* Về ảnh hưởng của chế độ sục khí tới
hiệu quả xử lý COD, T-N
- Chế độ sục khí không ảnh hưởng
nhiều đến hiệu quả xử lý COD. Hiệu quả xử
lý COD ở cả 3 chế độ sục khí đạt trong
khoảng 80 - 85% và khá ổn định. COD đầu ra
hầu hết dao động khoảng 200 mg/L (đạt 10-
TCN 678:2006, loại B).
- Hiệu suất xử lý N đạt cao nhất ở chế
độ 3 (sục khí - ngừng sục khí là 110 phút/70
phút) đạt khoảng 75 - 80%. T-N đầu ra
khoảng 150 mg/L, có khi xuống dưới 80
mg/L.
- Chế độ sục khí - ngừng sục khí là 110
phút/70 phút cho hiệu quả xử lý COD, T-N
cao và ổn định nhất.
* Về ảnh hưởng của tải lượng COD, TN tới hiệu quả xử lý COD, T-N
- Tải lượng COD hầu như không ảnh
hưởng nhiều đến hiệu quả xử lý COD.
- Tải lượng T-N có sự ảnh hưởng rõ rệt
đến hiệu suất loại bỏ T-N.
- Chế độ 2 (Q = 19,2 L/ngày, thời gian
lưu là 2 ngày), tải lượng T-N duy trì trong
khoảng 0,14 - 0,21 kg/m3/ngày, hiệu suất xử
lý cao nhất, đạt khoảng 70 - 80%.
Kiến nghị:
- Thực hiện tiếp các nghiên cứu để tìm
ra chế độ thích hợp hơn cho hệ xử lý bằng
phương pháp lọc sinh học ngập nước.
- Nghiên cứu thêm về khả năng xử lý
SS, T-P của hệ lọc sinh học ngập nước đối với
nước thải chăn nuôi lợn.
- Nghiên cứu, đưa ra công nghệ xử lý
nước thải chăn nuôi thích hợp nhất và tiến
hành áp dụng vào thực tế để góp phần xử lý
chất thải chăn nuôi trong điều kiện của Việt
Nam.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 618 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ sục khí đến hiệu quả xử lý cod, nito trong nước thải chăn nuôi lợn sau xử lý yếm khí bằng phương pháp lọc sinh học ngập nước - ThS. Đặng Thị Hồng Phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 02 – THÁNG 3 NĂM 2016 22
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ SỤC KHÍ ĐẾN HIỆU QUẢ XỬ LÝ COD,
NITO TRONG NƯỚC THẢI CHĂN NUÔI LỢN SAU XỬ LÝ YẾM KHÍ
BẰNG PHƯƠNG PHÁP LỌC SINH HỌC NGẬP NƯỚC
Study on effects of aeration mode on Cod and Nitrogen treatment efficiency in waste
water from pig livestock after anaeration treatment by submerged biofilter
recirculation method
ThS. Đặng Thị Hồng Phương*
TÓM TẮT
Mục đích của nghiên cứu này là lựa chọn chế độ sục khí thích hợp nhất để vận hành hệ
thống lọc sinh học ngập nước trong việc xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau xử lý yếm khí. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, chế độ sục khí không ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả xử lý COD. Hiệu quả
xử lý COD ở cả 3 chế độ sục khí đạt trong khoảng 80 - 85% và khá ổn định. COD đầu ra hầu hết
dao động khoảng 200 mg/L. Hiệu suất loại bỏ Nitơ ở chế độ 1 (sục khí - ngừng sục khí là 60
phút/90 phút) chỉ đạt khoảng 60 - 65%, chế độ 2 (sục khí - ngừng sục khí là 90 phút/90 phút) thời
gian hiếu khí được tăng lên và hiệu suất loại bỏ N đạt cao hơn khoảng 65 - 70%. Hiệu suất xử lý
N đạt cao nhất ở chế độ 3 (sục khí - ngừng sục khí là 110 phút/70 phút) đạt khoảng 75 - 80%. Các
thí nghiệm nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của tải lượng COD, T-N hiệu suất xử lý nước thải cho
thấy, tải lượng COD, T-N ảnh hưởng nhiều đến hiệu suất xử lý T-N trong nước thải chăn nuôi
lợn. Chế độ 2 (Q = 19,2 L/ngày, thời gian lưu là 2 ngày), tải lượng T-N duy trì trong khoảng 0,14
- 0,21 kg/m3/ngày, hiệu suất đã được nâng lên ở khoảng 70 - 80%. Đây chế độ thí nghiệm cho
hiệu suất xử lý T-N cao nhất.
Từ khóa: COD, chế độ thí nghiệm, lọc sinh học ngập nước, nước thải chăn nuôi lợn, sục khí.
ABSTRACT
The main aim of this study is to select an appropriate aeration mode for operating the
submerged biofilter system to treat waste water from pig livestock after anaeration treatment.
Results showed that aeration mode did not affect much on COD treatment efficiency. COD was
treated well and stably in three aeration modes, reaching 80-85%. Treated COD was about
200mg/L. Efficiency of Nitrogen removal reached only 60-65% in the first mode
(aeration/unaeration = 60min./90min.), 65-70% in the second mode (aeration/unaeration =
90min./90min.) and maximum of 75-80% in the third mode (aeration/unaeration =
110min./70min.). The experiments and studies on effects of COD tonnage, T-N efficiency. The
result showed that COD, T-N tonnage would affected much on T-N treatment efficiency. In the
second mode (Q=19.2 L/day with period of two days), T-N tonnage maintained within 0.14-0.21
kg/m3/day, and efficiency increased to 70-80%. This is the most successful mode for treatment of
waste water.
Keywords:COD, experiment mode, submerged biofilter, Waste water, pig livestock, aeration.
*Bộ môn Khoa học & Công nghệ Môi trường, Khoa Môi trường, Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 02 – THÁNG 3 NĂM 2016 23
1. Đặt vấn đề
Những năm gần đây, với chủ trương mở
cửa, thúc đẩy phát triển kinh tế của nước ta,
lĩnh vực chăn nuôi đã đạt được rất nhiều tiến
bộ. Năm 2009, Việt Nam đã vươn lên đứng
thứ 2 Châu Á sau Trung Quốc về sản lượng
thịt lợn (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, 2011).
Ở Việt Nam, chăn nuôi lợn được coi là
thế mạnh của ngành nông nghiệp, cùng với sự
gia tăng dân số, gia tăng các nhu cầu về lương
thực, thực phẩm, ngành chăn nuôi càng được
đầu tư phát triển mạnh. Trước đây, chúng ta
chỉ có chăn nuôi nhỏ lẻ tại các hộ gia đình.
Hiện nay, trong bối cảnh thức ăn chăn nuôi,
vật tư chăn nuôi đều tăng, cùng với đó là sức
cạnh tranh, vấn đề kiểm soát dịch bệnh nên
việc chăn nuôi trong các hộ gia đình có xu
hướng giảm trong khi chăn nuôi gia trại, trang
trại tăng nhanh và tạo được khả năng cạnh
tranh trên thị trường (Phùng Thị Vân, et al.,
2005). Do vậy, vấn đề chất thải phát sinh từ
hoạt động chăn nuôi lợn cần phải được quản lý
tốt. Chất thải của các trang trại chăn nuôi lợn
với thành phần chủ yếu là phân lợn và nước
thải hiện đang là vấn đề lo lắng của các nhà
quản lý.
Hầu hết việc xử lý chất thải của các hộ
chăn nuôi là lắp đặt hệ thống xử lý chất thải
Biogas, nhưng hệ thống này chưa đủ công
suất đáp ứng nhu cầu xử lý toàn bộ chất thải
mà chỉ đạt được 50% - 70% lượng chất thải
của trang trại. Tuy nhiên, với nhiều trang trại
đã có hầm biogas, có hệ thống xử lý chất thải
nhưng chất thải chưa được xử lý triệt để (Vũ
Đình Tôn, et al., 2008).
Một trong các quá trình sinh học hiếu -
thiếu khí kết hợp được nghiên cứu ứng dụng
nhiều trong xử lý nước thải chăn nuôi lợn là
phương pháp lọc sinh học ngập nước (Lê Công
Nhất Phương, 2009). Nghiên cứu này trình bày
một số kết quả đạt được khi thay đổi chế độ
sục khí đến quá trình xử lý nước thải chăn nuôi
lợn sau xử lý yếm khí bằng phương pháp lọc
sinh học ngập nước.
2. Đối tượng, nội dung và phương
pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nước thải được chọn là:
Nước thải chăn nuôi lợn sau xử lý yếm khí (sau
biogas).
- Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả xử lý
nước thải chăn nuôi sau xử lý yếm khí bằng
phương pháp lọc sinh học ngập nước: Nghiên
cứu hiệu quả xử lý COD, T-N trong nước thải
chăn nuôi lợn ở các chế độ sục khí/ngừng sục
khí khác nhau.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của chu kỳ sục
khí - ngưng sục khí đến hiệu suất xử lý COD,
T-N.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của tải lượng
COD, tải lượng T-N đến hiệu suất xử lý COD,
T-N.
2.3. Phương pháp nghiên cứu và chỉ tiêu
theo dõi
a) Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lấy mẫu: Lấy mẫu theo
QCVN 4556-88.
- Phương pháp phân tích: Phân tích các
chỉ tiêu COD, Amoni, Nitrat, Nitrit, tổng N theo
QCVN hiện hành
- Phương pháp thu thập và xử lý số liệu:
Tiến hành theo dõi hàng ngày và ghi lại
các số liệu trong quá trình làm việc, xử lý bằng
Excel.
- Phương pháp tính toán: (Lê Văn Khoa,
et al., 2002)
+ Tính tải lượng: COD, T-N:
L = Cvào (mg/L) * Qvào (L/ngày)/
(39*1000)
+ Tính hiệu suất xử lý: COD, NH4+, T-N:
H = (Cvào - Cra)*100/Cvào
+ Tính thời gian lưu:
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 02 – THÁNG 3 NĂM 2016 24
T = V/Qvào
Trong đó: LCOD, LT-N: Tải lượng COD,
N (kg/m3/ngày)
T: Thời gian lưu nước thải (ngày),
V: Thể tích nước trong bể phản ứng (L),
Q: Lưu lượng (L/h)
H: Hiệu suất xử lý (%)
Cvào: Nồng độ COD, NH4+ hoặc T-N
đầu vào (mg/L).
Cra: Nồng độ COD, NH4+ hoặc T-N đầu
ra (mg/L).
1000: hệ số quy đổi
- Địa điểm thực hiện thí nghiệm: Viện
Công nghệ Môi trường, Viện Hàn Lâm Khoa
học - Công nghệ Việt Nam, từ tháng 1 đến tháng
5 năm 2014.
- Vật liệu nghiên cứu: Vật liệu mang vi
sinh (vật liệu lọc sinh học) sử dụng trong nghiên
cứu là loại đệm nhựa có gấp nếp có sẵn trên thị
trường có diện tích bề mặt riêng khoảng
200m2/m3 và độ rỗng >95%.
- Vi sinh vật: Vi sinh vật gốc được lấy từ
nhà máy bia Việt Hà để rút ngắn thời gian khởi
động.
b) Các chế độ thí nghiệm
+ Chế độ 1 (CĐ 1): Chế độ sục khí -
ngừng sục khí 60/90 phút, thời gian lưu 2 ngày,
Q = 19,2 L/ngày.
+ Chế độ 2 (CĐ 2): Chế độ sục khí -
ngừng sục khí 90/90 phút, thời gian lưu 2 ngày,
Q = 19,2 L/ngày.
+ Chế độ 3 (CĐ 3): Chế độ sục khí -
ngừng sục khí 110/70 phút, thời gian lưu 2 ngày,
Q = 19,2 L/ngày.
(Trong đó: Q là lưu lượng đầu vào
(lít/ngày))
Hình 1. Sơ đồ hệ thiết bị thí nghiệm lọc sinh học ngập nước
c) Mô hình thiết bị thí nghiệm (Hình 1)
Ghi chú: I: Xô nhựa chứa nước thải
đầu vào có chia vạch định mức; P1: Máy
bơm nước thải đầu vào; B1: Máy bơm cấp
khí; II: Bể phản ứng; III: Xô nhựa chứa nước
thải đầu ra
Hệ thiết bị lọc sinh học ngập nước quy
mô phòng thí nghiệm làm bằng nhựa PVC
trong suốt. Hệ thí nghiệm có thể tích là 39 lít;
gồm hai ngăn, mỗi ngăn có thể tích là 19,5 lít.
Công suất thiết kế là 19,2 lít/ngày.
Không khí được sục vào hệ lọc sinh
học thông qua hai ống phân phối khí được
đặt dưới đáy bể bằng máy thổi khí và có
thể điều chỉnh được tốc độ. Các chế độ
hoạt động (Thời gian làm việc, ngừng làm
việc) của các bơm, máy thổi khí có thể cài
NT
N
T
NT
N
T
N
T
N
T
I
P1 B1
II
III
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 02 – THÁNG 3 NĂM 2016 25
đặt, thay đổi được và được điều khiển tự
động.
Nước từ ngăn thứ hai của bể sinh học tự
chảy qua thùng chứa nước sau xử lý qua
đường ống được đặt ở phía trên thành ngăn thứ
hai của bể sinh học.
Bùn sinh ra trong quá trình xử lý được
tháo định kỳ thông qua 2 van xả ở đáy bể.
Chi tiết hệ thiết bị thí nghiệm được thể
hiện trong bảng 1.
Bảng 1. Chi tiết thiết bị thí nghiệm
TT Thiết bị Số lượng
1 Bể lọc sinh học ngập nước 01
2 Xô nhựa chứa nước thải đầu vào và đầu ra 02
3 Bộ điều khiển bằng điện (đồng hồ) 1 bộ
4 Máy bơm nước thải vào 01
5 Máy bơm khí 01
6 Đầu đo DO 01
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Đặc trưng nước thải thí nghiệm
Nước thải chăn nuôi lợn lấy tại bể
biogas của Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy
Phương thuộc Viện Chăn nuôi (Cổ Nhuế, Hà
Nội). Đặc trưng của nước thải trong nghiên
cứu được thể hiện trong (bảng 2).
Nước thải chăn nuôi lợn sau xử lý kỵ
khí còn chứa nồng độ chất hữu cơ cao và nitơ
cao, cần có các biện pháp xử lý thích hợp tiếp
theo để đảm bảo đạt các tiêu chuẩn môi
trường.
Bảng 2. Đặc trưng nước thải chăn nuôi lợn sau xử lý kỵ khí
STT Thông số Đơn vị Hàm lượng
1 pH - 6,5 – 8,5
2 COD mg/L 1100 - 1600
3 N-NH4+ mg/L 350 - 450
4 N-NO3- mg/L 0 - 2,5
5 Tổng N mg/L 600 - 800
6 Tổng P mg/L 30 - 90
7 TSS mg/L 700 - 1600
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 02 – THÁNG 3 NĂM 2016 26
3.2. Ảnh hưởng của chu kỳ sục khí-
ngưng sục khí đến hiệu quả xử lý COD, N
3.2.1. Hiệu quả xử lý COD
Hiệu quả xử lý COD tại các chế độ thí
nghiệm khác nhau được thể hiện trên hình 2:
Hình 2. Ảnh hưởng của chế độ sục khí/ngừng
sục khí đến hiệu suất xử lý COD
- Tại chế độ thí nghiệm 1, chu kỳ sục
khí - ngừng sục khí là 60 phút/90 phút, nồng
độ COD đầu vào dao động trong khoảng 1200
- 1600 mg/L. Nồng độ đầu ra dao động trong
khoảng 200 - 300 mg/L, hiệu suất xử lý COD
đạt khoảng 79% - 85%.
- Tại chế độ thí nghiệm 2, chu kỳ sục khí
- ngừng sục khí là 90 phút/90 phút, nồng độ
COD đầu vào dao động trong khoảng 1000 -
1500 mg/L. Nồng độ COD đầu ra dao động
khoảng 200 mg/L, hiệu suất xử lý đạt trên
80%.
- Tại chế độ thí nghiệm 3, chu kỳ sục
khí - ngừng sục khí là 110 phút/70 phút, với
nồng độ COD đầu vào khoảng 1300 - 1600
mg/L thì hiệu suất cao hơn đạt trên 85%,
nồng độ đầu ra tương đối ổn định trong
khoảng 200 mg/L.
Như vậy, chế độ sục khí không ảnh
hưởng nhiều đến hiệu suất xử lý COD. Ở cả
3 chế độ đều cho hiệu suất xử lý đạt trên
80%. Nồng độ đầu ra hầu hết trong khoảng
200 mg/L (đạt 10-TCVN 678:2006, loại B).
Tuy nhiên chế độ 3 vẫn cho kết quả ổn định
hơn cả.
3.3. Hiệu quả xử lý Nitơ
3.3.1. Hiệu quả xử lý N-NH4+
Ảnh hưởng của chu kỳ sục khí - ngừng sục
khí đến hiệu suất xử lý NH4+ được thể hiện trong
hình 3.
Hình 3. Ảnh hưởng của chế độ sục khí -
ngừng sục khí đến hiệu suất xử lý NH4+
- Tại chế độ 1 và chế độ 2, hiệu suất xử
lý amoni đạt khoảng 85 - 90 %, nồng độ
amoni đầu ra cao hơn so với chế độ 3 dao
động trong khoảng 10 - 60 mg/L. Nguyên
nhân là do thời gian sục khí ngắn hơn nên
hiệu suất xử lý amoni ở chế độ 1 và chế độ 2
thấp hơn chế độ 3.
- Tại chế độ 3, hiệu quả xử lý amoni
tương đối cao trên 90%. Nồng độ NH4+ ra <
25 mg/L.
Như vậy có thể nhận thấy thời sục khí ở
chế độ thí nghiệm 3 là tương đối phù hợp để
thực hiện quá trình nitrat hóa, hiệu suất xử lý
amoni đều tốt, đạt trên 90%.
3.3.1.1. Sự chuyển hóa NO2- và NO3-
Ảnh hưởng của chế độ sục khí - ngừng
sục khí đến sự chuyển hóa NO2- và NO3- được
thể hiện ở hình 4.
Hình 4: Ảnh hưởng của chế độ sục khí - ngừng
sục khí đến sự chuyển hóa NO2- và NO3-
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 02 – THÁNG 3 NĂM 2016 27
Tại chế độ 1 thì nồng độ NO2- đầu ra rất
cao, dao động trong khoảng 60 - 90 mg/L,
nguyên nhân là do thời gian sục ngắn và thời
gian ngừng sục lâu. Ở chế độ 2, nồng độ NO2-
ra có giảm hơn so với chế độ 1 nhưng vẫn cao
hơn so với chế độ 3 do tăng thời gian sục khí
nhưng vẫn để thời gian ngừng sục lâu. Việc
tăng thời gian sục khí lên 110 phút và giảm
thời gian ngừng sục khí xuống còn 70 phút
làm cho nồng độ NO2- trong nước đầu ra là
thấp nhất trong ba chế độ thí nghiệm, khoảng
20 - 50 mg/L.
Tuy nhiên, thời gian ngừng sục khí ở
chế độ 1 và chế độ 2 dài hơn nên khả năng
khử nitrat tốt hơn chế độ 3 có thời gian ngừng
sục khí ngắn nên quá trình khử nitrat không
đủ để thực hiện hết, vì thế tại chế độ 3 NO3-
đầu ra là cao nhất hầu hết đều > 30 mg/L.
Từ những nhận xét ở trên có thể thấy
chế độ sục khí - ngừng sục khí ảnh hưởng rõ
rệt đến sự chuyển hóa nitrat và nitrit trong hệ.
3.3.1.2. Hiệu quả xử lý T-N
Ảnh hưởng của chế độ sục khí - ngừng
sục khí đến hiệu quả xử lý tổng nitơ được thể
hiện ở hình 5.
Hình 5. Ảnh hưởng của chế độ sục khí -
ngừng sục khí đến hiệu quả xử lý T-N
Xử lý T-N là mục đích chính của
nghiên cứu này, lượng N đầu vào của nước
thải sau Biogas rất cao thường khoảng 350
mg/L có những ngày có thể lên tới 450 - 500
mg/L. Thời gian sục khí - ngừng sục khí ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu suất loại bỏ N. Qua đồ
thị trên ta thấy, ở chế độ 1 thì hiệu suất của hệ
thống chỉ đạt khoảng 60 - 65%, nồng độ tổng
N đầu ra còn cao khoảng 135 - 170 mg/L. Tới
chế độ 2 thì hiệu suất xử lý T-N đã đạt tới
khoảng 65 - 70% và sang chế độ 3 thì hiệu
suất xử lý T-N đã đạt tới khoảng 75 - 80%,
nồng độ T-N đầu ra dưới 120 mg/L (đạt 10-
TCN 678:2006, loại B). Như vậy có thể nhận
thấy, tỷ lệ thời gian sục khí - ngừng sục khí ở
chế độ 3 là đạt hiệu quả xử lý nitơ cao nhất.
3.4. Ảnh hưởng của tải lượng COD, tải
lượng T-N đến hiệu suất xử lý COD, T-N
Các thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của
tải lượng COD, tải lượng T-N đến hiệu quả
xử lý COD và T-N trong nước thải chăn nuôi
được nghiên cứu ở 2 chế độ:
Chế độ 1 (CĐ1): Q = 26 L/ngày, thời
gian lưu là 1,5 ngày.
Chế độ 2 (CĐ2): Q = 19,2 L/ngày, thời
gian lưu là 2 ngày.
Duy trì chế độ sục khí - ngừng sục khí
110 phút/ 70 phút.
3.4.1. Ảnh hưởng của tải lượng COD
đến hiệu quả xử lý COD
Ảnh hưởng của tải lượng COD đến hiệu
suất xử lý COD được thể hiện ở hình 6.
Hình 6. Ảnh hưởng của tải lượng COD đến
hiệu suất xử lý COD
Qua hình 6 ta nhận thấy, trong quá trình
nghiên cứu thay đổi tải lượng từ 0,6 - 1,1
kg/m3/ngày thì hiệu suất xử lý COD không có
sự thay đổi lớn, hầu hết đều đạt trên 80%.
Hiệu suất COD không bị ảnh hưởng nhiều
bởi tải lượng đầu vào, điều này là do khoảng
biến động tải lượng COD nghiên cứu tương đối
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 02 – THÁNG 3 NĂM 2016 28
nhỏ và chất hữu cơ trong nước thải chăn nuôi
lợn là chất dễ phân hủy sinh học.
3.4.2. Ảnh hưởng của tải lượng T-N đến
hiệu suất xử lý T-N
Ảnh hưởng của tải lượng T-N đến hiệu
quả xử lý T-N được thể hiện trên hình 7.
Hình 7. Ảnh hưởng của tải lượng T-N đến
hiệu quả xử lý T-N
Trong nghiên cứu này tải lượng T-N
dao động trong khoảng 0,14 - 0,28
kg/m3/ngày. Thông thường, để xử lý amoni
bằng phương pháp lọc sinh học cần duy trì tải
lượng amoni ở mức dưới 0,2 kg/m3/ngày. Ở
chế độ 1, tải lượng T-N có sự dao động trong
khoảng 0,21 - 0,28 kg/m3/ngày, hiệu suất xử
lý T-N ở chế độ 1 thấp chỉ đạt khoảng 60 -
65%. Chế độ 2, tải lượng T-N duy trì trong
khoảng 0,14 - 0,21 kg/m3/ngày, hiệu suất đã
được nâng lên ở khoảng 70 - 80%. Kết quả
này cho thấy, tải lượng T-N đầu vào có ảnh
hưởng rõ rệt đến hiệu suất xử lý T-N và
khoảng tải lượng thích hợp nằm trong chế độ
thí nghiệm 2.
4. Kết luận và kiến nghị
Kết luận:
* Về ảnh hưởng của chế độ sục khí tới
hiệu quả xử lý COD, T-N
- Chế độ sục khí không ảnh hưởng
nhiều đến hiệu quả xử lý COD. Hiệu quả xử
lý COD ở cả 3 chế độ sục khí đạt trong
khoảng 80 - 85% và khá ổn định. COD đầu ra
hầu hết dao động khoảng 200 mg/L (đạt 10-
TCN 678:2006, loại B).
- Hiệu suất xử lý N đạt cao nhất ở chế
độ 3 (sục khí - ngừng sục khí là 110 phút/70
phút) đạt khoảng 75 - 80%. T-N đầu ra
khoảng 150 mg/L, có khi xuống dưới 80
mg/L.
- Chế độ sục khí - ngừng sục khí là 110
phút/70 phút cho hiệu quả xử lý COD, T-N
cao và ổn định nhất.
* Về ảnh hưởng của tải lượng COD, T-
N tới hiệu quả xử lý COD, T-N
- Tải lượng COD hầu như không ảnh
hưởng nhiều đến hiệu quả xử lý COD.
- Tải lượng T-N có sự ảnh hưởng rõ rệt
đến hiệu suất loại bỏ T-N.
- Chế độ 2 (Q = 19,2 L/ngày, thời gian
lưu là 2 ngày), tải lượng T-N duy trì trong
khoảng 0,14 - 0,21 kg/m3/ngày, hiệu suất xử
lý cao nhất, đạt khoảng 70 - 80%.
Kiến nghị:
- Thực hiện tiếp các nghiên cứu để tìm
ra chế độ thích hợp hơn cho hệ xử lý bằng
phương pháp lọc sinh học ngập nước.
- Nghiên cứu thêm về khả năng xử lý
SS, T-P của hệ lọc sinh học ngập nước đối với
nước thải chăn nuôi lợn.
- Nghiên cứu, đưa ra công nghệ xử lý
nước thải chăn nuôi thích hợp nhất và tiến
hành áp dụng vào thực tế để góp phần xử lý
chất thải chăn nuôi trong điều kiện của Việt
Nam.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
SỐ 02 – THÁNG 3 NĂM 2016 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011). Báo cáo kết quả thực hiện 12 tháng năm
2011 ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trung tâm Tin học và Thống kê.
2. Lê Văn Khoa, Nguyễn Văn Cự, Bùi Thị Ngọc Dung, Lê Đức, Trần Khắc Hiệp, Cái Văn Tranh
(2002). Phương pháp phân tích đất, nước, phân bón, cây trồng,. Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Lê Công Nhất Phương (2009). Nghiên cứu ứng dụng nhóm vi khuẩn Anammox trong xử lý
nước thải nuôi heo. Luận án Tiến sĩ khoa học, Viện Môi trường và Tài nguyên, Trường Đại hoc
Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh.
4. Vũ Đình Tôn, Lại Thị Cúc, Nguyễn Văn Duy (2008). Đánh giá hiệu quả xử lý chất thải bằng
bể biogas của một số trang trại chăn nuôi lợn vùng đồng bằng sông Hồng. Tạp chí Khoa học và
Phát triển, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, số 6/2008.
5. Phùng Thị Vân, Phạm Sỹ Tiệp, Nguyễn Văn Lục, Nguyễn Giang Phúc Trịnh Quang (2005).
Xây dựng mô hình chăn nuôi lợn trong nông hộ nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường và nâng cao
năng suất chăn nuôi. Tạp chí Chăn nuôi, Viện Chăn nuôi.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_so_03_02_7444_2070535.pdf