Tóm lại, NSSH sơ cấp và cường độ hô hấp
của thực vật nổi ở vịnh Vân Phong biến
động mạnh theo không gian và thời gian, có
mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của
thực vật nổi, cường độ ánh sáng, hệ số suy
giảm ánh sáng và các thành phần vật chất
trong toàn cột nước. NSSH sơ cấp trung
bình dao động 35,90 ± 17,31 mg C/m3,ngày
đến 156,57 ± 94,90 mg C/m3,ngày ở tầng
mặt và từ 34,41 ± 33,77 mg C/m3,ngày đến
208,36 ± 116,51 mg C/m3,ngày ở tầng đáy.
Dường như không có sự sai khác về NSSH
giữa mùa mưa và mùa khô (p<0,05), nhưng
hệ số đồng hóa carbon của thực vật nổi ở
mùa khô cao hơn mùa mưa và tầng mặt cao
hơn tầng đáy, hệ số đồng hóa carbon của
thực vật nổi trung bình dao động 27,83
đến 404,65 mgC/mgChl-a/ngày. NSSH tích
phân toàn cột nước dao động từ 463,47 đến
2291,12 mgC/m2/ngày, trung bình 1206,30
± 557,22 mgC/m2/ngày. Trong khi đó, theo
chu kỳ năm, NSSH tích phân trung bình
tháng có giá trị 1069,15 - 2205,05
mgC/m2/ngày ở phần ngoài vịnh Vân
Phong và 696,19 - 1435,85 mgC/m2/ngày ở
vụng Bến Gỏi. NSSH sơ cấp đang gia tăng
trong thời gian gần đây là do tăng cường
nguồn cung cấp dinh dưỡng và vật chất từ
các hoạt động kinh tế.69
Lời cảm ơn. Bài báo đã sử dụng tài liệu của
dự án NUFU (2004-2010) và nhận được hỗ
trợ từ đề tài cấp Viện Hải dương học. Tập
thể tác giả chân thành cảm ơn sự hỗ trợ đó.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
10 trang | 
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 825 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Năng suất sinh học sơ cấp ở vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
60 
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2014, tập 20: 60 - 69 
NĂNG SUẤT SINH HỌC SƠ CẤP Ở VỊNH VÂN PHONG, TỈNH KHÁNH HÒA 
Phan Minh Thụ, Nguyễn Hữu Huân, Lê Trần Dũng 
Lê Trọng Dũng, Võ Hải Thi, Trần Thị Minh Huệ, Hoàng Trung Du 
Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam 
Tóm tắt Dựa vào dữ liệu tổng quan trong giai đoạn 2004 - 2013, các đặc trưng về 
NSSH sơ cấp được thảo luận trong mối quan hệ với chlorophyll-a và mức độ 
suy giảm ánh sáng của cột nước. NSSH sơ cấp vịnh Vân Phong biến động 
mạnh theo không gian và thời gian, nhưng không có sự sai khác giữa mùa 
khô và mùa mưa. NSSH có mối quan hệ chặt chẽ với phát triển của thực vật 
nổi và hệ số suy giảm ánh sáng. Hệ số chuyển hóa carbon của thực vật nổi ở 
mùa khô cao hơn mùa mưa và tầng mặt cao hơn tầng đáy. Theo phân bố mặt 
rộng, NSSH sơ cấp tích phân tăng dần từ vùng cạn sang vùng nước sâu hơn. 
Theo chu kỳ năm, NSSH tích phân trung bình tháng ở phần ngoài vịnh Vân 
Phong là 1069,15 - 2205,05 mgC/m2/ngày và ở vụng Bến Gỏi là 696,19 - 
1435,85 mgC/m2/ngày. Sự biến động của NSSH sơ cấp liên quan đến nguồn 
cung cấp dinh dưỡng từ các hoạt động kinh tế trong vùng nghiên cứu. 
GROSS PRIMARY PRODUCTION OF PHYTOPLANKTON 
IN VAN PHONG BAY, KHANH HOA PROVINCE 
Phan Minh Thu, Nguyen Huu Huan, Le Tran Dung 
Le Trong Dung, Vo Hai Thi, Tran Thi Minh Hue, Hoang Trung Du 
Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology 
Abstract Based on data set of GPP in the period of 2004-2013, characteristics of gross 
primary production (GPP) were discussed in the relation to chlorophyll-a 
and the vertical light extinction coefficient. GPP in Van Phong bay was 
strongly varied in spatial and temporal, but there was no significant 
difference between dry and rainy seasons. The variation of GPP was 
significantly contributed by phytoplankton growth and vertical light 
extinction coefficient. Efficiency of phytoplankton assimilation for carbon in 
dry season was higher than that in rainy season, and this value at surface 
layer was higher than that at bottom layer. In the term of spatial distribution, 
integrated GPP increased from the shallow waters to deep waters. In annual 
cycle, the monthly average of integrated GPP was 1069.15 - 2205.05 
mgC/m2/day in outer part of Van Phong bay and 696.19 - 1435.85 
mgC/m2/day in Ben Goi waters. The variation of GPP was resulted from 
nutrient sources supporting from economic activities within the coastal 
areas. 
61 
I. MỞ ĐẦU 
Vịnh Vân Phong nằm giới hạn trong 
khoảng 109°10’÷109°26’ Đông và 120°29’ 
÷120°48’ Bắc. Vịnh cách Nha Trang về 
phía Bắc hơn 30 km theo đường chim bay, 
60 km đường bộ và 40 hải lý theo đường 
biển. Phía Tây vịnh Vân Phong là phần kéo 
dài của dãy Trường Sơn. Cửa vịnh nằm ở 
phía Đông Nam rộng 17 km thông ra biển 
Đông. Phía Đông Bắc là bán đảo Hòn Gốm 
gồm các dãy núi nhỏ và cồn cát kéo dài nên 
tránh được sóng. Nằm giữa bán đảo Hòn 
Gốm, Hòn Lớn và đảo Cổ Cò là lạch Cổ Cò 
có chiều rộng 200 m có độ sâu trung bình 
25 m. Diện tích mặt nước vùng vịnh khoảng 
80.000 ha. Khu vực này có địa hình phong 
phú, đặc biệt là hệ thống đảo, bán đảo, vịnh 
sâu và kín gió, bờ và bãi biển, cồn cát hấp 
dẫn và là khu vực có hệ sinh thái đa dạng 
như rừng nhiệt đới, rừng ngập mặn, khu hệ 
sinh vật đáy ở biển nông ven bờ. 
 Nhờ thiên nhiên ưu đãi về điều kiện tự 
nhiên, tính đa dạng sinh học cao, vịnh Vân 
Phong trở thành nơi giàu có nguồn lợi thủy 
sản. Chính vì vậy, đánh giá nguồn hữu cơ 
sơ cấp thông qua những thay đổi của năng 
suất sinh học (NSSH) sơ cấp góp phần 
lượng hóa được mức độ dinh dưỡng của 
thủy vực. Nghiên cứu NSSH ở vịnh Vân 
Phong đã được tiến hành theo phương pháp 
định lượng hoặc mô hình. Nguyen Huu 
Huan và Nguyen Tac An (2000) đã sử dụng 
mô hình LOICZ đã đánh giá rằng khả năng 
đồng hóa tinh của hệ sinh thái vịnh Vân 
Phong là tương đối thấp, vào khoảng 0,12 
mg C/m2/ngày. Trong khi đó, Thái Ngọc 
Chiến và cs. (2006) đã áp dụng mô hình 
ECOHAM để mô tả biến động của NSSH. 
Tuy nhiên, kết quả của mô hình ECOHAM 
chưa đánh giá được thực trạng của toàn khu 
vực. NSSH sơ cấp tích phân ở vùng biển 
vịnh Vân Phong dao động 0,26 - 1,15 
gC/m2/ngày và năng suất vùng ven bờ, ven 
đảo thường cao hơn ở cửa vịnh (Nguyen 
Tac An và cs., 2013) nhưng chưa phân tích 
được những yếu tố ảnh hưởng đến sự phân 
bố NSSH ở đây. Như một số nghiên cứu đã 
chỉ ra, trong tự nhiên, biến động và phân bố 
của NSSH sơ cấp trong vùng nước là rất 
phức tạp (Platt và cs., 1991; Platt & 
Sathyendranath, 2000) và chi phối bởi địa 
hình cũng như hiệu ứng các đảo (Nguyen 
Tac An và cs., 2013). Do đó, để hiểu rõ 
được những biến động của NSSH ở vịnh 
Vân Phong, bài báo này trình bày bức tranh 
toàn diện của NSSH ở vịnh Vân Phong. 
II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Bài báo sử dụng nguồn dữ liệu tổng hợp từ 
các chuyến khảo sát tại vịnh Vân Phong 
trong thời gian từ 2004 đến 2009 và kết quả 
khảo sát bổ sung vào tháng 5/2013 theo sơ 
đồ như trên hình 1. 
 Trong các chuyến khảo sát thuộc dự án 
NUFU (2004 - 2009), mẫu NSSH và Chl-a 
được thu ở tầng mặt và tầng đáy. Trong khi 
đó, trong đợt khảo sát bổ sung tháng 
5/2013, mẫu NSSH được thu ở tầng mặt, 
giữa và đáy; mẫu Chl-a, TSS được thu ở 
các tầng 0, 5, 10, 20 và tầng đáy; cường độ 
ánh sáng và Chl-a huỳnh quang được đo 
trong toàn cột nước, Chl-a huỳnh quang 
dùng để xác định tầng Chl-a cực đại tại hiện 
trường. Mẫu nước tại tầng Chl-a cực đại tại 
2 trạm VP9 và VP13 được thu phục vụ cho 
thí nghiệm xác định NSSH cực đại (PBmax) 
và hiệu suất sử dụng ánh sáng của thực vật 
nổi (αB). 
 Nhiệt độ, độ mặn được đo tại hiện 
trường bằng CTD. Chlorophyll-a: 2 - 4 lít 
mẫu được lọc qua màng lọc GF/F, sau đó 
định lượng bằng phương pháp chiết suất với 
acetol 90% và đo trên máy quang phổ 
(Jeffrey & Welschmeyer, 1997). TSS (Vật 
chất lơ lửng): mẫu nước được lọc qua màng 
GF/F, và sấy ở 105°C (APHA, 2005). 
NSSH: được xác định bằng phương pháp 
gia số oxy trong bình đen – trắng dưới ánh 
sáng tự nhiên trong thời gian 24 giờ 
(Gaarder & Gran, 1927). DO định lượng 
bằng phương pháp Winkler (APHA, 2005). 
Ánh sáng trong toàn cột nước được xác 
định bằng máy PRR2600/2601. 
 Hệ số suy giảm ánh sáng của PAR 
(cường độ ánh sáng hữu dụng cho quang 
hợp) tại độ sâu z (KPAR(z) – đơn vị tính m-1) 
61 
được xác định theo công thức sau (Phan 
Minh Thu và cs., 2008): 
)1()1(
)1(ln)1(ln)(
+−−
−−+
=
zz
zEdzEd
zK PARPARPAR
(1) 
 Trong đó: EdPAR(z+1) và EdPAR(z-1) là 
cường độ của PAR tại độ sâu (z+1) và 
(z-1)m. 
 Tính toán NSSH tích phân trong toàn cột 
nước là hàm của độ sâu và thời gian (Platt 
và cs., 1991) theo công thức: 
 (2) 
 Trong đó: P(z,t): Năng suất sinh học của 
thực vật nổi tại độ sâu z và thời gian t. 
 Đánh giá năng suất sinh học tích phân sử 
dụng dữ liệu ảnh viễn thám theo Behrenfeld 
& Falkowski (1997): 
 (3) 
 Trong đó: IPP: NSSH tích phân trong 
ngày (mgC m-2 day-1); PBopt: NSSH cực đại 
riêng phần của Chl-a (mgC (mgChl a)-1 h-1); 
E0: PAR tại bề mặt (E m-2 d-1); Zeu: Độ sâu 
tầng ưu quang (m) (Zeu = 4.6/KPAR); Chl0: 
Chl-a tầng mặt (mg m-3) và DL: thời gian 
chiếu sáng trong ngày (h). Những dữ liệu 
về E0, Chl-a và KPAR (thay thế bằng K490) 
được khai thác từ cơ sở dữ liệu của MODIS 
trung bình tháng có độ phân giải 4km trong 
thời gian 2004-2013. 
Hình 1. Vị trí các trạm nghiên cứu 
Fig. 1. Study stations 
2 
63 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
1. Phân bố NSSH sơ cấp 
NSSH sơ cấp và cường độ hô hấp của thực 
vật nổi biến động mạnh theo thời gian và 
không gian (Hình 2, 3 và 4). Vào mùa khô, 
NSSH sơ cấp trung bình tầng mặt (giá trị 
trung bình dao động từ 35,90 ± 17,31 mg 
C/m3,ngày đến 156,57 ± 94,90 mg C/m3, 
ngày) thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với 
tầng đáy (giá trị trung bình dao động từ 
34,41 ± 33,77 mg C/m3,ngày đến 208,36 ± 
116,51 mg C/m3,ngày) (p<0,05). Trong khi 
đó, vào mùa mưa, xu thế biến động diễn ra 
theo hướng ngược lại, NSSH sơ cấp trung 
bình tầng mặt (dao động từ 52,51 ± 25,99 
mg C/m3,ngày đến 130,21 ± 78,43 mg 
C/m3,ngày) cao hơn tầng đáy (dao động từ 
37,98 ± 34,11 mg C/m3,ngày đến 98,93 ± 
46,89 mg C/m3,ngày) (p<0,01) (Hình 2). 
 Cường độ hô hấp của thủy vực biến 
động không rõ ràng giữa mùa khô và mùa 
mưa. Giá trị trung bình của cường độ hô 
hấp tầng mặt dao động từ 38,45 ± 24,86 mg 
C/m3,ngày đến 252,82 ± 111,16 mg C/m3, 
ngày. Cường độ hô hấp trung bình tầng đáy 
dao động từ 43,14 ± 27,71 mg C/m3,ngày 
đến 256,03 ± 96,70 mg C/m3,ngày. Giá trị 
NSSH sơ cấp và cường độ hô hấp cao nhất 
vào tháng 8/2009 kể cả tầng mặt và tầng 
đáy. Điều này có thể là do sự cộng hưởng 
của cường độ bức xạ mặt trời gia tăng và 
nguồn vật chất thích hợp cho quang hợp 
của thực vật nổi được cung cấp từ đất liền 
và các hoạt động trong vịnh như nuôi trồng 
hải sản. 
 Về phân bố không gian, NSSH sơ cấp 
cao thường xuất hiện ở đỉnh vịnh Vân 
Phong, trong khi đó ở cửa vịnh Vân Phong, 
NSSH sơ cấp thường rất thấp (Hình 4). Tuy 
nhiên, ở tầng đáy, NSSH sơ cấp ở Cửa Bé 
thường lớn hơn so với vùng Cửa Lớn của 
vịnh Vân Phong. Kết quả đánh giá cho 
thấy, những vùng có NSSH sơ cấp cao 
thường liên quan đến hoạt động cung cấp 
muối dinh dưỡng từ hoạt động nuôi cá lồng 
hoặc tôm hùm lồng trong khu vực. 
Hình 2. Biến động theo thời gian của năng suất sinh học sơ cấp ở vịnh Vân Phong 
(cập nhật từ Hoàng Trung Du và Lê Trần Dũng, 2009) 
Fig. 2. Temporal variation of gross primary production in Van Phong bay 
64 
Hình 3. Biến động theo thời gian của cường độ hô hấp ở vịnh Vân Phong 
(cập nhật từ Hoàng Trung Du và Lê Trần Dũng, 2009) 
Fig. 3. Temporal variation of respiration in Van Phong bay 
Hình 4. Phân bố không gian của năng suất sinh học sơ cấp (mgC/m3, ngày) tầng mặt (trái), 
tầng đáy (phải) ở vịnh Vân Phong (tháng 5/2013) 
Fig. 4. Spatial distribution of gross primary production (mgC m-3 day-1) in surface (left) 
and bottom (right) layers of Van Phong bay (May 2013) 
2. Một số yếu tố môi trường liên quan 
đến NSSH sơ cấp ở vịnh Vân Phong 
NSSH sơ cấp phụ thuộc rất nhiều yếu tố 
sinh thái trong thủy vực, sắc tố thực vật nổi, 
cường độ ánh sáng và các thành phần vật 
chất trong toàn cột nước. Chl-a là yếu tố 
quan trọng nhất liên quan đến quá trình 
quang hợp. Hàm lượng Chl-a trung bình 
tầng mặt dao động từ 0,15 ± 0,11 mg/m3 
đến 1,57 ± 0,76 mg/m3, trong khi đó, những 
giá trị trung bình này ở tầng đáy dao động 
từ 0,27 ± 0,23 mg/m3 đến 1,52 ± 0,51 
mg/m3 (Hình 5). Nhìn chung, Chl-a tầng 
mặt thường thấp hơn Chl-a tầng đáy. Để 
hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng tôi tìm hiểu 
65 
đặc trưng phân bố của Chl-a trong toàn cột 
nước. Hình 6 cho thấy phân bố hàm lượng 
Chl-a trong cột nước ở đa số các trạm có 
dạng nửa phân bố chuẩn, tức là hàm lượng 
Chl-a thấp ở tầng mặt và khi xuống đến độ 
sâu nào đó hàm lượng Chl-a bắt đầu tăng 
lên và có thể đạt đỉnh ở gần đáy. Điều này 
cũng phù hợp với những nghiên cứu về 
phân bố hàm lượng sắc tố thực vật nổi trước 
đây (Phan Minh Thụ và Nguyễn Tác An, 
2005, 2011). Nhìn chung, tại vịnh Vân 
Phong, tầng Chl-a cực đại được xác định ở 
tầng đáy hoặc tầng nước từ 12 - 25 m. 
Hình 5. Biến động theo thời gian của chlorophyll-a ở vịnh Vân Phong 
Fig. 5. Temporal variation of chlorophyll-a in Van Phong bay 
Hình 6. Phân bố hàm lượng Chl-a huỳnh quang trong toàn cột nước và tương quan giữa 
Chl-a huỳnh quang và thực đo (n=40) (hình nhỏ) 
Fig. 6. Profiles of fluorescent chlorophyll-a in water column and relationship between 
fluorescent vs. measured chlorophyll-a (n=40) (small figure) 
66 
 Để đánh giá hiệu suất chuyển hóa năng 
lượng của thực vật nổi của thủy vực, người 
ta dựa vào chỉ số đồng hóa của thực vật. Tại 
vịnh Vân Phong, hệ số đồng hóa carbon của 
thực vật nổi trung bình ở tầng mặt dao động 
từ 33,52 đến 404,65 mgC/mgChl-a/ngày và 
tầng đáy dao động từ 27,83 đến 311,66 
mgC/mgChl-a/ngày. Hệ số này biến động 
theo chiều hướng tầng mặt cao hơn tầng 
đáy và mùa khô cao hơn mùa mưa. Điều 
này là do thay đổi cường độ ánh sáng mặt 
trời theo thời gian và trong từng cột nước. 
 Trong thực tế, cường độ ánh sáng quang 
hợp (PAR) chỉ tập trung ở dãi sóng từ 400 - 
700 nm. Dựa vào nguồn dữ liệu từ ảnh 
MODIS, PAR trung bình tháng tại vịnh 
Vân Phong biến động từ 28,25 ± 5,76 
Einstein/m2/ngày (tháng 12) đến 51,65 ± 
2,34 Einstein/m2/ngày (tháng 4), trong đó, 
PAR trung bình ngày mùa khô cao hơn 
43% so với mùa mưa (Hình 7). Điều này 
phần nào giải thích được lý do tại sao chỉ số 
đồng hóa của thực vật nổi mùa khô cao hơn 
mùa mưa. 
Hình 7. Biến động giá trị trung bình của PAR (trái), Chl-a và K490 (phải) trong năm 
ở vịnh Vân Phong 
Fig. 7. Variation of the average value of PAR (left), Chl-a and K490 (right) 
in Van Phong bay 
 Theo Platt & Sathyendranath (2000), khả 
năng xuyên sâu của ánh sáng trong cột 
nước là hàm theo độ sâu. Nó phụ thuộc vào 
thành phần vật chất trong nước. Khả năng 
này được đánh giá thông qua hệ số suy 
giảm ánh sáng trong toàn cột nước hay độ 
trong suốt. Việc xác định hệ số suy giảm 
PAR theo tầng nước trực tiếp là lựa chọn 
tốt nhất. Ở vịnh Vân Phong, hệ số suy giảm 
PAR (KPAR) trong toàn cột nước biến động 
rất mạnh, dao động trong khoảng 0,008 - 
0,965 m-1 (Hình 8). Giá trị KPAR thấp 
thường xác định ở lớp nước giữa trong khi 
đó ở tầng mặt và tầng đáy giá trị KPAR cao 
hơn (Hình 8). Giá trị KPAR trung bình toàn 
cột nước dao động từ 0,113 đến 0,496 m-1. 
Ở vùng đỉnh vịnh Vân Phong, KPAR trung 
bình toàn cột nước (dao động 0,228 - 
0,496 m-1) thường cao hơn nhiều so với 
vùng cửa vịnh Vân Phong (dao động 0,113 
- 0,190 m-1) (Hình 5). KPAR trung bình toàn 
cột nước ở cửa vịnh Vân Phong tương tự 
với vịnh Nha Trang (dao động 0,06 - 
0,20 m-1) (Phan Minh Thu và cs., 2008). 
Còn ở vùng đỉnh đầm, do hiện tượng trao 
đổi nước kém, phát triển của nuôi trồng 
thủy sản, thực vật nổi có điều kiện phát 
triển (Chl-a dao động: 0,39 - 0,67 mg/m3) 
đã hạn chế khả năng xâm nhập của ánh 
sáng. Sự phát triển của thực vật nổi ở tầng 
mặt là yếu tố cần thiết làm gia tăng NSSH 
nhưng cũng là yếu tố cản trở khả năng 
xuyên sâu của ánh sáng mặt trời vào trong 
toàn cột nước. 
67 
Hình 8. Phân bố không gian của KPAR trung bình (m-1 - trái) và KPAR toàn cột nước (phải) 
ở vịnh Vân Phong 
Fig. 8. Spatial distribution of average KPAR (m-1 - left) and KPAR in water column (right) 
in Van Phong bay 
3. Phân bố NSSH sơ cấp tích phân toàn 
cột nước 
Trong thủy vực, đánh giá NSSH sơ cấp dựa 
vào giá trị của từng tầng nước sẽ không 
đánh giá được một cách toàn diện vai trò 
của thực vật nổi trong toàn thủy vực. Với 
các giá trị về hàm lượng Chl-a (dao động 
0,07 đến 2,24 mg/m3), hệ số suy giảm ánh 
sáng (KPAR trung bình toàn cột nước là 
0,113 - 0,496 m-1), NSSH cực đại riêng 
phần (PBmax = 21,04 mgC (mgChla)-1h-1) và 
PAR vào tháng 5/2013 là 5,33 KWh/m2, 
phân bố không gian NSSH sơ cấp tích phân 
theo cột nước ở vịnh Vân Phong được tính 
toán (Hình 9). NSSH sơ cấp tích phân trong 
thời gian này dao động từ 463,47 đến 
2291,12 mgC/m2/ngày, trung bình là 
1206,30 ± 557,22 mgC/m2/ngày. Trong khi 
đó, tổng hàm lượng Chl-a tích phân dao 
động 2,08 - 17,20 mg Chl-a/m2, trung bình 
9,42 ± 5,05 mg Chl-a/m2. So sánh với kết 
quả đánh giá trước đây (Nguyen Tac An và 
cs., 2013), NSSH sơ cấp tích phân trong 
thời gian hiện tại cao hơn nhiều. Đây là 
hiệu ứng của quá trình cung cấp dinh dưỡng 
từ hoạt động nuôi trồng hải sản và nguồn 
vật chất từ bờ ra. 
 Mặt khác, dữ liệu thu thập từ ảnh 
MODIS trong thời gian 2003-2013 về 
Chl-a, Kd490, E0(PAR) (Hình 7) cho thấy giá 
trị K490 dao động 0,058 - 0,115 m-1. Nghiên 
cứu này sử dụng K490 để tính độ sâu tầng ưu 
quang, với ZEU = 4,6/K490, độ sâu tầng ưu 
quang trung bình ở phần ngoài vịnh Vân 
Phong dao động 39,86 - 79,92 m. Trong khi 
đó, độ sâu của vụng Bến Gỏi thường dưới 
20m, độ sâu của vịnh Vân Phong dao động 
20 - 34m, trung bình là 20 - 23m. Điều này 
có nghĩa là, độ sâu của vịnh Vân Phong có 
thể sử dụng như độ sâu tầng ưu quang. Do 
đó, NSSH tích phân trung bình tháng ở 
phần ngoài vịnh Vân Phong dao động từ 
1069,15 đến 2205,05 mgC/m2/ngày, trong 
khi đó ở khu vực vụng Bến Gỏi chỉ dao 
động trong khoảng 696,19 - 1435,85 
mgC/m2/ngày. Điều đó cho thấy, kết quả 
tính toán từ giá trị thực đo và từ mô hình 
không khác nhau. 
 Mặt khác, nếu dựa vào phân bố NSSH 
sơ cấp tầng mặt và tầng đáy, vịnh Vân 
68 
Phong có thể chia ra 3 vùng rõ rệt (Hình 4): 
(1) vùng đỉnh có NSSH sơ cấp cao kết hợp 
với Chl-a cao, KPAR cao, chịu ảnh hưởng 
của hoạt động nuôi trồng thủy sản ven bờ; 
(2) vùng cửa vịnh Vân Phong: NSSH sơ 
cấp thấp, Chl-a thấp và KPAR thấp, khả năng 
trao đổi nước tốt; (3) lạch Cổ Cò: NSSH sơ 
cấp tầng mặt thấp hơn tầng đáy và chịu ảnh 
hưởng của hoạt động nuôi cá lồng trong 
khu vực, chất thải từ hoạt động nuôi trồng 
thủy sản phân hủy là nguồn cung cấp vật 
chất cho quá trình quang hợp. Trong khi đó, 
nếu dựa vào NSSH sơ cấp tích phân, vịnh 
Vân Phong có thể chia làm 2 khu vực (Hình 
9): vùng có độ sâu thấp (dưới 7m) có NSSH 
sơ cấp tích phân dao động 696,19 - 1435,85 
mgC/m2/ngày, chủ yếu ở vụng Bến Gỏi và 
phía Tây vịnh Vân Phong, và vùng có độ 
sâu lớn (độ sâu trên 7m), có NSSH sơ cấp 
tích phân dao động 1069,15 đến 2205,05 
mgC/m2/ngày, phân bố ở khu vực phía 
Đông vịnh Vân Phong. 
Hình 9. Năng suất sinh học sơ cấp tích phân (mgC/m2/ngày) ở vịnh Vân Phong 
Fig. 9. Integrated gross primary production (mgC m-2 day-1) in Van Phong bay
IV. KẾT LUẬN 
Tóm lại, NSSH sơ cấp và cường độ hô hấp 
của thực vật nổi ở vịnh Vân Phong biến 
động mạnh theo không gian và thời gian, có 
mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của 
thực vật nổi, cường độ ánh sáng, hệ số suy 
giảm ánh sáng và các thành phần vật chất 
trong toàn cột nước. NSSH sơ cấp trung 
bình dao động 35,90 ± 17,31 mg C/m3,ngày 
đến 156,57 ± 94,90 mg C/m3,ngày ở tầng 
mặt và từ 34,41 ± 33,77 mg C/m3,ngày đến 
208,36 ± 116,51 mg C/m3,ngày ở tầng đáy. 
Dường như không có sự sai khác về NSSH 
giữa mùa mưa và mùa khô (p<0,05), nhưng 
hệ số đồng hóa carbon của thực vật nổi ở 
mùa khô cao hơn mùa mưa và tầng mặt cao 
hơn tầng đáy, hệ số đồng hóa carbon của 
thực vật nổi trung bình dao động 27,83 
đến 404,65 mgC/mgChl-a/ngày. NSSH tích 
phân toàn cột nước dao động từ 463,47 đến 
2291,12 mgC/m2/ngày, trung bình 1206,30 
± 557,22 mgC/m2/ngày. Trong khi đó, theo 
chu kỳ năm, NSSH tích phân trung bình 
tháng có giá trị 1069,15 - 2205,05 
mgC/m2/ngày ở phần ngoài vịnh Vân 
Phong và 696,19 - 1435,85 mgC/m2/ngày ở 
vụng Bến Gỏi. NSSH sơ cấp đang gia tăng 
trong thời gian gần đây là do tăng cường 
nguồn cung cấp dinh dưỡng và vật chất từ 
các hoạt động kinh tế. 
69 
Lời cảm ơn. Bài báo đã sử dụng tài liệu của 
dự án NUFU (2004-2010) và nhận được hỗ 
trợ từ đề tài cấp Viện Hải dương học. Tập 
thể tác giả chân thành cảm ơn sự hỗ trợ đó. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
APHA, 2005. Standard methods for the 
examination of water and wastewater, 
21st Edition. American Public Health 
Association. 
Behrenfeld M. J. & P. G. Falkowski, 1997. 
Photosynthetic rates derived from 
satellite-based chlorophyll concentration. 
Limnology and Oceanography, 42: 1-20. 
Gaarder T. & H. H. Gran, 1927. 
Investigation on the production of 
plankton in the Oslo Fjiord Rapp. PV. 
Reun. Comma. Int. Explor. Scient. Mer. 
Mediterr., 42: 1-48. 
Hoàng Trung Du & Lê Trần Dũng, 2009. 
Đặc điểm phân bố một số yếu tố sinh 
thái môi trường vịnh Vân Phong và 
Cam Ranh – Khánh Hòa. Tuyển tập 
nghiên cứu biển, XVI: 49-63. 
Jeffrey S.W. & N. A.Welschmeyer, 1997. 
Spectrophotometric and fluorometric 
equations in common use in oceano-
graphy. In: Phytoplankton pigments in 
oceanography: guidelines to modern 
methods (Jeffrey S.W., et al. eds.), pp. 
597-615. 
Nguyen Tac-An, Phan Minh-Thu, I. I. 
Cherbadji, M. V. Propp, V. S. Odintsov, 
L. H. Propp, 2013. Primary production 
of coral ecosystems in the Vietnamese 
coastal and adjacent marine waters. 
Deep Sea Research Part II: Topical 
Studies in Oceanography, 96: 56-64. 
Nguyen Huu Huan and Nguyen Tac An, 
2000. Budgets for estuaries in Vietnam: 
Van Phong bay, Vietnam. Estuarine 
Systems of the East Asia Region: 
Carbon, Nitrogen and Phosphorus 
Fluxes. LOICZ, IGBP, UNEP & GEF. 
LOICZ Report & Studies, No. 16: 118-
122. 
Phan Minh Thu, M. E. Schaepman, R. 
Leemans, Nguyen Tac An, Tong Phuoc 
Hoang Son, Ngo Manh Tien & Phan 
Thanh Bac, 2008. Water quality 
assessment in the Nha Trang bay 
(Vietnam) by using in-situ and remotely 
sensed data. Proceedings of GIS-IDEA 
conference on 4-6 Dec. 2008, Ha Noi, 
Vietnam, 253-258. 
Phan Minh Thụ, Nguyễn Tác An, 2005. Mô 
hình hóa phân bố hàm lượng 
Chlorophyll-a của thực vật nổi trong 
Biển Đông. Hội nghị "Những vấn đề 
nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự 
sống 2005", Hà Nội, ngày 3/11/2005, 
1078-1080. 
Phan Minh Thụ, Nguyễn Tác An, 2011. Mô 
hình hóa phân bố chlorophyll-a ở vùng 
biển Nam Trung Bộ trong khuôn khổ dự 
án hợp tác Việt Đức. Tuyển tập báo cáo 
Hội thảo Quốc tế về "Hợp tác quốc tế 
trong điều tra, nghiên cứu tài nguyên và 
môi trường biển". Hà Nội, 15-16/9/2011, 
413-419. 
Platt T., D. F. Bird, S. Sathyendranath, 
1991. Critical depth and marine primary 
production. Proceedings of the Royal 
Society B: Biological Sciences, 246: 
205-217. 
 Platt T., S. Sathyendranath, 2000. 
Modelling primary production. Training 
material of NP-POGO 2004, Kochi, 
India. 
Thái Ngọc Chiến, Nguyễn Tác An, Bùi 
Hồng Long, 2006. Một số kết quả thử 
nghiệm ban đầu của mô hình ECOHAM 
về động lực học dinh dưỡng trong vịnh 
Vân Phong, Khánh Hòa, Việt Nam. Tạp 
chí Khoa học và Công nghệ Biển. Tập 6: 
40-54.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
08_phanminhthu_trang60_69_4099_2070860.pdf