghe_va_d.pdf