Nghiên cứu lớn nhất về ABC tại cột sống (và xương
cùng) được Papagelopoulos và các cộng sự thực hiện,
nghiên cứu theo dõi trong 83 năm với 52 BN, trong đó có
41 BN tổn thương đơn thuần tại cột sống đều được điều
trị bằng phẫu thuật, tỷ lệ tái phát sau mổ là 13% và 31%
các trường hợp có các biến chứng khác nhau, trong có có
2 BN tử vong. 1 BN tổn thương phát triển thành ung thư
xương sau điều trị phẫu thuật kết hợp xạ trị, 1 BN ngừng
tim trong mổ do mất máu quá nhiều [8].
Một báo cáo lớn khác của Boriani, tác giả điều trị và
theo dõi 41 BN trong vòng 44 năm trong đó có 32 BN
được điều trị bằng phẫu thuật, báo cáo nghi nhận tỷ lệ gặp
các loại biến chứng khác nhau là 17% và tái phát là 5%
(1 BN chỉ được phẫu thuật nạo vét đơn thuần và 1 BN chỉ
điều trị bằng nút mạch đơn thuần) [1]. Trong các báo cáo,
các tác giả đều thống nhất đa số ABC tái phát trong vòng 2
năm sau phẫu thuật [1] [2] [7] [9].
Với trường hợp BN trong báo cáo này của chúng tôi,
tổn thương u xâm lấn hai cuống sống và có thể bao gồm
cả những phần xương ranh giới giữa bệnh lý-lành tính
chưa được lấy bỏ triệt để trong lần phẫu thuật đầu chính là
nguyên nhân u tái phát. Hiện chúng tôi đang lên kế hoạch
phẫu thuật lần hai nhằm lấy bỏ toàn bộ tổ chức u còn sót
lại ở các thành phần phía sau của D1 và D2.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 15 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nang xương phình mạch tại cột sống: Báo cáo nhân một trường hợp và bàn luận vai trò của điều trị phẫu thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51
Phản biện khoa học: TS. Ngô Minh Lý
NANG XƯƠNG PHÌNH MẠCH TẠI CỘT sốNG:
BÁO CÁO NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP VÀ BÀN LuậN VAI
TRÒ CỦA đIều TRỊ PHẫu THuậT
Trần Quốc Khánh ,
Hoàng Gia Du,
Nguyễn Mậu Định,
Hồ Đức Thưởng
Khoa PTCS –
BV Việt Đức - HN
Email:khanhtranquoc139
@gmail.com
Ngày nhận: 06 - 9 - 2014
Ngày phản biện: 20 - 9 -2014
Ngày in: 08 - 10 - 2014
Tran Quoc Khanh ,
Hoang Gia Du,
Nguyen Mau Dinh,
Ho Duc Thuong
Nang xöông phình maïch (Aneurysmal Bone Cyst- ABC) laø toån thöông u laønh tính
nhöng coù tính chaát phaù huûy xöông nhieàu, thöôøng xuaát hieän taïi ñaàu caùc xöông daøi vaø coät
soáng ôû treû vò thaønh nieân (10-19 tuoåi).
Trong baøi vieát naøy chuùng toâi baùo caùo moät tröôøng hôïp ABC taïi coät soáng ngöïc cheøn eùp
tuûy caáp tính ñöôïc phaãu thuaät ñöôøng sau laáy boû u, giaûi phoùng cheøn eùp tuûy vaø coá ñònh
laøm vöõng coät soáng. Sau moå trieäu chöùng laâm saøng cuûa BN caûi thieän, khaùm laïi sau 1
naêm phaùt hieän ABCs taùi phaùt taïi choã, vaán ñeà duy trì coät soáng vöõng sau moå vaãn ñöôïc
ñaûm baûo.
Vôùi caùc tröôøng hôïp ABC taïi coät soáng, phaãu thuaät caét boû u caû khoái trieät ñeå vaø laøm vöõng
coät soáng sau moå laø löïa choïn ñieàu trò toái öu tuy nhieân ñaây cuõng chính laø thaùch thöùc lôùn
cuûa caùc phaãu thuaät vieân.
Töø khoùa: Nang xöông phình maïch.
Aneurysmal Bone Cysts(ABC) of the spine is a benign tumor which severely damages
the bone system and is frequently detected in long bones and the spine of children and
adolescents at the age 10-19 years old.
In this study, we report an ABC case presented with acute compression of thoracic
spinal cord. Via posterior approach, this patient was operated to remove the tumor,
decompress the spinal cord and stabilize the spine. Postoperative clinical presentations
were significantly improved. Physical examination after one year revealed the recurrent
ABC in the old location. Spine stabilization is still ensured
Complete excision of aneurysmal bone cysts of the spine and stabilization with instruments
offers the best choice of cure but it is still chanlengeing for surgeons.
Key word: Aneurysmal Bone Cyst.
Tóm TắT
AbstrAct
Mở ĐầU
ABC rất hiếm gặp (chiếm khoảng 1% các u xương
nguyên phát), lành tính, đặc trưng bởi xu hướng phát triển
“phình” ra của các hồ máu chứa trong các nang xương
với thành xương rất mỏng xuất hiện ở trẻ vị thành niên.
Khoảng 22% ABC xuất hiện tại cột sống, 21% tại xương
cùng, còn lại ở đầu các xương dài [1] [7]. Lựa chọn điều
trị ABC tại cột sống bao gồm tắc mạch, xạ trị, nạo bỏ u
đơn thuần và phẫu thuật lấy bỏ u cả khối kết hợp tái làm
vững cột sống [1] [6] [8].
Trong bài viết này chúng tôi báo cáo một trường hợp
ABC tại cột sống ngực, qua đó điểm lại những vấn đề
chính về chẩn đoán và điều trị ABC ở cột sống, đặc biệt là
vấn đề điều trị phẫu thuật.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
52
I. Báo cáo trường hợp bệnh
BN nam, 15 tuổi, cách vào viện 3 tháng có tai
nạn ngã ưỡn cổ (đá bóng), sau ngã 4 tuần xuất hiện
khối to dần vùng cột sống bản lề cổ ngực kèm theo
BN cảm thấy đau tại vị trí tổn thương. BN nhập viện
với khối vùng bản lề cột sống cổ ngực, kích thước
khoảng 40.50 (mm), nổi gồ lên dưới da, ấn có cảm
giác căng mềm, bề mặt da vùng u không thay đổi.
BN yếu nhẹ 2 chân, cơ lực khoảng 3/5, tăng phản
xạ gân xương 2 gối, đại tiểu tiện tự chủ. Kết quả
Xquang, CT scanner và cộng hưởng từ (MRI) cắt qua
vùng tổn thương cho thấy khối vùng gai sau và cung
sau D1, kích thước khoảng 40.30.70 (mm), tăng tín
hiệu trên T1W, T2W và STIR dạng dịch không trong,
có phần giảm tín hiệu nhẹ trên T2W ở phần thấp tạo
thành mức dich-dịch. Trên CT scanner ranh giới khối
rõ, có dấu hiệu thổi vỏ nhưng không phá vỡ màng
xương, trong khối có nhiều vách và phát triển xâm
lấn vào cuống sống D1 hai bên, đẩy lồi gây hẹp ống
sống, chèn ép tủy cổ ngực ngang mức, tuy nhiên khối
chưa xâm lấn vào thân đốt sống và phần mềm xung
quanh.
Hình 1. Hình ảnh ABC của bệnh nhân trước
phẫu thuật.
BN được tiến hành mổ cấp cứu với chẩn đoán
ABC chèn ép tủy cổ ngực cấp tính với đường mổ cột
sống cổ-ngực lối sau đơn thuần, nạo vét hết tổ chức u
làm giải phẫu bệnh và tiến hành cố định cột sống cổ
bằng kỹ thuật vít qua cuống C7 D1D2D3.
Sau 1 năm khám lại các dấu hiệu lâm sàng BN
cải thiện tuy nhiên trên MRI chúng tôi phát hiện tổn
thương tái phát tại vị trí cung sau D1 và D2, chưa phát
hiện dấu hiệu chèn ép thần kinh và mất vững cột sống.
Hình 2. Hình ảnh ABC tái phát sau mổ tại ví trí
cung sau D1 và D2
III. BàN LUẬN
Van Arsdale là người đầu tiên mô tả tổn thương
ABC vào năm 1893 khi ông báo cáo một trường hợp
tổn thương dạng u máu trong xương đùi xuất hiện
sau khi bệnh nhân bị chấn thương 6 tuần [12]. Khái
niệm “nang xương phình mạch” lần đầu tiên được sử
dụng năm 1942 bởi Jaffe & Lichtenstein khi hai ông
báo cáo hai trường hợp ABC gặp phải ở hai BN nữ
tuổi 18 [10].
Đây là tổn thương u lành tính được đặc trưng bởi
xu hướng phát triển “phình ra” của các hồ máu chứa
trong các nang xương với thành xương rất mỏng
xuất hiện ở trẻ vị thành niên, ưu thế hơn ở nữ giới
và thường liên quan đến tiền sử chấn thương vùng
xương đó. Rất hiếm các trường hợp ABC xuất hiện
ở BN trên 20 tuổi [1] [9] [11]. Cơ chế bệnh sinh của
u chưa được biết rõ, có nhiều giả thiết: xuất huyết
dưới màng xương rồi hóa mô, rối loạn mạch máu
trong xương (huyết khối tĩnh mạch, thông động tĩnh
mạch), tạo một vỏ bọc ở một bệnh xương, u xương
có sẵn [5].
Trong hầu hết các trường hợp xuất hiện ở cột
sống, u thường xuất phát từ các thành phần phía sau
của cột sống (cung sau, mỏm gai) rồi phát triển lan
qua cuống ra trước xâm lấn vào thân đốt sống gây
gãy xương bệnh lý, xẹp thân đốt sống, biến dạng gập
góc trục cột sống và chèn ép thần kinh. Một tỷ lệ rất
nhỏ ABC phát triển âm thầm hoặc tự động thoái triển
[9]. Khoảng 1/3 các trường hợp khối u xâm lấn ra cả
tổ chức phần mềm quanh thân đốt sống nhưng không
bao giờ vượt qua đĩa đệm gian đốt sống, nếu tổn
thương xâm lấn các thân đốt khác lân cận thì đường
xâm lấn chính là qua các thành phần phía sau của cột
Phần 1: Phẫu thuật cột sống
53
sống [9]. Thời gian trung bình từ khi khối u xuất hiện đến
lúc chẩn đoán ra bệnh thường kéo dài 4 đến 8 tháng với
đau tại chỗ là triệu chứng thường gặp nhất, đau thường
tăng về đêm hoặc khi BN nằm ngửa, có thể phối hợp sờ
thấy khối mềm tương ứng ở vùng cột sống đau. Dấu hiệu
chèn ép thần kinh (rễ hoặc tủy sống ) xuất hiện ở 60-70%
các trường hợp, chèn ép tủy cấp tính thường do tổn thương
u phình ra quá nhanh hoặc xẹp thân đốt sống gây gù trục
cột sống quá mức, ngoài ra còn có thể do thành sau của
thân đốt sống bị tổn thương u phá vỡ dù thân đốt sống còn
chưa bị xẹp. Diễn biến chèn ép thần kinh dẫn đến liệt hoàn
toàn sẽ diễn ra rất nhanh nếu không có sự can thiệp của
điều trị, đây chính là thách thức về thời gian trong chẩn
đoán và điều trị ABC. Có một tỷ lệ rất nhỏ các nang xương
này tự động thoái triển, có lẽ chúng liên quan đến tình
trạng tắc mạch và xơ hóa trong các nang xương [9].
CT Scanner & MRI là hai phương tiện hình ảnh
có giá trị chẩn đoán cao với các trường hợp ABC. Trên
CTscanner, ABC đặc trưng bởi các tổn thương khuyết
xương hình bong bóng hoặc là sự phì đại (thổi vỏ) của các
khối xương với màng xương bị xói mòn mỏng [7] [9]. CT
scanner trước mổ rất có giá trị để phát hiện ra vùng tổn
thương, mức độ phá hủy xương, tính toàn vẹn của thành
xương, từ đó giúp phẫu thuật viên đưa ra được chiến lược
trong quá trình phẫu thuật cắt bỏ u, cố định và hàn xương.
Hình 3. Hình ảnh tổn thương mất xương và dấu hiệu
thổi vỏ với màng xương rất mỏng vị trí cung sau D1 trên
CTscanner của bệnh nhân
MRI là phương tiện đánh giá tốt nhất, cho cái nhìn tổng
quan về các thành phần của u, sự xâm lấn phần mềm quanh
thân đốt sống cũng như mức độ chèn ép tủy thần kinh ,
nhưng trong tất cả các trường hợp chúng ta đều không thấy
sự vượt quá giới hạn đĩa đệm gian thân đốt sống của tổn
thương u [8] [9]. Trên phim MRI, tổn thương ABC là một
khối có tín hiệu không đồng nhất trên hai thì T1W và T2W,
hình ảnh các nang xương với mức dịc-dịch rất đặc trưng
và là dấu hiệu gợi ý rất quan trọng để chẩn đoán ABC. Đó
là ranh giới của máu ở các giai đoạn khác nhau, phần nằm
dưới giảm tín hiệu hơn trên các chuỗi xung chính là các
thành phần hữu hình còn sót lại và protein của tế bào máu
lắng đọng [9]. Ngoài ra trên hình ảnh MRI sau tiêm thuốc
các nang xương còn hiện hình với thành nang mỏng, rất
rõ nét và mạng lưới các hốc chứa đầy máu này tạo ra hình
ảnh bọt xà phòng (soap-bubble) [9].
Hình 4. Hình ảnh nang xương với mức dich-
dịch điển hình trên phim MRI của bệnh nhân
Sinh thiết dưới hướng dẫn của CT Scanner cũng được
một số tác giả báo cáo và kết quả giải phẫu bệnh cho ta
chẩn đoán xác định ABC trước mổ, tuy nhiên trong một
số trường hợp cho kết quả âm tính giả hoặc ghi nhận biến
chứng máu tụ ngoài màng cứng [7] [9]. Trên hình ảnh đại
thể, xương bị biến dạng hoặc hủy một phần, nang xương
có kích thước 2-3cm, được giới hạn bởi vỏ xương và mô
xương mới, nếu xương bị hủy hết thì màng xương và phần
mềm bị ép sẽ giới hạn tổn thương, tổn thương đỏ sẫm hoặc
đỏ nâu chứa máu tươi hoặc máu cục đã mô hóa. Vi thể
tổn thương là những vách nang lớn hoặc nhỏ được lót bởi
các nguyên bào xơ và nguyên bào xơ cơ nhưng không có
tế bào nội mô mạch máu, xen kẽ là chất dạng xương và
các bè xương. Rải rác có tế bào khổng lồ hủy xương, mô
bào, tế bào viêm nhưng không thấy nhân chia hoặc tế bào
xương không điển hình, tế bào xương ác tính [5].
Hình 5. Hình ảnh vi thể của ABC [5]
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
54
Có hai cách phân loại ABC, theo đa số các tác giả
chủ trương chia ABC thành hai nhóm là nguyên phát
(thường sau chấn thương) và thứ phát (sau bệnh cảnh
của u tế bào khổng lồ, u nguyên bào xương & nguyên
bào sụn) [9]. Còn tác giả Enneking lại chia ABC thành
ba tuýp: Tuýp I là thể ẩn ít hoạt động (Latent), tuýp II
là thể hoạt động (Active) và tuýp III là tuýp phá hủy
xâm lấn nhiều (Aggressive) [3].
Chiến lược điều trị ABC tại cột sống
Điều trị ABC có thể chỉ là phẫu thuật nạo vét u
đơn thuần có hay không có ghép xương, phẫu thuật
cắt bỏ cả khối triệt để, nút mạch, xạ trị hoặc phối hợp
các phương pháp trên với nhau [7] [9].
Nút mạch trước mổ: giúp giảm lượng máu mất
và được rất nhiều phẫu thuật viên áp dụng, tuy nhiên
can thiệp này có thể gặp một tỷ lệ nhỏ biến chứng
thiếu máu tủy cục bộ [6] [9]. Các tác giả không chủ
trương xạ trị trước mổ vì ít giá trị [7].
Mổ nạo vét u: nạo bỏ u và sử dụng miếng xương
ghép đã được các tác giả báo cáo thành công khi
ABC xuất hiện ở đầu các xương dài [9], tuy nhiên kỹ
thuật này không áp dụng được cho các trường hợp
ABC ở cột sống. Ozaki và các cộng sự đã báo cáo
9 trường hợp ABC được phẫu thuật cắt bỏ u triệt để
không phát hiện trường hợp nào tái phát trong khi
có 2 trường hợp được phẫu thuật nạo bỏ u đơn thuần
đều tái phát [11]. Tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật nạo bỏ
u ABC đơn thuần là 19% và chúng thường tái phát
trong vòng 2 năm sau mổ [7] [9].
Phẫu thuật cắt bỏ triệt để khối u: đây là lựa chọn
đầu tiên cho những trường hợp ABC tại cột sống, đặc
biệt là các trường hợp có biểu hiện chèn ép thần kinh.
Cắt bỏ tối đa tổn thương, lấy bỏ cả khối (en bloc) nếu
có thể sẽ là lựa chon tối ưu cho ta tiên lượng tuyệt
vời sau mổ (excellent prognosis) vì tỉ lệ tái phát u
gần như không có [1] [2] [7] [8] [11], dù vẫn biết đây
chính là một thách thức rất lớn cho các phẫu thuật
viên. Hay và các cộng sự ghi nhận không phát hiện
trường hợp nào tái phát sau mổ cắt bỏ u rộng rãi và
25% tái phát ở những trường hợp phẫu thuật chưa
cắt bỏ triệt để tổ chức u sau hơn 2 năm theo dõi [4].
Với phẫu thuật, những vấn đề cần được cân nhắc bao
gồm tuổi BN, thể trạng, khả năng lấy bỏ hết u, kiểm
soát chảy máu trước và trong mổ, nguy cơ tổn thương
thần kinh, gù và mất vững cột sống sau mổ do phẫu
thuật cắt u rộng rãi.
Phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tồn thương bao gồm lấy
bỏ toàn bộ thành xương của u, toàn bộ phần mềm
bất thường và nghi ngờ bao quanh u, những bề mặt
xương tiếp giáp với vùng xương mỏng của u và toàn
bộ hệ thống màng mạch tăng sinh bất thường trong
các nang, chúng ta có thể sử dụng khoan mài tốc độ
cao để làm sạch những phần xương còn nghi ngờ có
tổn thương [2] [8] [9]. Đường mổ phụ thuộc vào vị
trí và mức độ xâm lấn của khối u, do hầu hết các tổn
thương đều xuất phát từ các thành phần phía sau của
cột sống nên phẫu thuật lối sau thường là lựa chọn
đầu tiên. Với những tổn thương xâm lấn vào cuống
hoặc phát triển ra mặt trước-bên của thân đốt sống thì
phẫu thuật đường bên, một hoặc cả hai bên thường
được áp dụng. Nếu tổn thương xâm lấn ra cả mặt
trước thân đốt sống thì phẫu thuật đường trước phối
hợp cùng một thì hoặc thì hai là bắt buộc, Mesfin và
cộng sự báo cáo 9 trường hợp điều trị ABC tại cột
sống trong vòng 11 năm (1995-2006) thì có 6 trường
hợp BN được phẫu thuật phối hợp hai đường (lối sau
và lối trước) kèm hàn xương [7].
Vấn đề làm vững cột sống: rất quan trọng, sự phá
hủy xương quá nhiều do u và phẫu thuật cắt bỏ u rộng
rãi chính là những nguyên nhân gây mất vững cột
sống. Vì vậy việc lên kế hoạch cố định làm vững cột
sống trước mổ sẽ cho phép phẫu thuật viên chủ động
thực hiện việc cắt bỏ khối u rộng rãi và triệt để. Vít
qua khối bên ở cột sống cổ, vít qua cuống ở cột sống
ngực và thắt lưng thường được áp dụng với những
trường hợp cắt bỏ khối u lối sau. Với những trường
hợp phẫu thuật 2 đường, đường trước thường là cắt
thân đốt sống nên vần đề dựng lại cột trụ trước là bắt
buộc với miếng ghép liên thân đốt và nẹp hỗ trợ [2]
[7] [9]. Sử dụng miếng xương ghép cho kết quả liền
xương và làm vững trục cột sống rất tốt, chúng ta
có thể sử dụng xương chậu, xương sườn, xương mác
tự thân hoặc đồng loại, các tác giả ưu tiên sử dụng
xương tự thân. Ngoài ra cũng có thể sử dụng miếng
ghép kim loại (cage) nhồi xương kết hợp ở các trường
hợp ABC tại cột sống cổ. Sau mổ BN được bất động
bằng khung Halo, nẹp cổ cứng hoặc khung cố định
cột sống ngực thắt lưng cùng (Thoracolumbosacral
orthosis brace) [2] [5] [7].
Biến chứng và tái phát: Với phẫu thuật lớn và
hầu hết các trường hợp là phối hợp cả hai đường
trong ABC, việc sự dụng hệ thống máy theo dõi thần
kinh tủy sống trong suốt quá trình phẫu thuật là bắt
buộc, tuy nhiên các tác giả vẫn ghi nhận có những
Phần 1: Phẫu thuật cột sống
55
biến chứng trong và sau mổ. Trong 9 trường hợp báo cáo,
Mesfin ghi nhận có một BN có dấu hiệu yếu hai tay sau
mổ cắt C6C7 phải mổ giải ép lại, một trường hợp cắt thân
D8 có rách màng tủy và một trường hợp nhiễm trùng vùng
lấy xương chậu phải tưới rửa kháng sinh. Sau 2 năm theo
dõi có 2 BN tái phát (1 BN trong bệnh cảnh phối hợp của
u tế bào khổng lồ. 1 BN ABC xuất hiện tại C3, tác giả chỉ
nạo vét u, không cắt bỏ hoàn toàn các thành phần phía
sau) [7].
Nghiên cứu lớn nhất về ABC tại cột sống (và xương
cùng) được Papagelopoulos và các cộng sự thực hiện,
nghiên cứu theo dõi trong 83 năm với 52 BN, trong đó có
41 BN tổn thương đơn thuần tại cột sống đều được điều
trị bằng phẫu thuật, tỷ lệ tái phát sau mổ là 13% và 31%
các trường hợp có các biến chứng khác nhau, trong có có
2 BN tử vong. 1 BN tổn thương phát triển thành ung thư
xương sau điều trị phẫu thuật kết hợp xạ trị, 1 BN ngừng
tim trong mổ do mất máu quá nhiều [8].
Một báo cáo lớn khác của Boriani, tác giả điều trị và
theo dõi 41 BN trong vòng 44 năm trong đó có 32 BN
được điều trị bằng phẫu thuật, báo cáo nghi nhận tỷ lệ gặp
các loại biến chứng khác nhau là 17% và tái phát là 5%
(1 BN chỉ được phẫu thuật nạo vét đơn thuần và 1 BN chỉ
điều trị bằng nút mạch đơn thuần) [1]. Trong các báo cáo,
các tác giả đều thống nhất đa số ABC tái phát trong vòng 2
năm sau phẫu thuật [1] [2] [7] [9].
Với trường hợp BN trong báo cáo này của chúng tôi,
tổn thương u xâm lấn hai cuống sống và có thể bao gồm
cả những phần xương ranh giới giữa bệnh lý-lành tính
chưa được lấy bỏ triệt để trong lần phẫu thuật đầu chính là
nguyên nhân u tái phát. Hiện chúng tôi đang lên kế hoạch
phẫu thuật lần hai nhằm lấy bỏ toàn bộ tổ chức u còn sót
lại ở các thành phần phía sau của D1 và D2.
IV. KếT LUẬN
Trong điều trị ABC tại cột sống, phẫu thuật lấy bỏ u
triêt để hoặc cắt bỏ u cả khối (en bloc) kết hợp làm vững
cột sống bằng dụng cụ và hàn xương là sự lựa chọn tối ưu,
cho chúng ta tiên lượng tốt về lâu dài. Tuy nhiên kỹ thuật
thực hiện cũng đang chính là thách thức cho các phẫu
thuật viên.
Tài liệu tham khảo
1. Boriani S, De Iure F, Campanacci L, et al (2001) “Aneurysmal
bone cyst of the mobile spine: report on 41 cases”, Spine,
26(1): 27-35.
2. De Kleuver M, Van der Heul RO, Veraart BE (1998).
“Aneurysmal Bone cyst of the spine: 31 cases and the
importance of the surgical approach”, J Pediatr Orthop B; 7(4):
286-292.
3. Enneking WF (1986). “A system of staging musculoskeletal
neoplasm”, Clin Orthop Relat Res; 204: 9-24.
4. Hay MC, Pateson D, Taylor TK (1978). “Aneurysmal bone
cyst of the spine”, J Bone Joint Surg. 60: 406-411.
5. K Krishnan Unni and MD (2005). “Tumor of the bones and
Joint”, AFIP, series 4: 324-328.
6. Marushima A, Matsumaru Y, Suzuki K, et al (2009).
“Selective Arterial Embolization with n-butyl cyanoacrylate in
the treatment of aneurysmal bone cyst of the thoracic vertebra:
a case report”, Spine; 34(6): E230-234.
7. Mesfin MD, Edward F. McCarthy MD, Khaled M.Kebaish
MD (2006). “Surgical treatment of Aneurysmal bone cyst of
the spine”, The Iowa orthopaedic Journal.
8. Papagelopoulos PJ, Currier BL, Shaughnessy WJ et al
(1998). “Aneurysmal bone cyst of the spine. Management and
outcome”, Spine; 23(5): 621-628.
9. James K, Liu, M.D., Douglas L, et al (2003). “Surgical
management of aneurysmal bone cyst of the spine”, Neurosurg
Focus; 15(5): 4-11.
10. Jaffe HL, Lichtenstein L (1942) “Solitary Unicameral bone
cyst: with emphasis on the roentgen picture, the pathologic
appearance and the pathogenesis”, Arch Surg, 44(5): 1004-
1025.
11. Ozaki T, Halm H, Hillmann A, et al (1999). “Aneurysmal bone
cyst of the spine”, Arch Orthop Trauma Surg, 119: 159-162.
12. V Arsdale WW (1893). “Ossifying Haematoma”, Ann
Surg.18(1):8-17.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nang_xuong_phinh_mach_tai_cot_song_bao_cao_nhan_mot_truong_h.pdf