Có hai thì phẫu thuật chiếm nhiều thời
gian vì đòi hỏi sự tỉ mỉ là thì phẫu tích nang và
thì nối ống gan‐ hỗng tràng. Đây cũng là một
thách thức cho lòng kiên nhẫn của ê kíp phẫu
thuật. Thời gian phẫu thuật phụ thuộc vào loại
nang, nang có biến chứng trước đó hay không,
tuổi, vào kỹ năng thành thạo của ê kíp phẫu
thuật. Thời gian phẫu thuật trung bình trong
nghiên cứu của Chowbey(2) là 326.6 phút với
thời gian cắt nang trung bình là 45 phút. Ca
phẫu thuật đầu tiên trong lô nghiên cứu của
Jang(4) là 330 phút, nhưng với kinh nghiệm tích
lũy dần, thời gian được rút ngắn lại trung bình
còn 228 phút. Theo Lee(7), thời gian phẫu thuật
trung bình là 439 phút vì trong nghiên cứu này
có nhiều nang type Ic hơn, việc bóc tách nang
khó khăn hơn so với nang type Ia. Tuy nhiên,
theo Miyano(10), nang type Ic ít dính hơn so với
type Ia, thường kích thước nang to hơn, dính
hơn nên thời gian bóc tách có thể lâu hơn. Thời
gian phẫu thuật trung bình trong nghiên cứu
của Tanaka đến 10h16 phút, của Nguyễn Tấn
Cường là 239,64 phút(12). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, thời gian phẫu thuật trung bình
257,2 ± 50,1 phút
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 446 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nc 584 những điểm kỹ thuật của phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở người lớn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
304
Nc 584 NHỮNG ĐIỂM KỸ THUẬT CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT
NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở NGƯỜI LỚN
Đỗ Minh Hùng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ
thuật nhất là ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Do đó, chúng tôi tiến hành phân tích
những điểm kỹ thuật để thấy những khó khăn trong phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn
tuổi từ kinh nghiệm của 1 phẫu thuật viên duy nhất.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 7‐2009 đến tháng 4‐2013, chúng tôi đã thực hiện phẫu
thuật nội soi cắt nang ống mật chủ cho 39 bệnh nhân lớn tuổi. Tất cả các trường hợp đều được phẫu thuật nội soi
cắt nang thành một khối, nối ống gan‐hỗng tràng kiểu Roux‐en‐Y. Phân tích những điểm kỹ thuật của tất cả
những trường hợp phẫu thuật này.
Kết quả: Thời gian phẫu thuật 175‐360 phút. Không có trường hợp nào chuyển mổ hở. Có 35 trường hợp
nối ống gan – hỗng tràng bằng kỹ thuật khâu nội soi ở mức ống gan chung, 4 trường hợp ở ngã 3 ống gan, 1
trường hợp ống gan trái có vách ngăn phải cắt vách. Nuôi ăn qua miệng bắt đầu từ 1‐4 ngày sau phẫu thuật và
thời gian hậu phẫu từ 4 – 17 ngày. Thời gian theo dõi 1‐ 46 tháng.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ có thể thực hiện được và an toàn hơn với kinh nghiệm
được tích lũy.
Từ khóa: Những điểm kỹ thuật, phẫu thuật nội soi, cắt nang ống mật chủ.
ABSTRACT
TECHNICAL NOTE ON LAPAROSCOPIC EXCISION OF CHOLEDOCHAL CYSTS IN ADULTS
Do Minh Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 4 ‐ 2013: 304 ‐ 310
Background: Laparoscopic excision of choledochal cysts in adults is technically challenging. In Vietnam,
there have been few reports on the laparoscopic treatment of choledochal cyst. We present technical notes of
laparoscopic adult choledochal cyst excision from an only surgeon’s experience.
Materials and methods: From July 2009 to April 2013, we performed laparoscopic resection choledochal
cyst for 39 adult patients. The current report analyzes the author’s technique of laparoscopic en bloc excision of
choledochal cysts with Roux‐en‐Y anastomosis.
Results: The range operating time was 175‐360 min. There was no open conversion. Laparoscopic hepato‐
jejunostomy was fashioned at the level of the common hepatic duct in 35 and at the bifurcation in 4 patients. Oral
feeds were started from the first to the fourth postoperative day and the duration of post‐operative stay was 4‐17
days. Follow‐up observations lasted 1‐46 months.
Conclusion: With accumulated experience, laparoscopic resection of choledochal cyst in adult is feasible and
safe.
Key words: Technical note, laparoscopic excision, choledochal cyst.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nang ống mật chủ là 1 bệnh lý lành tính
hiếm gặp của đường mật nhưng một khi được
chẩn đoán nang phải được cắt đi cùng với túi
mật, tái tạo ống gan‐ruột vì nguy cơ diễn tiến
thành ung thư đường mật chính và túi mật. Xử
trí kinh điển nang đường mật là phẫu thuật mở.
Với những tiến bộ cả về kỹ thuật và dụng cụ, các
* Khoa ngoại tổng quát bệnh viện Bình Dân, TP.HCM
Tác giả liên lạc: Ths.BS. Đỗ Minh Hùng ĐT: 0903857495 Email: dominhhung@rocketmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
305
phẫu thuật viên đã thực hiện các phẫu thuật có
mức độ phức tạp cao mà vẫn đảm bảo kết quả
với ít chấn thương hơn và mau hồi phục hơn.
Farello lần đầu tiên báo cáo phẫu thuật nội soi
cắt nang ống mật chủ type I, nối ống gan‐hỗng
tràng Roux‐en‐Y vào 1995 cho 1 bé gái 6
tuổi(6,20,21). Shimura tiếp đó đã báo cáo một
trường hợp phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật
ở bệnh nhân 19 tuổi vào 1998(15). Nhiều tác giả đã
báo cáo kinh nghiệm phẫu thuật cắt nang đường
mật bằng phẫu thuật nội soi. Tuy nhiên, phẫu
thuật nội soi cắt nang ống mật chủ ở bệnh nhân
lớn tuổi vẫn là một thách thức về mặt kỹ thuật
nhất là ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu
báo cáo về vấn đề này. Do đó, chúng tôi tiến
hành phân tích những điểm kỹ thuật để thấy
những khó khăn trong phẫu thuật nội soi cắt
nang ống mật chủ ở bệnh nhân lớn tuổi qua 39
trường hợp từ kinh nghiệm của 1 phẫu thuật
viên duy nhất, rút kinh nghiệm để có thể thực
hiện phẫu thuật này ngày một hiệu quả, an toàn
và dễ dàng hơn.
ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một nghiên cứu tiền cứu mô tả loạt
ca, đối tượng là những bệnh nhân có nang ống
mật chủ từ 16 tuổi trở lên được phẫu thuật tại
bệnh viện Bình Dân thành phố Hồ Chí Minh.
Thời điểm nghiên cứu từ 7 – 2009 đến 4 –
2013, 39 trường hợp đã được chúng tôi thực hiện
phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ thành
một khối, nối ống gan‐hỗng tràng Roux‐en‐Y.
Kỹ thuật
Tư thế bệnh nhân
Bệnh nhân nằm ngửa, đầu cao, nghiêng
trái, dạng 2 chân. Phẫu thuật viên đứng bên
trái bệnh nhân.
Vị trí trocars
Chúng tôi sử dụng 4 trocars. 1 trocar 10‐mm
ở rốn cho camera, 1 trocar 10‐mm ở thượng vị, 2
trocars 5‐mm ở hạ sườn phải, 1 trường hợp đặt
thêm 1 trocar 5‐mm ở bên trái đường giữa giữa
trocar thượng vị và rốn. Sử dụng dụng cụ đốt
đơn cực.
Hình 1: Vị trí trocars và phẫu thuật viên
Qui trình phẫu thuật
Chúng tôi thực hiện kỹ thuật cắt nang
thành một khối, phẫu tích từ phần xa của ống
mật trước, kẹp cắt đầu xa và phẫu tích ngược
lên rốn gan.
Kẹp túi mật vén lên phía hoành phải hoặc
khâu treo lên thành bụng để phơi bày nang và
làm rộng phẫu trường khi phẫu tích. Mở lớp
thanh mạc che ống mật chủ để bộc lộ thành
nang. Phẫu tích dọc thành nang để tách nang ra
khỏi 2 thành phần còn lại của cuống gan là động
mạch gan riêng và tĩnh mạch cửa. Phẫu tích về
phía đầu xa của ống mật chủ. Không cố gắng tìm
kênh chung mật tụy. Cột hoặc clip, cắt đoạn xa.
Phẫu tích nang ra khỏi cấu trúc lân cận về phía
trên. Phẫu tích, kẹp, cắt động mạch túi mật.
Phẫu tích ống túi mật, làm rõ, rộng vùng tam
giác gan mật. Cắt túi mật khỏi giường từ đáy.
Phẫu tích nang lên sát 2 ống gan. Đánh dấu
hỗng tràng cách góc Treitz khoảng 20cm. Mở
rộng đường mổ ở rốn làm miệng nối hỗng‐hỗng
tràng (40‐60cm tới rốn gan). Mở lỗ nối cách bờ
cắt #2cm ở quai ruột nối với ống gan. Đưa ruột
vào, đóng nhỏ lại vết mổ rốn. Đưa quai hỗng
tràng để nối lên gần rốn gan. Tiến hành cắt đầu
trên nang. Nối hỗng tràng‐ống gan. Mặt sau nối
mũi liên tục, mặt trước nối mũi rời nếu ống gan
> 10mm, nối mặt trước sau đều bằng mũi rời nếu
ống gan < 10mm(11). Dẫn lưu dưới gan.
Chúng tôi thu thập các biến số về kích thước
nang, tình trạng viêm nhiễm quanh nang trong
lúc mổ, đường kính ống gan và đoạn cuối ống
mật nằm trong nhu mô tụy, vị trí và kiểu khâu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
306
nối ống gan‐hỗng tràng, ghi nhận thời gian phẫu
thuật, tai biến biến chứng, những cấu trúc giải
phẫu bất thường, thời gian nằm viện. Các biến
số được phân tích thành giá trị trung bình ± độ
lệch chuẩn. Phân tích mối tương quan giữa
đường kính nang, viêm nhiễm quanh nang với
thời gian phẫu tích nang bằng hồi qui tuyến tính.
KẾT QUẢ
Chúng tôi phẫu thuật cắt nang qua ngả nội
soi ổ bụng cho 39 trường hợp với 37 trường hợp
là nữ, tuổi trung bình 31,1 ± 9,6 tuổi (16 – 56
tuổi).
Đường kính nang đo được trong lúc phẫu
thuật: chiều ngang nang 43,3 ± 25,4mm (20‐
150mm), chiều dài 59,9 ± 16mm (30‐100mm) .
Có 20 trường hợp viêm túi mật trong đó có 1
trường hợp kèm ống Luska, 1 trường hợp có ống
túi mật dãn to. Có 2 trường hợp gan xơ ứ mật, 30
trường hợp viêm dính quanh nang nhiều.
Đường kính đoạn cuối ống mật đoạn trong
nhu mô tụy được phẫu tích trung bình 2,2 ± 0,4
mm (1‐3mm).
Thực hiện kiểu khâu vắt ở mặt sau của
miệng nối ống gan – hỗng tràng trong 25 trường
hợp; 34 trường hợp hợp miệng nối ở ngang mức
ống gan chung, 4 trường hợp ở ngã 3 ống gan
trong đó có 1 trường hợp có vách ở ống gan trái
phải tiến hành cắt vách. Một trường hợp cắt
ngang 2 ống gan được nối lại vách 2 ống gan và
nối với hỗng tràng.
Thời gian phẫu thuật trung bình 257,2 ± 50,1
phút (175‐360 phút).
Bảng 1: Thời gian phẫu tích ở từng thì phẫu thuật
Thời gian (phút) Trung bình Khoảng
Phẫu tích nang 121,7±39,8 60-225
Làm miệng nối hỗng-hỗng tràng 39,4±11 20-60
Nối ống gan-hỗng tràng 63,8±18,4 30-100
Phẫu thuật hoàn tất 257,2±50,1 175-360
Bảng 2: Tương quan giữa đường kính ngang trong mổ với thời gian phẫu tích nang
Đường kính ngang trong mổ Thời gian phẫu tích nang
Đường kính ngang trong
mổ
Hệ số tương quan r 1 ,397*
P (2-tailed) ,012
N 39 39
Thời gian phẫu tích nang Hệ số tương quan r ,397* 1
P (2-tailed) ,012
N 39 39
* Liên hệ có ý nghĩa thống kê với P < 0,05
Bảng 3: Tương quan giữa tình trạng viêm quanh
nang với đường kính ngang trong mổ và thời gian
phẫu tích nang
Biến số Hệ số hồi qui
Khoảng tin
cậy 95% P
Viêm dính quanh nang
(nhẹ-nhiều) 41,32 15,05-67,59 0,003
Đường kính ngang trong mổ 0,462 0,02-0,90 0,041
Chiều dài vết mổ rốn trung bình 2,8 ± 0,6 cm
(2 – 4).
Không có trường hợp nào phải truyền
máu, tai biến biến chứng phải chuyển mổ hở
hoặc mổ lại.
Thời gian hậu phẫu trung bình là 6.8 ± 2,7
ngày (từ 4 – 17 ngày).
Thời gian theo dõi trung bình 25 ± 13,5 tháng
(1 ‐ 46 tháng).
100% các trường hợp đều phẫu thuật qua
ngả nội soi ổ bụng với một ê kíp phẫu thuật từ
một phẫu thuật viên chính duy nhất.
BÀN LUẬN
Phần phẫu tích nang khỏi cấu trúc xung quanh
Trong phẫu thuật chúng tôi nhận thấy có
những thì phẫu tích khá khó khăn ảnh hưởng
đến thành bại trước mắt của cuộc phẫu thuật.
Phẫu tích nang khỏi cấu trúc xung quanh hết sức
tinh tế để tránh tổn thương các cấu trúc xung
quanh như tá tràng, động mạch gan, tỉnh mạch
cửa. Phẫu tích nang khỏi tĩnh mạch cửa phía sau
trong giai đoạn đầu thì khó khăn cho đến khi tạo
được 1 đường hầm giữa nang và tĩnh mạch cửa,
nâng ống mật chủ ra phía trước. Với những
trường hợp viêm dính nhiều, phẫu tích vòng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
307
quanh trọn nang càng khó khăn cho nên phẫu
tích từ phần thấp với khẩu kính nang nhỏ sẽ tạo
đường hầm dễ dàng hơn(10). Ở người lớn tuổi có
bệnh sử đau nhiều lần thì khả năng viêm dính
nang với cuống gan đầu tụy càng nhiều, phẫu
tích càng khó khăn(11). Tỉ lệ viêm dính nhiều
quanh nang khi phẫu thuật trong nghiên cứu
của chúng tôi là 76.9% làm cho thì phẫu tích
nang khó khăn hơn. Tuy nhiên, chúng tôi nhận
thấy những trường hợp có phần nang to, nằm
sâu trong nhu mô tụy, việc phẫu tích ở phần xa
để tạo đường hầm trở nên khó khăn hơn nhất là
khi viêm dính, tăng sinh mạch máu. Những
trường hợp này nên chọn lựa phẫu tích từ chỗ có
kích thước nang nhỏ nhất ngoài tụy, thường là ở
đoạn gần ống gan, thì việc tạo đường hầm tỏ ra
dễ dàng hơn. Trong những trường hợp nang
quá to chúng tôi nhận thấy việc thực hiện kỹ
thuật cắt nang thành một khối mà không có làm
xẹp bớt kích thước nang bằng cách mở thành
trước nang thì cũng góp phần khó khăn ở thì
phẫu thuật này. Tuy nhiên, trong nghiên cứu
của chúng tôi chỉ thực hiện giảm áp bằng chọc
hút. Chúng tôi có 2 trường hợp kích thước nang
khổng lồ 130‐150mm làm thời gian phẫu tích lên
đến 106‐225 phút. Thực hiện kiểm định mối
tương quan giữa yếu tố viêm nhiễm quanh
nang, kích thước ngang của nang ảnh hưởng
đến thời gian phẫu tích nang bằng hồi qui tuyến
tính cho thấy có mối liên hệ thuận chặt chẽ giữa
các yếu tố này có ý nghĩa thống kê.
Phẫu tích nang ở đoạn cuối trong nhu mô
tụy thì cực kỳ quan trọng, tránh không chảy
máu để có thể xác định đoạn hẹp lại bình
thường của ống mật chủ. Các tác giả cũng
khuyên không nên sử dụng đốt điện quá mức
vì có thể làm tổn thương ống tụy chính
và/hoặc kênh chung. Hạch Cattell là mốc quan
trọng để xác định cột mốc đầu dưới ở đoạn tá
tràng đầu tụy.
Thực tế trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ
dùng dao đốt đơn cực để phẫu tích, cầm máu
mà vẫn thực hiện an toàn. Vấn đề đặt ra là
phẫu tích tỉ mỉ, thận trọng để tránh phạm phải
động mạch tá tụy sau trên và động mạch vị tá.
Khi phẫu tích lên vùng rốn gan, cần hết sức
lưu ý đến động mạch gan phải, chạy sau ống
gan chung tại rốn gan để tránh làm tổn thương
mạch máu này. Trong nghiên cứu của chúng
tôi có 2 trường hợp động mạch gan phải chạy
trước ống gan. Thời gian phẫu tích ở thì này
chiếm nhiều thời gian của cả cuộc phẫu thuật,
trung bình 121,7 ± 39,8 phút. Với đầu trên,
đoạn ống gan chung lý tưởng còn lại để nối
khoảng 1cm là đủ(10).
Cắt đầu xa của nang
Ống mật chủ có thể nằm sát ống tụy cho
nên để tránh tổn thương các phẫu thuật viên
nhất trí cắt đầu dưới ở đoạn đường mật đi vào
nhu mô tụy, gần chỗ nối với ống tụy nhất, và ở
nơi nhỏ nhất có thể (thường 1‐3mm) là an
toàn. Có tác giả đề nghị chỉ cần phẫu tích đến
chỗ hẹp lại bình thường, nhỏ nhất trong nhu
mô tụy là an toàn, không cần tìm chỗ nối mật
tụy(2,21) và tránh lạm dụng đốt điện đơn cực
quá nhiều vì có thể gây tổn thương ống tụy(18).
Có tác giả dựa vào khoảng cách từ cổ nang tới
chỗ nối mật tụy để quyết định sự phẫu tích(1).
Nếu khoảng cách này >5mm, khả năng tổn
thương ống tụy thấp khi phẫu tích xuống đoạn
cuối ống mật nằm trong nhu mô tụy. Nếu
khoảng cách này ≤5mm hoặc không có, phần
nang trong tụy chỉ phẫu tích một phần, lòng
bên trong ống được cột lại để tránh tổn thương
ống tụy(1). Chúng tôi cũng không cố gắng phẫu
tích để tìm kênh chung mật tụy một khi phần
hẹp bình thường của ống mật chủ đã được xác
định vì nguy hiểm(2). Một trường hợp trong
nghiên cứu của Jang J.Y(4) bị đứt đoạn cuối ống
mật chủ vì lôi kéo nang lên phía trên quá mức,
cho nên thao tác cần hết sức cẩn trọng. Chúng
tôi có 2 trường bị đứt đầu dưới ống mật chủ, 1
trường hợp được tìm thấy và kẹp lại, 1 trường
hợp không xử trí gì thêm. Cả hai trường hợp
này do cố gắng phẫu tích cho đoạn cuối nhỏ
nhất và lực kéo căng nên gây đứt. Tuy nhiên,
cả hai trường hợp này đều không có viêm tụy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
308
sau mổ. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
đường kính đoạn cuối ống mật phần trong
nhu mô tụy được phẫu tích trung bình 2,2 ± 0,4
mm (1‐3mm).
Tạo chân hỗng‐hỗng tràng
Chúng tôi tạo chân hỗng‐hỗng tràng ngoài
ổ bụng bằng cách đưa đoạn đầu hỗng tràng ra
ngoài qua việc mở rộng lổ trocar ở rốn khoảng
2‐4cm. Thực hiện kỹ thuật này giúp tiết kiệm
chi phí đáng kể cho bệnh nhân, giảm thiểu thời
gian phẫu thuật(7,17). Việc tạo miệng nối hỗng –
hỗng tràng trong ổ bụng bằng stapler gây mất
thời gian vì các vị trí trocars không thích hợp
lắm nhất là ở trẻ em(6). Tuy nhiên, trong ca đầu
tiên chúng tôi mất hơn 1 giờ cho thì này vì sợ
xoắn chân.
Nối ống gan‐hỗng tràng
Vấn đề cắt đầu trên nang, các phẫu thuật
viên đều cố gắng cắt cao, ở ống gan chung hoặc
gần chỗ hợp lưu của 2 ống gan phải và trái(9,14).
Todani thích cắt cao và nối ở rốn gan nhưng
Miyano cho rằng nối với ống gan chung là đủ
hiệu quả, chỉ nối ở rốn gan trong một số trường
hợp đặc biệt, và một số tác giả cũng ủng hộ quan
điểm của Miyano(3,8,11). Trong nghiên cứu của Lee
chỉ có 23% trường hợp (14/75 bệnh nhân) cần
phẫu tích cao và nối ở chỗ hợp lưu 2 ống gan
phải và trái(8). Tác giả Cho(1) thường nối ở ống
gan chung cách chỗ hợp lưu 2 ống gan khoảng
5mm. Để hạn chế hẹp miệng nối sau mổ có tác
giả khuyên nên tạo hình miệng nối có đường
kính ít nhất 3cm(16); một số tác giả sử dụng
đường khâu mũi rời cho những trường hợp ống
gan nhỏ hơn 10mm(3,11), hoặc 15mm(13, 19), mũi
liên tục ở mặt sau và mũi rời ở mặt trước cho
miệng nối lớn hơn 10mm(3, 11), hoặc 15mm(13,19).
Điều quan trọng là tạo được miệng nối niêm‐
niêm để mô lành tốt không gây xơ hẹp miệng
nối(14). Trường hợp có vách ngăn trong ống gan
phải cắt bỏ vách này đi.
Nối ống gan hỗng tràng là thì phẫu thuật
quan trọng và khó khăn nhất(2,4,6,15) vì đòi hỏi 1
kỹ năng khâu nội soi tốt để tránh hẹp miệng nối
sau mổ. Có 25 trường hợp của chúng tôi có phần
ống gan còn lại >10mm, đều được khâu bằng
mũi liên tục ở mặt sau và mũi rời ở mặt trước; 14
trường hợp khâu nối hoàn toàn bằng mũi rời vì
phần ống gan nhỏ <10mm. Chúng tôi thường
khâu lộn niêm mạc ở miệng nối hỗng tràng ra
ngoài ở thì làm ruột ngoài ổ bụng để miệng nối
niêm‐niêm được thực hiện dễ dàng hơn, ống gan
thường được cắt vát để tăng đường kính miệng
nối. Tanaka và cộng sự thực hiện kỹ thuật nâng
thành bụng, đưa kẹp kim vào để thực hiện nối
ống gan‐hỗng tràng(18). Đối với những trường
hợp khó như đoạn ống gan còn lại sát rốn gan,
đoạn ống gan còn lại nhỏ <10mm... có tác giả làm
một đường mổ nhỏ khoảng 5cm hoặc sử dụng
bàn tay hổ trợ để khâu nối(12). Chúng tôi thực
hiện 34 trường hợp hợp miệng nối ở ngang mức
ống gan chung, 4 trường hợp ở ngã 3 ống gan, 1
trường hợp nối vào 2 ống gan được khâu nối lại
giữa hai vách hoàn toàn bằng nội soi. Trong ca
đầu tiên chúng tôi thực hiện nối ống gan‐hỗng
tràng mất trung bình là 63,8 ± 18,4 phút. Le(6)
trong 2 trường hợp đầu thực hiện nối nang là 75
và 55 phút.
Dẫn lưu dưới gan
Dẫn lưu dưới gan là thường qui cho những
trường hợp cắt nang ống mật chủ nối ống gan‐
hỗng tràng. Dẫn lưu nhằm thoát dịch còn
đọng lại, dẫn lưu dịch tiết do phẫu tích, dẫn
lưu dịch mật trong những trường hợp dò mật
nhẹ và để báo hiệu trong những trường hợp
chảy máu. Chúng ta phải luôn đề phòng dò
mật ở miệng nối vì kiểm soát độ kín ở mũi
khâu liên tục trong phẫu thuật nội soi thì hơi
khó(5). Trong ca đầu tiên chúng tôi sử dụng 5
trocars, khi khâu mặt sau chúng tôi dùng dụng
cụ để nắm chỉ nên đường khâu kín và không
có dò mật. Chúng tôi, theo kinh nghiệm của
Le(6), chỉ cắt ngang đầu trên nang khi miệng
nối hỗng‐hỗng tràng đã được làm xong, ruột
được đưa vào ổ bụng và chân nối đã được đưa
lên gần rốn gan vì thế lượng mật tụ dưới gan
rất ít, sau khi lau rửa lượng dịch ra dẫn lưu rất
ít. Trong nghiên cứu của Chowbey(2) ống dẫn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
309
lưu dưới gan được rút sau mổ 5‐27 ngày, khi
dịch là dịch tiết và ít hơn 50ml.
Thời gian mổ
Có hai thì phẫu thuật chiếm nhiều thời
gian vì đòi hỏi sự tỉ mỉ là thì phẫu tích nang và
thì nối ống gan‐ hỗng tràng. Đây cũng là một
thách thức cho lòng kiên nhẫn của ê kíp phẫu
thuật. Thời gian phẫu thuật phụ thuộc vào loại
nang, nang có biến chứng trước đó hay không,
tuổi, vào kỹ năng thành thạo của ê kíp phẫu
thuật. Thời gian phẫu thuật trung bình trong
nghiên cứu của Chowbey(2) là 326.6 phút với
thời gian cắt nang trung bình là 45 phút. Ca
phẫu thuật đầu tiên trong lô nghiên cứu của
Jang(4) là 330 phút, nhưng với kinh nghiệm tích
lũy dần, thời gian được rút ngắn lại trung bình
còn 228 phút. Theo Lee(7), thời gian phẫu thuật
trung bình là 439 phút vì trong nghiên cứu này
có nhiều nang type Ic hơn, việc bóc tách nang
khó khăn hơn so với nang type Ia. Tuy nhiên,
theo Miyano(10), nang type Ic ít dính hơn so với
type Ia, thường kích thước nang to hơn, dính
hơn nên thời gian bóc tách có thể lâu hơn. Thời
gian phẫu thuật trung bình trong nghiên cứu
của Tanaka đến 10h16 phút, của Nguyễn Tấn
Cường là 239,64 phút(12). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, thời gian phẫu thuật trung bình
257,2 ± 50,1 phút.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật nội soi cắt nang đường mật ngoài
gan tuy còn nhiều thách thức nhưng có thể thực
hiện được và an toàn hơn với ê kíp phẫu thuật
nội soi có nhiều kinh nghiệm mà không cần
dụng cụ đặc biệt nào. Bệnh nhân nên được phẫu
thuật càng sớm càng tốt, trong tình trạng không
có viêm nhiễm nhiều quanh nang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cho MJ, Hwang S, Lee YJ, Kim KH, Ahn CS, Moon DB, Lee
SK, Kim MH, Lee SS, Park DH, Lee SG (2011). Surgical
Experience of 204 Cases of Adult Choledochal Cyst Disease
over 14 Years. World J Surg, 35 (5):1094‐1102.
2. Chowbey PK, Soni V, Sharma A, Khullar R, Baijal M (2005).
Laparoscopic Hepaticojejunostomy for Biliary Strictures. Surg
Endosc, 19:273‐279.
3. Đỗ Minh Hùng, Nguyễn Phúc Minh (2012). Phẫu Thuật Nội
Soi Cắt Nang Ống Mật Chủ Ở Người Lớn ‐ Nối Ống Gan
Hỗng Tràng Roux‐En‐Y. Phẫu Thuật Nội Soi và Nội Soi Việt
Nam, 2 (2):55‐60.
4. Jang JY, Kim SW, Han HS, Yoon YS, Han SS, Park YH (2006).
Totally Laparoscopic Management of Choledochal Cysts
Using a Four‐Hole Method. Surg Endosc, 20 (11):1762‐1765.
5. Kim JH, Choi TY, Han JH, Yoo BM, Hong J, Kim MW, Kim
WH (2008). Risk Factors of Postoperative Anastomotic
Stricture after Excision of Choledochal Cysts with
Hepaticojejunostomy. J Gastrointest Surg, 12 (5):822‐828.
6. Le DM, Woo RK, Sylvester K, Krummel TM, Albanese CT
(2005). Laparoscopic Resection of Type 1 Choledochal Cysts
in Pediatric Patients. Surgical Endoscopy, 20 (2):249‐251.
7. Lee KH, Tam YH, Yeung CK, Chan KW, Sihoe JDY, Cheung
ST, Mou JWC (2009). Laparoscopic Excision of Choledochal
Cysts in Children an Intermediate‐Term Report. Pediatr Surg
Int 25:335‐360.
8. Lee KH, Tam YH, Chan EKW, Sihoe JDY, Cheung GST, Mou
JWC (2009). A Twenty‐Year Experience in Choledochal Cysts
in Children: From Open to Laparoscopic Excision. HK J
paediatr, 14:158‐167.
9. Mabrut JY, Bozio G, Hubert C, Gigot JF (2010). Management
of Congenital Bile Duct Cysts. Dig Surg, 27 (1):12‐18.
10. Miyano T, Urao M, Yamataka A (2006). ʺCholedochal Cystʺ,
in Pediatric Surgery. Springer, New York. Sec. Chap 34: 371‐
386.
11. Nguyễn Cao Cương (2005). Chẩn Đoán Và Kết Quả Phẫu
Thuật Cắt Nang Đường Mật Ở Người Lớn. Đại Học Y Dược
TP Hồ Chí Minh. Luận Án Tiến Sĩ
12. Nguyễn Tấn Cường (2008). Kết Quả Bước Đầu Phẫu Thuật
Cắt Nang Đường Mật Qua Ngã Nội Soi. Y Học TP.Hồ Chí
Minh, 12 (4):143‐149.
13. Palanivelu C, Rangarajan M, Parthasarathi R, Amar V,
Senthilnathan P (2008). Laparoscopic Management of
Choledochal Cysts: Technique and Outcomes‐‐a
Retrospective Study of 35 Patients from a Tertiary Center. J
Am Coll Surg, 207 (6):839‐846.
14. Shah OJ, Shera AH, Zargar SA, Shah P, Robbani I, Dhar S,
Khan AB (2009). Choledochal Cysts in Children and Adults
with Contrasting Profiles: 11‐Year Experience at a Tertiary
Care Center in Kashmir. World J Surg, 33 (11):2403‐2411.
15. Shimura H, Tanaka M, Shimizu S, Mizumoto K (1998).
Laparoscopic Treatment of Congenital Choledochal Cyst.
Surg Endosc, 12:1268–1271.
16. Singham J, Yoshida EM, Scudamore CH (2010). Choledochal
Cysts.Part3.Management. Can J Surg, 53 (1):51‐56.
17. Srimurthy KR, Ramesh S (2006). Laparoscopic Management
of Pediatric Choledochal Cysts in Developing Countries:
Review of Ten Cases. Pediatr Surg Int, 22 (2):144‐9.
18. Tanaka M, Shimizu S, Mizumoto K, Yokohata K, Chijiiwa K,
Yamaguchi K, Ogawa Y (2001). Laparoscopically Assisted
Resection of Choledochal Cyst and Roux‐En‐Y
Reconstruction. Surg Endosc, 15 (6):545‐552.
19. Tian Y, Wu SD, Zhu AD, Chen DX (2010). Management of
Type I Choledochal Cyst in Adult: Totally Laparoscopic
Resection and Roux‐En‐Y Hepaticoenterostomy. J
Gastrointest Surg, 14 (9):1381‐1388.
20. Ure BM, Nustede R, Becker H (2005). Laparoscopic Resection
of Congenital Choledochal Cyst, Hepaticojejunostomy, and
Externally Made Roux‐En‐Y Anastomosis. J Pediatr Surg, 40
(4):728‐730.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
310
21. Ure BM, Schier F, Schmidt AI, Nustede R, Petersen C, Jesch
NK (2005). Laparoscopic Resection of Congenital Choledochal
Cyst, Choledochojejunostomy, and Extraabdominal Roux‐En‐
Y Anastomosis. Surg Endosc, 19 (8):1055‐1057.
Ngày nhận bài báo: 25/07/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2013
Ngày bài báo được đăng: 15/12/2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nc_584_nhung_diem_ky_thuat_cua_phau_thuat_noi_soi_cat_nang_o.pdf