The arsenic (As) enrichment in groundwater of the river delta has been being studied and predicted. Organic matter
degradation generating the reduced environment was a popular hypothetical mechanism which is convenient for Feoxides reductive dissolution leading to the As release. However, the role of each factor in this process has not fully
understood. In this study, the relationship between the mineralogy and the concentration of As in the groundwater are
discussed. Two research sites are chosen: the young river bank sediment site with sedimentary age less then 600 years
and the old mountainside sedimentary age more then 3500 years one. The results of nanalysis showed that As
concentration in the young sediment is 7,5 mg/kg which is double of it in the old sediment (3,9 mg/kg). The amount of the
potentially removable As in the young sediment (2 mg/kg) is higher than that in the old sediment (0,34 mg/kg). The As
associated with easily reducible Fe(III) and crystalline Fe was found in the young sediment totalled 4 mg/kg but it was
not detected in the old sediment. Combined with the As concentration in the groundwater of two areas, the results
showed that the more As bound on mobile Fe (easily dissolvable Fe-oxides, easily reducible Fe(III) phases and
crystalline Fe phases) the higher possibility of the As enrichment in groundwater. The study suggests that the existence
of As on Fe phases could be flushed under reduced condition controls the As release from sediment into groundwater.
Besides, the increasing of flushed Fe and As in the sediment incubated with river water added organic matter experiment
was observed. This supports the hypothesis of organic matter role in As mobilization that is to genenrate the reduced
condition enhancing the reductive dissolution of As bearing Fe-oxides which leads to the leaching of As.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 573 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố lên quá trình giải phóng arsen từ trầm tích vào nước ngầm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
506
34(4), 506-512 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2012
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ
LÊN QUÁ TRÌNH GIẢI PHÓNG ARSEN
TỪ TRẦM TÍCH VÀO NƯỚC NGẦM
NGUYỄN NHƯ KHUÊ1, PHẠM THỊ KIM TRANG1, HOÀNG THỊ TƯƠI1,
NGUYỄN THỊ THU TRANG1, NGUYỄN THỊ HOA MAI1, CAO THỊ MAI TRANG1,
VI THỊ MAI LAN1 , PHẠM HÙNG VIỆT1, DIEKE POSTMA2
Email: khue.n2@gmail.com
1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội
2Viện Khảo sát Địa chất và Khoáng sản Đan Mạch (GEUS)
Ngày nhận bài: 24 - 9 - 2012
1. Mở đầu
Ô nhiễm arsen trong nước ngầm thường được
phát hiện thấy tại các vùng đồng bằng gần các sông
lớn. Hàm lượng As trong nước ngầm ở đồng bằng
châu thổ Sông Hồng, Việt Nam, tương đối cao
khoảng 1÷3050µg/L (trung bình 159µg/L) được
phát hiện từ năm 1998 [3]. Tuy nhiên, đến nay
nguyên nhân dẫn đến sự có mặt của As trong nước
ngầm vẫn chưa được nghiên cứu kỹ và hiểu rõ. Cơ
chế giả thuyết phổ biến là do quá trình phân hủy
hữu cơ tạo điều kiện khử khiến các khoáng oxyt sắt
bị hòa tan, kéo theo sự giải phóng As.
Phương trình giả thuyết được đưa ra là:
4FeOOH (As(V)) + CH2O + 7H2CO3 → 4Fe2+ +
8HCO3- + 6H2O + As(III) [2, 10]
Theo giả thuyết này, As càng nhiều trên các
khoáng sắt có thể bị hòa tan, thì cơ hội As giải
phóng từ trầm tích vào nước ngầm càng cao. Môi
trường càng thuận lợi cho sự khử hòa tan sắt diễn
ra thì nguy cơ ô nhiễm As càng tăng. Nghĩa là, quá
trình giải phóng As phụ thuộc vào đặc tính khoáng
học của trầm tích và điều kiện môi trường.
Theo kết quả nghiên cứu trầm tích tại khu vực
Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội của tác giả Eiche E.
và cộng sự (2008), hàm lượng As trong trầm tích
Pleistocene (trầm tích già) nằm trong khoảng 2,1-
28,7mg/kg; trong trầm tích Holocence (trầm tích
trẻ) khoảng 1,0-30,3mg/kg. Tổng lượng As trong
hai dạng trầm tích này là tương đương nhau. Tuy
nhiên, tầng chứa nước Pleistocene hầu như không
có As (<10µg/L), trong khi đó tầng chứa nước
Holocene có hàm lượng As cao hơn, có nơi đến
600µg/L [5].
Như vậy, sự giải phóng As vào nước ngầm khó
có thể được dự đoán được, nếu chỉ xác định tổng
lượng As trong trầm tích. Hàm lượng As ở dạng
linh động mới là thành phần gây tác động tới hàm
lượng As trong nước ngầm. Trong trầm tích, phần
lớn As liên kết trên các khoáng sắt. Hàm lượng và
dạng tồn tại của các khoáng này khá phong phú
trong tự nhiên. Các khoáng phổ biến thường gặp
như pyrite (FeS2) - khoáng sắt khá bền vững;
hematite (α-Fe2O3), goethite (α-FeOOH) - các
khoáng sắt tinh thể; maghemite (γ-Fe2O3) - khoáng
sắt có thể bị khử và lepidocrcite (γ-FeOOH),
ferrihydrite (5Fe2O3.9H2O) - khoáng sắt dễ hòa tan
[2]. Cấu trúc liên kết và diện tích bề mặt của mỗi
khoáng quyết định hình thái As liên kết trong
khoáng đó. Ví dụ: ferrihydrite, lepidocrcite với
diện tích bề mặt lớn (214m2/g và 195m2/g tương
ứng) hấp phụ As trên bề mặt khoáng, còn goethite
với diện tích bề mặt bé hơn (37m2/g) thì khả năng
liên kết As ở dạng hấp phụ kém hơn, chủ yếu As
có mặt trong goethite ở dạng liên kết tinh thể [9].
Bản chất liên kết quyết định khả năng As có thể bị
rửa trôi từ trầm tích vào nước ngầm.
Vậy dạng liên kết nào của As trong trầm tích có
tác động tới sự gia tăng hàm lượng của nó trong
nước ngầm? Câu hỏi này vẫn đang được các nhà
khoa học quan tâm và nghiên cứu.
507
Trong quá trình khử hòa tan, các oxyt sắt đóng
vai trò là chất nhận electron, còn hợp chất hữu cơ
đóng vai trò cung cấp (cho) electron. Một số tác
giả đã đưa ra giả thuyết rằng hoạt tính và hàm
lượng hữu cơ là thông số kiểm soát quá trình giải
phóng As vào nước ngầm [1, 6, 11]. Kết quả từ
nghiên cứu của Corsini và cộng sự, cho thấy trong
thí nghiệm ủ trầm tích có bổ sung citrate, lượng
arsen giải phóng tăng lên rõ rệt chỉ sau 3 ngày so
với mẫu kiểm chứng [6]. Tác giả Anawar H. M. và
cộng sự đã tìm hiểu vai trò của các dạng vật chất
hữu cơ khác nhau đối với sự giải phóng As từ trầm
tích vào nước ngầm. Các dạng hữu cơ được sử
dụng là glucose, phân bón dùng trong nông nghiệp,
hỗn hợp nước thải sinh hoạt và phân bò. Từ kết quả
nghiên cứu, tác giả cho rằng sự bổ sung hữu cơ có
thể thúc đẩy hoạt động của vi sinh tham gia phản
ứng khử hòa tan sắt và dẫn tới sự giải phóng As ra
khỏi trầm tích. Mỗi dạng hữu cơ khác nhau thì mức
độ tác động tới quá trình giải phóng As cũng khác
nhau [1]. Tuy nhiên, cùng một chất hữu cơ bổ
sung, vai trò và mức độ tác động đối với các dạng
trầm tích khác nhau sẽ như thế nào thì vẫn chưa
được chứng minh bằng thực nghiệm.
Nghiên cứu này đi tìm câu trả lời về dạng liên
kết As tác động tới khả năng gia tăng hàm lượng
As trong nước ngầm và sự bổ sung hữu cơ ảnh
hưởng như thế nào tới quá trình giải phóng As,
mong muốn góp phần dự đoán nguy cơ ô nhiễm As
trong nước ngầm dựa trên các phân tích đặc điểm
các trầm tích chứa nước.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Mẫu trầm tích trẻ có tuổi khoảng 600 năm được
lấy ở vùng Đan Phượng, Hà Nội phân bố ở độ sâu
2,0-2,4m. Khu vực này hình thành do sự bồi đắp
của sông Hồng, thành phần trầm tích chủ yếu là
cát, cát pha màu vàng nhạt, vàng xám hoặc xám
nâu, ngoài ra còn xen kẹp các thấu kính sét lẫn tàn
tích thực vật. Mẫu trầm tích già có tuổi khoảng
3500 năm được lấy tại vùng gần chân núi Ba Vì,
Phú Kim, Hà Nội ở độ sâu 11,7-11,9m. Khu vực
này có dạng địa hình gò đồi, bán sơn địa, chủ yếu
là các đồi núi thấp xen các bậc thềm phù sa cổ,
cách sông Hồng hơn 10.000m [12].
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.21. Phương pháp chiết trình tự nghiên cứu sự
phân bố As trên các khoáng trong trầm tích
Arsen có mặt trong các khoáng oxyt sắt dưới
một số loại hình liên kết khác nhau như hấp phụ bề
mặt, liên kết trên pha các sắt dễ hòa tan, liên kết
với pha các sắt hoạt động, sắt tinh thể và dạng liên
kết trong pha các khoáng bền vững [10].
Các dịch chiết chọn lọc được sử dụng để hòa
tan các pha khoáng sắt khác nhau trong trầm tích
(bảng 1). Quá trình hòa tan Fe sẽ kéo theo sự giải
phóng As liên kết trên các pha khoáng đó. Thí
nghiệm chiết được thực hiện với các mẫu trầm tích
đại diện trong lọ thủy tinh có nắp cao su, tỷ lệ trầm
tích/ dung dịch chiết là 10g:100mL. Các thao tác
được thực hiện trong điều kiện kín, không có ôxy
để hạn chế sự thay đổi môi trường yếm khí của đất.
Các lọ chiết được lắc đều bằng máy lắc ngang, ở
nhiệt độ phòng trong vòng 6 tiếng. Thí nghiệm
chiết As liên kết trong các pha khoáng bền vững
được thực hiện trong lò vi sóng. Các thí nghiệm
được thực hiện lặp đôi, kết quả cho độ lặp lại đáng
tin cậy, RSD ≤5%.
Bảng 1. Các dung dịch chiết sử dụng để hòa tan các
pha khoáng khác nhau [10]
Pha mục tiêu Dịch chiết pH
Hấp phụ trên bề mặt NaHCO3 0,5M 8,5
Liên kết trên pha các khoáng
sắt dễ hòa tan
HCOOH 0,5M 3
Liên kết trên pha các khoáng
sắt hoạt động
Axit ascorbic 0,1M 3
Liên kết trên pha các khoáng
sắt tinh thể
Amoni-oxalate 0,2M
+axit ascorbic 0,1M
3
Liên kết trong các khoáng
bền vững
HNO3 16M
2.2.2. Thí nghiệm đánh giá vai trò của hợp chất
hữu cơ trong quá trình tạo môi trường khử thuận
lợi cho sự hòa tan Fe và As
Mẫu trầm tích được trộn với nước sông có bổ
sung chất hữu cơ (natri acetate, 4mg/L) [8]. Mẫu so
sánh là mẫu không bổ sung natri acetate. Trầm tích
được trộn đều nhằm đảm bảo tính đồng nhất. Các
thao tác được thực hiện trong hộp kín dưới điều
kiện không có ôxy. Các mẫu được đặt trong tối và
lắc nhẹ hằng ngày. Mẫu được lấy ra theo thời gian
cách nhau 5 ngày và phân tích các chỉ tiêu Fe, As.
Thí nghiệm kéo dài 30 ngày, được thực hiện lặp
đôi, kết quả cho độ lặp lại đáng tin cậy RSD ≤5%.
Nồng độ Fe được xác định bằng phương pháp
quang phổ hấp thụ nguyên tử trên máy AA-6800.
Nồng độ As được phân tích trên máy AA-6800 kết
hợp bộ tạo khí hydrua (HVG). Giới hạn phát hiện
nồng độ Fe là 0,1mg/L và As là 0,5µg/L [15].
508
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Thành phần Fe và As trên các pha khoáng
sắt trong trầm tích trẻ và và trầm tích già. Mối
liên hệ với nồng độ Fe và As trong nước ngầm.
Kết quả các thí nghiệm cho thấy hàm lượng Fe
trong trầm tích trẻ và già tương ứng là 18,8g/kg
và 22,3g/kg Fe; hàm lượng As tương ứng là 7,5
mg/kg và 3,9mg/kg (bảng 2).
Bảng 2. Hàm lượng Fe, As trong các pha liên kết
Hàm lượng Fe(g/kg) Hàm lượng As(mg/kg)
Trầm tích
trẻ
Trầm tích
già
Trầm tích
trẻ
Trầm tích
già
Pha hấp phụ - 0,02 0,3 0,04
Pha các khoáng
sắt dễ hòa tan
2,8 13,5 1,1 0,3
Pha các khoáng
sắt hoạt động
0,6 - 0,5 -
Pha các khoáng
sắt tinh thể
1,7 - 3,4 -
Pha các khoáng
bền vững
13,8 8,7 2,2 3,5
Tổng 18,8 22,3 7,5 3,9
Nước ngầm 12,5 mg/L 13,1 mg/L 300 µg/L 58 µg/L
Ghi chú: ‘-‘: nhỏ hơn giới hạn phát hiện
Tổng hàm lượng Fe trong hai dạng trầm tích trẻ
và già là tương đương nhau (18,8g/kg và
22,3g/kg). Nhưng phân tích cấu trúc thành phần
khoáng học, cho thấy dạng Fe tồn tại trong trầm
tích có sự khác biệt: trầm tích trẻ chứa 2,8g/kg các
khoáng Fe dễ hòa tan, 0,6g/kg khoáng Fe hoạt
động (Fe(III) dễ bị khử), 1,7g/kg là pha Fe tinh thể,
còn lại 13,8g/kg là pha các khoáng bền vững; trầm
tích già chứa chủ yếu là pha các khoáng sắt hòa tan
13,6 g/kg, dạng khoáng Fe hoạt động và Fe tinh thể
không phát hiện thấy, còn Fe trong pha các khoáng
bền vững chiếm 8,7g/kg (hình 1). Như vậy, các pha
khoáng sắt trên các trầm tích khác nhau có cấu trúc
rất khác nhau.
Trong điều kiện khử, các dạng sắt tồn tại trong
các pha khoáng Fe dễ hòa tan, sắt hoạt động và sắt
tinh thể bị rửa trôi từ trầm tích vào nước ngầm.
Tổng lượng Fe ở dạng linh động nói trên ở trầm
tích trẻ là 5,2g/kg. Trong trầm tích già, mặc dù hai
dạng Fe hoạt động và Fe tinh thể không phát hiện
được, nhưng dạng Fe dễ hòa tan lên tới 13,6g/kg,
chứng tỏ trầm tích già có chứa nhiều Fe hoạt tính
hơn so với trầm tích trẻ. Từ đó suy ra, khả năng gia
tăng hàm lượng Fe trong nước ngầm trong điều
kiện khử ở khu vực phân bố trầm tích già cao hơn
so với khu vực phân bố trầm tích trẻ. Theo kết quả
nghiên cứu đối với trầm tích Vạn Phúc, Thanh Trì
của tác giả Eiche E. và cộng sự, hàm lượng Fe
trong nước ngầm khu vực phân bố trầm tích già
chỉ dao động trong khoảng 0,72-2,7mg/L trong khi
đó ở khu vực trầm tích trẻ cao gấp 10 lần và dao
động trong khoảng 2,4 - 20,4mg/L [5]. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu này, hàm lượng Fe trong nước
ngầm của hai khu vực này khác nhau không đáng
kể, tương ứng là 13,1mg/L và 12,5mg/L đối với
trầm tích già và trẻ. Điều đó có thể là do trong thực
tế, quá trình vận chuyển Fe trong tầng chứa nước
diễn ra khá phức tạp và chịu tác động của nhiều
yếu tố môi trường, nên chênh lệch hàm lượng Fe
trong nước ngầm khác xa so với lý thuyết.
(a) (b)
Hình 1. Phân bố Fe trên các khoáng sắt trong trầm tích: (a) Trầm tích trẻ, (b) Trầm tích già
509
Giá trị As thu được (3,9 và 7,5mg/kg) nằm trong
khoảng nồng độ As trong trầm tích ở các vùng bị ô
nhiễm As. Ví dụ: trầm tích đặc trưng cho các vùng
đồng bằng tích tụ và đồng bằng châu thổ ở
Bangladesh có hàm lượng arsen nằm trong khoảng
0,4-10mg/kg, trung bình 4mg/kg. Trầm tích sông
Gangers có arsen trung bình khoảng 2,0mg/kg. Nồng
độ As trung bình trong các trầm tích suối ở Anh và
Xứ Wales thường giao động trong khoảng 5-8mg/kg
[14]. Như vậy, hàm lượng As trong hai dạng trầm tích
già và trẻ đều nằm trong khoảng nồng độ phổ biến.
Hàm lượng As trong trầm tích già (3,9mg/kg)
thấp hơn khoảng 1/2 so với trầm tích trẻ
(7,5mg/kg) (hình 2). Có thể theo thời gian, khiến
lượng As trongtrầm tích già bị mất đi do quá trình
phong hóa trầm tích. Nghiên cứu trầm tích ở Vạn
Phúc, Hà Nội, tác giả Berg M. cũng nhận thấy các
lớp trầm tích phân bố càng sâu (có tuổi già hơn) thì
nồng độ As trong trầm tích càng giảm, từ
17,5mg/kg trên bề mặt giảm xuống dưới 5mg/kg ở
độ sâu 20m [4].
(a) (b)
Hình 2. Sự phân bố As trên các khoáng sắt trong trầm tích: a) trầm tích trẻ; b) trầm tích già
Xem xét chi tiết hơn về sự phân bố As trên các
pha khoáng sắt, có thể thấy trầm tích trẻ có
0,3mg/kg As liên kết trên bề mặt; 1,1mg/kg là dạng
As trên pha Fe dễ hòa tan; 0,5mg/kg As trên pha
các khoáng Fe hoạt động; 3,5mg/kg As trong pha
Fe tinh thể; 2,2mg/kg ở dạng liên kết với các khoáng
bền vững. Trong khi đó, trầm tích già chỉ chứa
0,34mg/kg là dạng As hấp phụ và trong các khoáng
dễ hòa tan, dạng As liên kết với các khoáng Fe hoạt
động và Fe tinh thể không được phát hiện thấy.
Hàm lượng As có khả năng bị hòa tan trong
trầm tích trẻ là 2mg/kg (pha hấp phụ, dễ hòa tan),
trong khi đó, trong trầm tích già chỉ chiếm
0,34mg/kg. Theo lý thuyết, quá trình già hóa trầm
tích có thể làm suy giảm diện tích bề mặt, làm tăng
kích thước hạt đối với các khoáng sắt hoặc thay đổi
cấu trúc Fe(III) oxyt thành hỗn hợp oxit Fe(III)-
Fe(II). Sự biến đổi này sẽ làm giảm khả năng hấp
phụ arsen trên các khoáng sắt, dẫn tới hàm lượng
arsen linh động ở trầm tích già ít hơn so với trầm
tích trẻ [2]. Ngoài ra, trầm tích trẻ có chứa As liên
kết trên dạng khoáng Fe hoạt động (0,5mg/kg) và
Fe tinh thể (3,5mg/kg). Hai dạng này bị hòa tan
trong điều kiện khử. Trong khi đó, ở trầm tích già
hai dạng khoáng này không phát hiện thấy. Theo
giả thuyết đã nêu ở trên, quá trình khử hòa tan các
khoáng Fe dễ hòa tan và Fe hoạt động kéo theo sự
giải hấp phụ và đồng hòa tan của As liên kết trên
các khoáng đó. Điều này có nghĩa là, càng nhiều
As có mặt trên các dạng khoáng linh động thì nồng
độ As trong nước ngầm càng cao. Ngược lại, nếu
không tồn tại As trên các pha khoáng linh động đó
thì không xảy ra quá trình giải phóng As. Sự khác
biệt giữa phân bố As trong hai dạng trầm tích giải
thích tại sao nồng độ As trong nước ngầm phân bố
trong trầm tích trẻ là 300µg/L trong khi đó, giá trị
này ở trầm tích già là 58µg/L.
Nghiên cứu tại hai khu vực trầm tích có tuổi
khác nhau, tác giả Eiche E. cũng chỉ ra khoảng
nồng độ As ở khu vực trầm tích trẻ cao hơn so với
khu vực trầm tích già hơn mặc dù tổng As trong
trầm tích của hai khu vực này là tương đương nhau
510
[5]. Từ đó cho thấy, lượng As liên kết trên các pha Fe
linh động (dễ hòa tan, hoạt động, tinh thể) đóng vai
trò quyết định hàm lượng As bị hòa tan vào nước
ngầm, chứ không phải tổng lượng As trong trầm tích.
Trầm tích trẻ có chứa 5,2g/kg Fe ở dạng
khoáng dễ hòa tan, Fe(III) dễ bị khử và Fe tinh thể.
Trong điều kiện khử, quá trình khử hòa tan khoáng
Fe kéo theo sự giải phóng As có thể xảy ra tại khu
vực chứa trầm tích trẻ, khi dạng trầm tích này chứa
các khoáng Fe linh động nói trên mang theo As.
Đối với khu vực có trầm tích già, không chứa
khoáng Fe dễ bị khử và Fe dạng tinh thể, tuy có
pha khoáng Fe hòa tan cao (13,6g/kg), nhưng pha
khoáng này chứa ít As, nên không xảy ra sự gia
tăng nồng độ As trong nước ngầm. Điều này có thể
giải thích cho sự khác biệt giữa nước ngầm tại hai
khu vực nghiên cứu. Nước ngầm khu vực trầm tích
già có nồng độ Fe là 13,1mg/L và nồng độ As là
58µg/L, trong khi đó, nước ngầm khu vực trầm tích
trẻ có nồng độ Fe tương tự (12,5 mg/L), nhưng
nồng độ As cao tới 300µg/L (bảng 2). Điều đó cho
thấy, khả năng gia tăng nồng độ As trong nước
ngầm phụ thuộc vào cấu trúc khoáng của trầm tích,
cụ thể là tương quan thuận với hàm lượng As trên
các pha khoáng sắt linh động, có thể bị hòa tan và
khử trong điều kiện môi trường khử.
3.1. Minh họa quá trình khử hòa tan Fe và As từ
trầm tích vào nước ngầm với sự bổ sung chất
hữu cơ
Giả thuyết phổ biến về cơ chế vận chuyển As là
quá trình phân hủy hữu cơ hình thành điều kiện
khử, khiến các khoáng sắt mang As bị hòa tan, kéo
theo sự giải phóng As. Tại khu vực có nhiều hợp
chất hữu cơ hoạt động, quá trình phân hủy hữu cơ
bởi vi khuẩn diễn ra mạnh thì môi trường có tính
khử cao, thúc đẩy sự hòa tan các khoáng Fe. Nhằm
đánh giá vai trò của chất hữu cơ bổ sung đối với
quá trình khử hòa tan Fe và As ta thực hiện trộn
trầm tích với nước sông có thêm natri acetate . Kết
quả nghiên cứu được trình bày ở hình 3.
Môi trường khử được hình thành trong các
dung dịch trộn trầm tích với nước sông có bổ sung
hữu cơ. Nồng độ Fe trong các dung dịch này tăng
dần theo thời gian (hình 3A, B). Thí nghiệm với
trầm tích trẻ không bổ sung hữu cơ, không phát
hiện thấy Fe trong dung dịch (hình 3A). Với trầm
tích già không bổ sung hữu cơ, quá trình hòa tan Fe
có diễn ra, nhưng chậm hơn so với mẫu có bổ sung
hữu cơ (hình 3B). Như vậy, chất hữu cơ bổ sung có
vai trò tạo môi trường khử thuận lợi thúc đẩy quá
trình hòa tan Fe.
Hình 3. Nồng độ Fe (A; B), và As (C; D) trong các dung dịch trộn trầm tích với nước sông có (ký hiệu tròn) và
không (ký hiệu tam giác) bổ sung hữu cơ theo thời gian
511
Tính toán hiệu số giữa nồng độ Fe trong mẫu
có và không bổ sung hữu cơ tại các thời điểm lấy
mẫu cho thấy, chênh lệch nồng độ do sự bổ sung
hữu cơ trong mẫu trầm tích trẻ và trầm tích già là
tương đương nhau (hình 3A, B). Từ đó cho thấy,
mức độ tác động của sự bổ sung hữu cơ lên hai
mẫu trẻ và già là như nhau. Đây là hiện tượng khá
thú vị về vai trò của cùng một dạng hữu cơ bổ sung
lên hai dạng trầm tích khác nhau.
Quá trình khử hòa tan Fe làm cho diện tích bề
mặt của khoáng giảm, khả năng hấp phụ As trên
khoáng giảm theo [7]. Quá trình này kéo theo sự
giải hấp phụ và đồng hòa tan As. Trong thí nghiệm
đối với trầm tích trẻ, lượng As bị hòa tan tối đa sau
15 ngày (0,52mg/kg) đối với mẫu có bổ sung natri
acetate. Trong mẫu không bổ sung natri acetate, thì
lượng As hòa tan không đáng kể, sau 20 ngày đạt
cao nhất ở mức 0,01mg/kg. Giả thuyết rằng, sự bổ
sung hữu cơ có tác động đến hiện tượng lượng As
giải phóng tăng lên. Tuy nhiên, trong thí nghiệm
đối với trầm tích già có bổ sung hữu cơ, mặc dù
quá trình hòa tan sắt được thúc đẩy, nhưng nồng độ
As gần như không thay đổi so với mẫu không bổ
sung hữu cơ (hình 3D).
Hiện tượng này có thể được lý giải khi xem xét
sự khác biệt cấu trúc khoáng học của hai dạng trầm
tích. Trầm tích trẻ có chứa As liên kết trên các pha
khoáng Fe dễ hòa tan, khoáng Fe hoạt động và
khoáng sắt tinh thể. Trong đó, dạng Fe hoạt động
và Fe tinh thể có thể bị rửa trôi trong môi trường
khử. Quá trình rửa trôi các khoáng sắt này kéo theo
sự hòa tan As liên kết trên khoáng đó. Ở trầm tích
già, dạng As liên kết trên hai khoáng này không
được tìm thấy, cộng thêm lượng As trên các
khoáng Fe dễ hòa tan ít hơn nhiều so với trong
trầm tích trẻ. Do đó, quá trình giải phóng As diễn
ra yếu và chênh lệch không đáng kể giữa mẫu có
và không bổ sung hữu cơ. Như vậy, vai trò của
chất hữu cơ bổ sung là tạo ra môi trường có tính
khử gia tăng sự hòa tan khoáng sắt, quá trình này
chỉ kéo theo sự giải phóng As khi nó có mặt trên
các khoáng sắt đó.
Một số nghiên cứu của các tác giả Quicksall
A.N. (2008), Anawar H.M. (2002), Berg M. (2008)
cũng chỉ ra rằng môi trường khử thuận lợi cho quá
trình hòa tan Fe và As. Tại khu vực có nhiều hợp
chất hữu cơ hoạt động, quá trình phân hủy hữu cơ
bởi vi khuẩn diễn ra mạnh thì môi trường có tính
khử cao, thúc đẩy sự hòa tan Fe kéo theo As bị rửa
trôi [1, 4, 13]. Điều này chứng minh vai trò của
hợp chất hữu cơ trong quá trình hình thành điều
kiện khử thuận lợi thúc đẩy quá trình hòa tan Fe và
As trong nước ngầm.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy, trong thực tế
nếu nước ngầm bị ô nhiễm hữu cơ thì môi trường
có tính khử cao được hình thành và điều này có thể
kích hoạt sự khử hòa tan Fe kéo theo As bị giải
phóng. Nghiên cứu của một số tác giả Harvey C.
(2008), Fendoff S. (2010) đã cảnh báo nguy cơ ô
nhiễm As trong nước ngầm khi có sự xâm nhập
hữu cơ từ các ao hồ, đầm lầy. Ngoài ra, kết quả
nghiên cứu này cũng bổ sung cho giả thuyết cho
rằng sự vận chuyển hữu cơ bề mặt từ các khu vực
khác tới nơi có trầm tích vốn chứa As sẽ kích hoạt
quá trình giải phóng As tại khu vực đó [6, 8].
4. Kết luận
Các kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy, cấu
trúc khoáng của mỗi trầm tích có sự khác biệt, trầm
tích trẻ có chứa gần 30% tổng Fe (5,2 g/kg) là dạng
khoáng dễ hòa tan, Fe hoạt động và Fe tinh thể.
Trong trầm tích già, dạng khoáng sắt dễ hòa tan
chiếm tới 60% tổng Fe (13,6 g/kg), nhưng không
có dạng Fe hoạt động và Fe tinh thể.
Sự phân bố As trên các khoáng sắt trong các
trầm tích cũng khác nhau: Trong trầm tích trẻ dạng
As trên pha Fe dễ hòa tan, pha các khoáng Fe hoạt
động và trong pha Fe tinh thể lần lượt là 1,1mg/kg,
0,5mg/kg và 3,4mg/kg. Trong khi đó, trầm tích già
có dạng As hấp phụ và trong các khoáng dễ hòa tan
là 0,34mg/kg, dạng As trên pha Fe hoạt động và Fe
tinh thể không được tìm thấy. Sự tồn tại của As
trên những pha khoáng dễ tác động bởi môi trường
khử chính là yếu tố gây nên sự giải phóng As trong
tầng chứa nước. Điều này lý giải tại sao nước ngầm
trong khu vực trầm tích trẻ có chứa nhiều As hơn so
với khu vực trầm tích già, mặc dù nồng độ Fe ở cả
hai khu vực là tương đương. Bên cạnh đó vai trò của
hữu cơ bổ sung đối với hai dạng trầm tích khác nhau
trong nghiên cứu này là như nhau, đều tạo môi
trường khử thuận lợi khả năng kích hoạt sự hòa tan
khoáng Fe mang As kéo theo As bị giải phóng.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được thực hiện
với sự hỗ trợ kinh phí của đề tài TN-2013 và Dự án
hợp tác quốc tế VietAs - DANIDA. Các tác giả xin
chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Anawar H.M., Akai J., Khan M.G.M.,
Safiullah S., Tareq S.M., 2002: Arsenic poisoning
in groundwater: Health risk and geochemical
sources in Bangladesh. Environ. Int. 27, 597-604.
[2] Appelo C.A.J., Postma D., 2007:
Geochemistry, groundwater and pollution, A.A.
Balkema Publisher, Great Britain.
512
[3] Berg M., Tran H.C., Nguyen T.C., Pham
H.V., Schertenleib R., Giger W., 2001: Arsenic
contamination of groundwater and drinking water
in Vietnam: A human threat, Environmental
Science and Technology 35, 2621-2626.
[4] Berg M., Trang P.T.K., Stengel C.,
Buschmann J., Pham H.V., Nguyen N.D., Giger W.,
Stuben, D., 2008: Hydrological and sedimentary
controls leading to arsenic contamination of
grouwndwater in the Hanoi area, Vietnam: The
impact of iron-arsenic ratios, peat, river bank
deposits, and excessive groundwater abstraction,
Chemical geology 249, 91-112.
[5] Eiche E., Neumann T., Berg M., Weinman
B., van Geen A., Norra S., Berner Z., Pham T.K.T.,
Pham H.V., Stuben D., 2008: Geochemical
processes underlying a sharp contrast in
groundwater arsenic concentrations in a village on
the Red River delta, Vietnam, Applied
Geochemistry 23, 3143-3154.
[6] Fendoff S., Nico P.S., Kocar B.D., Masue
Y., Tufano K.J., 2010: Arsenic chemistry in soils
and sediments, LBNL Paper LBNL-3071E.
[7] Guo H., Tang X., Yang S., Shen Z., 2008:
“Effect of indigenous bacteria on geochemical
behavior of arsenic in aquifer sediments from the
Hetao Basin, Inner Mongolia: Evidence from
sediment incubations, Applied Geochemistry 23,
3267-3277.
[8] Harvey C.F., 2008: Environmental
science: Poisoned water traced to source, Nature
454, 415-416.
[9] Perdesen H.D, Postma D., Jakobsen R.,
2006: Release of arsenic associated with the
reduction and transformation of iron oxides,
Geochimica et Cosmochimica Acta 70, 4116-4129.
[10] Postma D., Larsen F., Nguyen T.M.H.,
Mai T.D., Pham H.V., Pham Q.N., Jessen S., 2007:
Arsenic in groundwater of the Red River
floodplain,Vietnam: Controlling geochemical
processes and reactive transport modeling,
Geochimica et Cosmochimica Acta 71, 5054-5071.
[11] Postma D., Jessen S., Nguyen T.M.H.,
Mai T.D., Koch C.B., Pham H.V,, Pham Q.N,,
Larsen F., 2010: Mobilization of arsenic and iron
from Red River floodplain sediments, Vietnam,
Geochimica et Cosmochimica Acta 74, 3367-3381.
[12] Postma D., Larsen F., Nguyen T.T., Pham
T.K.T., Jakobsen R., Pham Q.N., Tran V.L., Pham
H.V., Murray A.S., 2012: Groundwater arsenic
concentrations in Vietnam controlled by sediment
age, Nature geoscience 1540.
[13] Quicksall A.N., Bostick B.C., Sampson
M.L., 2008: Linking organic matter deposition and
iron mineral transformations to groundwater
arsenic levels in the Mekong delta, Cambodia,
Applied chemistry 23, 3088-3098.
[14] Smedley P.L., Kinniburgh D.G., 2002: A
review of the source, behaviour and distribution of
arsenic in natural waters, Applied Geochemistry
17, 517-568.
[15] Standard methods for the examination of
water and wastewater (19th Edition), 1995:
American Public Health Association (APHA).
SUMMARY
Study of factors affecting arsenic release from sediment into groundwater
The arsenic (As) enrichment in groundwater of the river delta has been being studied and predicted. Organic matter
degradation generating the reduced environment was a popular hypothetical mechanism which is convenient for Fe-
oxides reductive dissolution leading to the As release. However, the role of each factor in this process has not fully
understood. In this study, the relationship between the mineralogy and the concentration of As in the groundwater are
discussed. Two research sites are chosen: the young river bank sediment site with sedimentary age less then 600 years
and the old mountainside sedimentary age more then 3500 years one. The results of nanalysis showed that As
concentration in the young sediment is 7,5 mg/kg which is double of it in the old sediment (3,9 mg/kg). The amount of the
potentially removable As in the young sediment (2 mg/kg) is higher than that in the old sediment (0,34 mg/kg). The As
associated with easily reducible Fe(III) and crystalline Fe was found in the young sediment totalled 4 mg/kg but it was
not detected in the old sediment. Combined with the As concentration in the groundwater of two areas, the results
showed that the more As bound on mobile Fe (easily dissolvable Fe-oxides, easily reducible Fe(III) phases and
crystalline Fe phases) the higher possibility of the As enrichment in groundwater. The study suggests that the existence
of As on Fe phases could be flushed under reduced condition controls the As release from sediment into groundwater.
Besides, the increasing of flushed Fe and As in the sediment incubated with river water added organic matter experiment
was observed. This supports the hypothesis of organic matter role in As mobilization that is to genenrate the reduced
condition enhancing the reductive dissolution of As bearing Fe-oxides which leads to the leaching of As.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2810_9243_1_pb_0599_2108029.pdf