The regulation effect of substrate concentration and sediment features on
nitrification and nitrate reduction potentials was assessed based on study results at 6 sites with
different sediment characteristics and aquaculturing options in two coastal culturing zones in Hai
Phong city, in April and August 2013. Nitrification and nitrate reduction rates were measured in
slurries of field samples and enrichment experiments using the acetylene inhibition techniques.
Nitrification and nitrate reduction rates ranged from 1.5 - 8.6µgN/g wet weight-1h-1 và 11.0 -
54.0µgN/g wet weight-1h-1, respectively. Both of these processes depended on substrate
concentrations and sampling sites. Substrate availability stimulated inorganic nitrogen
transformation activity but only within retricted range, further increase in substrate availability
inhibited the activities. The thresholds of substrate concentrations for nitrification and nitrate
reduction were in ranges of 0.55 - 1.00 mgN/l and 1.53 - 2.82 mgN/l, respectively.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 581 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ cơ chất và trạm vị thu mẫu đến tốc độ chuyển hoá các chất nitơ vô cơ trong khu vực nuôi trồng thuỷ sản ven biển Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
378
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 4; 2014: 378-384
DOI: 10.15625/1859-3097/14/4/5824
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ CƠ CHẤT VÀ TRẠM VỊ
THU MẪU ĐẾN TỐC ĐỘ CHUYỂN HOÁ CÁC CHẤT NITƠ VÔ CƠ
TRONG KHU VỰC NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN VEN BIỂN HẢI PHÒNG
Đỗ Mạnh Hào1*, Đào Thị Ánh Tuyết1, Lê Minh Hiệp1, Lê Thanh Huyền2
1Viện Tài nguyên và Môi trường biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Sở Khoa học và Công nghệ Hải Phòng
*E-mail: haodm@imer.ac.vn
Ngày nhận bài: 5-6-2014
TÓM TẮT: Ảnh hưởng nồng độ cơ chất và trạm vị thu mẫu đến tiềm năng nitrate hoá và khử
nitrate hoá được đánh giá dựa trên kết quả nghiên cứu tại 6 trạm với đặc điểm nền đáy khác nhau
thuộc khu vực nuôi thuỷ sản ven biển Hải Phòng trong 2 đợt thu mẫu tháng 4 và tháng 8 năm 2013.
Tốc độ nitrat hoá và khử nitrat hoá được phân tích thông qua các thí nghiệm mô phỏng với việc bổ
sung và không bổ sung cơ chất bằng phương pháp ức chế acetylene. Kết quả phân tích cho thấy, tốc
độ nitrat và khử nitrat hoá dao động trong khoảng 1,5 - 8,6 µgN/g ướt/giờ và trong khoảng 11,0 -
54,0 µgN/g ướt/giờ tương ứng. Cả 2 quá trình này phụ thuộc vào nồng độ cơ chất và trạm vị thu
mẫu. Nồng độ cơ chất kích thích quá trình chuyển hoá nitơ vô cơ, tốc độ chuyển hoá tăng khi nồng
độ cơ chất tăng, nhưng chỉ trong giới hạn nhất định, khi nồng độ cơ chất cao hơn giới hạn sẽ ức chế
quá trình quá trình này. Ngưỡng nồng độ cơ chất cho quá trình nitrat hoá và khử nitrat hoá là 0,55
- 1,00 mgN/l và 1,53 - 2,82 mgN/l tương ứng.
Từ khoá: Tốc độ nitrat hoá, tốc độ khử nitrat hoá, cơ chất, trạm vị, nuôi thuỷ sản ven biển, Hải
Phòng.
MỞ ĐẦU
Trong quá trình nuôi trồng thủy sản, các
hợp chất nitơ vô cơ (NH4+, NH3, NO2- và NO3-)
được tích luỹ dần do sự bài tiết trực tiếp từ đối
tượng nuôi, phân huỷ thức ăn dư thừa hay sẵn
có từ nguồn nước cấp vào đã nhiễm nitơ vô cơ.
Đây là các tác nhân ảnh hưởng đến sản lượng
và năng suất nuôi thuỷ sản nói chung và nuôi
thuỷ sản nước lợ nói riêng. Amoni và nitrit là
độc tố đối với đối tượng nuôi, bởi nó có thể gây
ra hiệu ứng cấp tính và kinh niên dẫn đến giảm
khả năng đề kháng bệnh và giảm sự sinh trưởng
của vật nuôi [1, 2]. Nitrat không gây độc trực
tiếp cho đối tượng nuôi nhưng sự có mặt với
nồng độ cao trong ao nuôi sẽ kích thích sự nở
hoa của tảo và qua đó ảnh hưởng đến sinh
trưởng vật nuôi do thiếu hụt ôxy và độc tố tảo
độc [3, 4]. Do vậy, việc nghiên cứu để đưa ra
các giải pháp nhằm kiểm soát nồng độ amoni,
nitrit và nitrat không chỉ là điều kiện tiên quyết
ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng nuôi
trồng mà còn góp phần giảm thiểu tác động tiêu
cực của nguồn nuớc thải thuỷ sản đến môi
trường sinh thái ven biển.
Vi sinh vật đáy đóng vai trò quan trọng
trong quá trình chuyển hoá nitơ trong ao nuôi
tôm. Dưới điều kiện hiếu khí, vi khuẩn nitrate
hoá chuyển hoá amoni (NH4+) thành nitrit
(NO2-) và tiếp theo thành nitrat (NO3-), trong
khi đó dưới điều kiện kỵ khí, vi khuẩn khử
nitrat hoá chuyển hoá NO2- và NO3- thành khí
N2O, N2 và một phần thành NH4+. Thông qua
hai quá trình này, các chất ô nhiễm nitơ vô cơ
tích luỹ trong quá trình nuôi trồng sẽ được loại
Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ
379
bỏ một phần (quá trình tự làm sạch). Do đó,
việc nghiên cứu đánh giá tiềm năng chuyển hoá
các chất ô nhiễm nitơ vô cơ và đánh giá xem
yếu tố nào kiềm soát tốc độ chuyển hoá các
chất ô nhiễm này có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn cao. Đây sẽ là cơ sở khoa học để đưa ra
giải pháp nâng cao khả năng tự làm sạch các
chất ô nhiễm nitơ vô cơ. Bằng cách lựa chọn
trạm vị thu mẫu có đặc điểm nền đáy khác nhau
(có hay không có cây ngập mặn phát triển) và
thiết kế thí nghiệm mô phỏng, bài báo này đã
bước đầu đánh giá được ảnh hưởng của nồng
độ cơ chất và trạm vị thu mẫu đến tiềm năng
chuyển hoá nitơ vô cơ trong khu vực nuôi thuỷ
sản ven biển Hải Phòng.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Trạm vị và thời gian thu mẫu
Hình 1. Sơ đồ địa điểm thu mẫu khu vực nuôi
trồng thuỷ sản ven biển Tiên Lãng và Cát Hải
Gồm 6 trạm vị nghiên cứu khác nhau thuộc
2 khu vực nuôi trồng thuỷ sản ven biển là khu
vực huyện Tiên Lãng và khu vực huyện đảo
Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Tại mỗi khu vực
chọn lựa 3 trạm vị thu mẫu đại diện cho các
phương thức canh tác khác nhau: (1) Trạm
“nền” là trạm nằm ngoài đầm nuôi, đại diện
cho môi trường tự nhiên của khu vực nuôi thuỷ
sản, ký hiệu mẫu là TL00 (khu vực Tiên Lãng)
và PL00 (khu vực Cát Bà); (2) Đầm nuôi tôm
quảng canh cải tiến không có thực vật ngập
mặn phát triển, ký hiệu mẫu là TL01 và PL01;
(3) Đầm nuôi tôm quảng canh có thực vật ngập
mặn phát triển, ký hiệu mẫu là TL02 và PL02
(hình 1). Mẫu được thu vào 2 đợt đại diện cho
2 mùa rõ rệt trong năm là mùa khô (tháng
4/2013) và mùa mưa (tháng 8/2013).
Phương pháp thu mẫu
Mẫu trầm tích được thu thập bằng cuốc lấy
mẫu chuyên dụng, sau đó dùng thìa inox vô
trùng lấy lớp trầm tích bề mặt cho vào túi lynon.
Song song với việc lấy mẫu trầm tích, 1 lít mẫu
nước tầng đáy cũng được thu thập bằng
Bathomet và bảo quản trong chai thủy tinh
dung tích 1 lít vô trùng. Cả mẫu trầm tích và
nước được bảo quản trong tủ đá lạnh trước khi
mang về phòng thí nghiệm cho xử lý tiếp theo.
Chuẩn bị nước nuôi cấy cho thí nghiệm mô
phỏng
Mẫu nước ngay sau khi mang về phòng thí
nghiệm sẽ được lọc qua màng 0,2 µm và chia
vào 6 bình tam giác mỗi bình 150 ml, 3 bình
cho thí nghiệm nitrat hoá và 3 bình còn lại cho
thí nghiệm khử nitrat hoá. Để chuẩn bị cho thí
nghiệm phân tích tốc độ nitrat hoá, dung dịch
NH4Cl được bổ sung vào 2 bình tam giác để có
nồng độ NH4+ cuối cùng tăng 0,1 mgN/l và
1,0 mgN/l; 1 bình còn lại không bổ sung NH4+.
Đối với thí nghiệm khử nitrat hoá cũng tiến
hành tương tự như vậy, NO3- được bổ sung vào
3 bình tam giác để có nồng độ cuối cùng tăng
so với ban đầu là 0,0 mgN/l, 0,1 mgN/l và
0,5 mgN/l.
Cân chính xác 0,3 g đất ướt cho vào mỗi lọ
peni dung tích 50 ml, dùng ống định mức đong
30 ml nước ủ đã chuẩn bị (chuyển) bị ở trên
cho vào các bình peni, mỗi thí nghiệm làm lặp
lại 3 lần, đậy nút cao su và gắn xi nhôm.
Xác định tốc độ nitrat hoá
Tốc độ nitrate hoá được xác định theo
phương pháp ức chế acetylene theo mô tả của
Kim & cs., (1996) [5]. Cân 0,3 g bùn cho vào
lọ peni thủy tinh dung tích 50 ml, bổ sung
30 ml nước nuôi cấy đã trung hòa khí oxy. Bình
nuôi cấy được đậy bằng nút cao su và ép chặt
bằng xi nhôm. Bình nuôi cấy được chia ra làm
2 nhóm là nhóm dương tính với acetylene (bổ
sung 20% khí acetylene vào bình (vol:vol) và
nhóm âm tính không bổ sung khí acetylene.
Nuôi cấy tại 300C trên máy lắc với tốc độ
70 vòng/phút trong 4 h. Tốc độ nitrat hoá được
xác định bằng sự chênh lệch hàm lượng NH4+
Đỗ Mạnh Hào, Đào Thị Ánh Tuyết,
380
giữa bình dương và âm tính.
Xác định tiềm năng khử nitrat hoá
Tốc độ khử nitrat hoá được xác định bằng
phương pháp ức chế acetylene theo mô tả của
Sørensen, J. (1978) [6]. Cân 0,3 g bùn cho vào
lọ thuỷ tinh dung tích 50 ml, bổ sung 30 ml nước
ủ vào bình đã có chứa bùn. Bình thuỷ tinh được
đậy bằng nắp cao su và ép chặt bằng xi nhôm.
Dùng khí CO2 để đẩy hết khí oxy ra ngoài. Bơm
khí acetylene vào bình với một lượng thể tích
20% (vol:vol). Sau khi đã hoàn thành bổ sung
khí acetylene vào các bình nuôi cấy sẽ tiến hành
thu mẫu tại thời điểm 0 h để phân tích nồng độ
(NO2- + NO3-). Mẫu còn lại được ủ 4 h trong tối
tại nhiệt độ 300C có lắc. Tốc độ phản nitrat hoá
bằng lượng (NO2- + NO3-) mất đi tại thời điểm 4
h so với thời điểm 0 h.
Phân tích các chất nitơ vô cơ
Nồng độ NH4+ được phân tích bằng phương
pháp Phenat theo mô tả của Aminot & cs.
(1996) [7].
Nồng độ (NO2- + NO3-) được phân tích
bằng phương pháp Diphenilamin theo mô tả
của Đoàn Bộ (2001) [8].
Xử lý số liệu
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được xử lý
bằng phương pháp thống kê sinh học. Sử dụng
chương trình ANOVA ứng dụng trên phần mềm
Microsoft Office Excel 2010 để phân tích và xử
lý số liệu.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Đặc điểm môi trường các trạm nghiên cứu
Trạm TL00 và PL00 là 2 trạm nằm ngoài ao
nuôi thuỷ sản, nền đáy là bùn pha cát và có cây
sú phát triển. Trạm TL01 và PL01 là ao nuôi
tôm quản canh với nền đáy là cát pha bùn và
không có thực vật ngập mặn phát triển. Trạm
TL02 và PL02 là ao nuôi tôm quảng canh với
nền đáy dạng bùn nhuyễn và được bao phủ bởi
lớp rong cỏ dầy.
Nồng độ NH4+ và (NO2- + NO3-) trong dịch
nước nuôi cấy tại thời gian lúc 0 giờ và không
bổ sung thêm cơ chất (in situ) được chỉ ra ở
bảng 1. Nồng độ NH4+ dao động trong phạm vị
rộng từ 0,00 - 0,70 mgN/l. Tại trạm thu mẫu
TL02 và PL02, nồng độ NH4+ có giá trị thấp
nhất, thậm trí không phát hiện thấy NH4+ vào
tháng 8/2013. Vào tháng 4/2013, nồng độ NH4+
tại trạm TL02 và PL02 vào khoảng 0,10 -
0,12 mg/l trong khi đó các trạm khác có nồng
độ NH4+ từ 0,34 mg/l đến 0,70 mg/l. Nồng độ
(NO2- + NO3-) trong dịch nước nuôi cấy tại 0
giờ dao động trong khoảng từ 1,46 mg/l đến
2,74 mg/l. Nồng độ (NO2- + NO3-) đạt giá trị
thấp nhất tại trạm PL01 tháng 4/2013 và đạt giá
trị cao nhất tại trạm TL00 tháng 4/2013.
Bảng 1. Nồng độ NH4+ và (NO2- + NO3-) trong dịch nước nuôi cấy lúc 0 giờ
Trạm vị
NH4+ (mgN/l) NO2- + NO3- (mgN/l)
4/2013 8/2013 4/2013 8/2013
TL00 0,63 0,70 2,74 2,70
TL01 0,45 0,60 2,66 2,68
TL02 0,10 0,00 2,66 2,68
PL00 0,56 0,60 2,19 2,30
PL01 0,34 0,45 1,46 1,60
PL02 0,12 0,00 2,18 2,34
Tốc độ nitrat hoá
Tốc độ nitrat hoá trong thí nghiệm mô
phỏng không bổ sung cơ chất (in situ) tháng 4
và 8/2013 trong các trạm nghiên cứu dao động
từ 1,5 – 8,6 µgN/g ướt/h. Tốc độ nitrat hoá thay
đổi nhiều theo các trạm vị nghiên cứu. Tại trạm
TL00, tốc độ nitrat hoá đạt giá trị thấp nhất và
đạt giá trị cao nhất tại trạm PL01. Tại trạm
TL02 và PL02, không phát hiện thấy NH4+
trong dịch nuôi cấy tại 0 giờ do đó không phân
tích tốc độ nitrat hoá tại 2 trạm nghiên cứu này
trong điều kiện in situ (bảng 2).
Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ
381
Bảng 2. Tốc độ nitrat hoá và khử nitratcủa quần xã vi sinh vật bản địa
Trạm vị Nồng độ cơ chất
Nitrat hoá (µgN/g ướt/h) Khử nitrat hoá (µgN/g ướt/h)
4/2013 8/2013 4/2013 8/2013
TL00
in situ 1,5 1,6 43 40
+ 0,1 4,8 66 60
+1,0 2,8 4 10
TL01
in situ 5,6 5,3 37 35
+ 0,1 3,4 32 35
+1,0 1,5 4 6
TL02
In situ 52 56
+ 0,1 3,8 41 40
+1,0 9,9 8 5
PL00
In situ 2,0 2,7 31 27
+ 0,1 2,0 18 22
+1,0 1,2 3 3
PL01
in situ 7,3 8,6 11 15
+ 0,1 1,0 4 5
+1,0 1,0 4 3
PL02
in situ 32 34
+ 0,1 1,3 28 31
+1,0 5,3 0 2
Hình 2. Tương quan tuyến tính giữa tốc độ
nitrat hoá với nồng độ cơ chất (NH4+)
Bằng phương pháp phân tích thống kê sinh
học cho thấy tốc độ nitrate hoá in situ có tương
quan tỷ lệ nghịch với nồng độ cơ chất trong
dịch nuôi cấy tại 0 h (r = -0,88; n = 8). Nồng độ
cơ chất NH4+ càng cao thì tốc độ nitrate hoá có
xu thế giảm theo phương trình tuyến tính
y = - 0,0207x + 0,0155 (hình 2). Theo nghiên
cứu của Kim & cs. (1996), Magalhães & cs.
(2006) [5, 9] cho thấy trong điều kiện in situ,
nồng độ cơ chất càng tăng thì tốc độ nitrate hoá
có xu thế tăng lên. Tuy nhiên, các tác giả này
chỉ đánh giá mối tương quan theo thời gian
trong khi nghiên cứu của chúng tôi đánh giá
mối tương quan chủ yếu theo không gian (trạm
vị thu mẫu).
Để làm rõ bản chất mối tương quan giữa
tốc độ nitrat với nồng độ cơ chất, thí nghiệm
mô phỏng mà môi trường đã được làm giàu
với cơ chất tại 2 nồng độ khác nhau là
+ 0,1 mg/l và + 1,0 mg/l so với điều kiện thí
nghiệm in situ đã được tiến hành. Kết quả cho
thấy chỉ có trạm TL01 và PL00 là theo quy luật
trên, tốc độ nitrate đạt giá trị cao nhất tại điều
kiện in situ và giảm dần khi cơ chất được bổ
sung (hình 3). Kết quả này cũng cho thấy, tiềm
năng nitrat hoá tại trạm TL01 và PL00 là
5,3 µgN/g ướt/h và 2,7 µgN/g ướt/h tương ứng.
Nồng độ cơ chất in situ tại 2 trạm này là giới
hạn cho quá trình nitrat hoá, nếu nồng độ NH4+
tăng thì quá trình loại bỏ NH4+ khỏi môi trường
sẽ bị giảm và ức chế.
Tại các trạm còn lại, nồng độ cơ chất tăng
sẽ kích thích quá trình nitrat hoá. Tại trạm
TL00 và PL01, tốc độ nitrate hoá đạt giá trị cao
nhất khi cơ chất được bổ sung 0,1 mg/l nhưng
nồng độ cơ chất bổ sung 1,0 mg/l thì tốc độ
nitrat hoá giảm nhẹ. Tại trạm TL02 và PL02,
khi nồng độ cơ chất được bổ sung sẽ kích thích
quá trình nitrat hoá, tốc độ nitrat hoá đạt giá trị
cao nhất khi nồng độ cơ chất được bổ sung
Đỗ Mạnh Hào, Đào Thị Ánh Tuyết,
382
1,0 mg/l. Kết quả nghiên cứu này cho thấy
nồng độ cơ chất tăng sẽ kích thích quá trình
nitrat hoá nhưng trong một giới hạn nhất định,
khi nồng độ cơ chất vượt giới hạn cho phép sẽ
ức chế quá trình nitrat hoá. Giới hạn nồng độ
cơ chất là khoảng 0,55 mgN/l đến 1,0 mgN/l
(hình 3).
Hình 3. Tốc độ nitrat hoá tại các thí nghiệm
có bổ sung và không bổ sung cơ chất
Tốc độ nitrat hoá không những phụ thuộc
vào nồng độ cơ chất mà còn phụ thuộc vào
trạm vị thu mẫu. TL00, TL01 và PL00 có tiềm
năng nitrat hoá thấp, PL01 có tiềm năng nitrat
hoá thấp nhất 2,7 µgN/g ướt/h, tiếp đến là
TL00 4,8 µgN/g ướt/h và TL01 5,3 µgN/g
ướt/h. TL02, PL01 và PL02 có tiềm năng nitrat
hoá cao hơn, dao động từ 5,3 - 8,6µgN/g ướt/h.
Tốc độ khử nitrate
Tốc độ khử nitrat hoá trong điều kiện in
situ tháng 4 và 8/2013 trong các trạm nghiên
cứu dao động trong khoảng từ 11 - 54 µgN/g
ướt/h. Tốc độ khử nitrat hoá đạt giá trị thấp
nhất tại trạm PL01 tháng 4/2013 và đạt giá trị
cao nhất tại trạm TL02 tháng 8/2013. Nhìn
chung, tốc độ khử nitrat hoá tại mỗi trạm
nghiên cứu là không thay đổi nhiều giữa tháng
4 và tháng 8 năm 2013 (bảng 2).
Bằng phương pháp phân tích thống kê sinh
học cho thấy, tốc độ khử nitrat hoá có mối tương
quan tỷ lệ thuận với nồng độ cơ chất 0 giờ trong
điều kiện in situ (r = 0,88; n =12), nồng độ cơ
chất càng tăng thì tốc độ khử nitrate càng tăng
(hình 4). Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp
với các kết quả nghiên cứu của Kim & cs.
(1996); Magalhães & cs. (2006) [5, 9].
Hình 4. Tương quan tuyến tính giữa tốc độ khử
nitrat hoá và nồng độ cơ chất (NO2- + NO3-)
Tại mỗi trạm nghiên cứu, tốc độ khử nitrat
có xu thế giảm khi nồng độ cơ chất được bổ
sung 0,1 mg/l và 0,5 mg/l, ngoại trừ trạm TL00
có tốc độ khử nitrat hoá tăng lên khi bổ sung
0,1 mg/l nhưng lại giảm mạnh khi nồng độ cơ
chất được bổ sung 0,5 mg/l. Kết quả này cho
thấy nồng độ (NO2- + NO3-) hiện có ngoài hiện
trường là giới hạn cho quá trình khử nitrat hoá,
nếu nồng độ cơ chất tăng có thể sẽ ức chế quá
trình khử nitrat hoá. Giới hạn nồng độ cơ chất
(NO2- + NO3-) cho quá trình khử nitrat hoá
trong khoảng từ 1,53 mgN/l đến 2,82 mgN/l
(hình 5).
Hình 5. Tốc độ khử nitrate hoá có bổ sung và
không bổ sung thêm nồng độ cơ chất
Tốc độ khử nitrat hoá không những phụ
thuộc vào nồng độ cơ chất mà còn phụ thuộc
vào trạm vị thu mẫu. Trạm TL00 và TL02 có
tiềm năng khử nitrat hoá cao hơn hẳn các trạm
còn lại, với tốc độ cực đại là 63µgN/g ướt/giờ
Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ
383
và 54 µgN/g ướt/giờ tương ứng. Trạm TL01,
PL00 và PL02 có tốc độ khử nitrat trung bình
và dao động trong khoảng 29-36µgN/g ướt/h.
Riêng trạm PL01 có tốc độ khử nitrat rất thấp,
chỉ đạt 13µgN/g ướt/giờ. Tuy nhiên, chúng tôi
không phát hiện thấy sự khác biệt lớn về tốc độ
khử nitrate giữa mùa mưa và mùa khô. Nhiều
nghiên cứu khác cũng cho thấy tốc độ khử
nitrate biển đổi theo không gian, các trạm có
nền đáy khác nhau có tiềm năng khử nitrate hoá
khác nhau [9, 10].
KẾT LUẬN
Tốc độ nitrat hoá trong khu vực nuôi thuỷ
sản ven biển Hải Phòng dao động trong khoảng
từ 1,5 - 8,6 µgN/g ướt/giờ. Yếu tố nồng độ cơ
chất (NH4+) và trạm vị thu mẫu có ảnh hưởng
mạnh đến tiềm năng nitrat hoá. Trong giới hạn
nhất định (0,55 - 1,00 mgN/l), nồng cơ chất
tăng sẽ kích thích quá trình nitrat hoá nhưng
khi nồng độ cơ chất vượt quá giới hạn sẽ ức chế
quá trình nitrat hoá.
Tốc độ khử nitrat hoá trong khu vực nghiên
cứu dao động trong khoảng từ 11,0 -
54,0 µgN/g ướt/giờ. Trong giới hạn nhất định
(1,53 - 2,82 mgN/l), nồng độ cơ chất tăng (NO2-
+ NO3-) thì tốc độ khử nitrat hoá tăng, nhưng khi
nồng độ cơ chất vượt quá giới hạn sẽ ức chế quá
trình khử nitrat hoá. Phụ thuộc vào trạm vị thu
mẫu mà mỗi trạm vị có tiềm năng khử nitrat hoá
và giới hạn nồng độ cơ chất khác nhau.
Lời cảm ơn: Bài báo này là một phần kết quả
nghiên cứu của đề tài VAST06.03/13-14. Nhóm
tác giả xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ tài
chính của Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam và sự cộng tác của các đồng
nghiệp tại Viện Tài nguyên và Môi trường biển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gross, A., Abutbul, S., and Zilberg, D.,
2004. Acute and Chronic Effects of Nitrite
on White Shrimp, Litopenaeus vannamei,
Cultured in Low‐Salinity Brackish
Water. Journal of the World Aquaculture
Society, 35(3): 315-321.
2. Schuler, D. J., 2008. Acute toxicity of
ammonia and nitrite to white shrimp (L.
vannamei) at low salinities. Master thesis,
Virginia Polytechnic Institute and State
university. 54 p.
3. Hirayama, K., 1966. Influences of nitrate
accumulated in culturing water on Octopus
vulgaris. Bull. Jpn. Soc. Sci. Fish, 32,
105-111.
4. Muir, P. R., Sutton, D. C., and Owens, L.,
1991. Nitrate toxicity toPenaeus monodon
protozoea. Marine Biology, 108(1): 67-71.
5. Kim, D. H., Matsuda, O., and Yamamoto, T.,
1997. Nitrification, denitrification and
nitrate reduction rates in the sediment of
Hiroshima Bay, Japan. Journal of
Oceanography, 53, 317-324.
6. Sørensen, J., 1978. Denitrification rates in a
marine sediment as measured by the
acetylene inhibition technique. Applied and
Environmental Microbiology, 36(1):
139-143.
7. Aminot, A., Kirkwood, D. S., and Kerouel,
R., 1997. Determination of ammonia in
seawater by the indophenol-blue method:
evaluation of the ICES NUTS I/C 5
questionnaire. Marine Chemistry, 56(1):
59-75.
8. Đoàn Bộ, 2001. Hoá học biển: Các phương
pháp phân tích hoá học nước biển. Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, 131 tr.
9. Magalhães, C. M., Joye, S. B., Moreira, R.
M., Wiebe, W. J., and Bordalo, A. A., 2005.
Effect of salinity and inorganic nitrogen
concentrations on nitrification and
denitrification rates in intertidal sediments
and rocky biofilms of the Douro River
estuary, Portugal. Water Research, 39(9):
1783-1794.
10.`Jenkins, M. C., and Kemp, W. M., 1984.
The coupling of nitrification and
denitrification in two estuarine sediments l
v2. Limnol. Oceanogr, 29(3): 609-619.
Đỗ Mạnh Hào, Đào Thị Ánh Tuyết,
384
STUDY ON EFFECT OF SUBSTRATE CONCENTRATION AND
SAMPLING SITES ON INORGANIC NITROGEN TRANSFORMATION
RATES IN COASTAL AQUACULTURE AREA OF HAI PHONG
Do Manh Hao1, Dao Thi Anh Tuyet1, Le Minh Hiep1, Le Thanh Huyen2
1Institute of Marine Environment and Resources-VAST
2Hai Phong Department of Science and Technology
ABSTRACT: The regulation effect of substrate concentration and sediment features on
nitrification and nitrate reduction potentials was assessed based on study results at 6 sites with
different sediment characteristics and aquaculturing options in two coastal culturing zones in Hai
Phong city, in April and August 2013. Nitrification and nitrate reduction rates were measured in
slurries of field samples and enrichment experiments using the acetylene inhibition techniques.
Nitrification and nitrate reduction rates ranged from 1.5 - 8.6µgN/g wet weight-1h-1 và 11.0 -
54.0µgN/g wet weight-1h-1, respectively. Both of these processes depended on substrate
concentrations and sampling sites. Substrate availability stimulated inorganic nitrogen
transformation activity but only within retricted range, further increase in substrate availability
inhibited the activities. The thresholds of substrate concentrations for nitrification and nitrate
reduction were in ranges of 0.55 - 1.00 mgN/l and 1.53 - 2.82 mgN/l, respectively.
Keywords: Nitrification rate, nitrate reduction rate, substrates, sampling site, coastal
aquaculturing, Hai Phong.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5824_20933_1_pb_2703_2079661.pdf