Bảng 3. Thiết kế công thức có tỷ lệ tá dược trơn chảy thay đổi
Thành phần Công thức
CT9 CT10 CT11 CT12 CT13
Bột chè xanh 1 1 1 1 1
HPTR nghệ vàng 3,75 3,75 3,75 3,75 3,75
Glucose (g) 12 12 12 12 12
Magnesi stearat (%) 0,5 1 1 1 2
Talc (%) 1 0,5 1 2 1
Ethanol 96% Thêm vừa đủ tạo khối ẩm để xát hạt
Các mẫu được bào chế theo phương pháp ghi mục 2 và đánh giá chất lượng sản phẩm. Kết quả
được trình bày bảng 4.
Bảng 4. Một số chỉ tiêu chất lượng chế phẩm khi thay đổi tá dược trơn chảy
Công
thức Hình thức (n= 3; TB ± SD) Chỉ số Carr Độ rã (giây) Độ đồng đều khối lượng (%, n= 20)
CT 9 Cốm không đều, dễ hút ẩm, vị ngọt,
thời gian sấy kéo dài.
22,9 ± 1,16 155 ± 3,8
CT 10 Cốm không đều, dễ hút ẩm, vị ngọt,
thời gian sấy kéo dài.
23,1 ± 1,31 161 ± 4,1
CT 11 Cốm không đều, dễ hút ẩm, vị ngọt,
thời gian sấy kéo dài.
21,5 ± 2,07 139 ± 3,2
CT12 Cốm khá đồng đều, vị ngọt, thời
gian sấy ngắn.
19,8 ± 1,96 140 ± 1,6
CT 13 Cốm khá đồng đều, vị ngọt, thời
gian sấy ngắn.
22,7 ± 1,53 145 ± 4,9
Kết quả cho thấy, tỷ lệ và lượng tá dược trơn chủ yếu ảnh hưởng đến mức độ trơn chảy của khối
bột, tăng tỷ lệ talc trong thành phần công thức dẫn đến độ trơn chảy của cốm tốt hơn. Điều này
do talc có tác dụng làm trơn và điều hòa sự
chảy tốt, ngoài ra talc ít sơ nước nên cũng ít
ảnh hưởng tới thời gian rã của cốm. Trong các
mẫu nghiên cứu, mẫu CT12 (tỷ lệ magnesi
stearat và talc tương ứng là 1% và 2% của khối
lượng cốm) có chỉ số Carr thấp nhất, các chỉ
tiêu về hình thức, đồng đều khối lượng, độ rã,
độ ẩm đều đạt yêu cầu, do vậy được lựa chọn
là tá dược trơn trong nghiên cứu.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu bào chế cốm chứa chất chiết từ chè xanh và nghệ vàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TNU Journal of Science and Technology 225(08): 31 - 37
Email: jst@tnu.edu.vn 31
NGHIÊN CỨU BÀO CHẾ CỐM
CHỨA CHẤT CHIẾT TỪ CHÈ XANH VÀ NGHỆ VÀNG
Nguyễn Khắc Tùng*, Nguyễn Thu Quỳnh,
Đồng Quang Huy, Đào Thùy Linh
Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành nhằm xây dựng công thức bào chế của cốm chứa chất chiết từ nghệ
vàng và chè xanh. Chè xanh được chiết xuất bằng phương pháp ngâm nóng, dung môi nước acid
pH 3,0. Nghệ vàng được chiết xuất bằng phương pháp ngâm sử dụng bình ngấm kiệt, dung môi
aceton 70%. Tỷ lệ dược liệu - dung môi là 1 - 10. Thời gian chiết 4 giờ, chiết 2 lần. Sau khi loại
tạp và sấy khô, nghiền sản phẩm thành bột chè xanh (hàm lượng polyphenol khoảng 41%) và bột
nghệ vàng (hàm lượng curcumin khoảng 92%). Bột nghệ vàng được bào chế hệ phân tán rắn bằng
phương pháp đun chảy. Cốm được bào chế bằng phương pháp xát hạt qua rây với tỷ lệ chè xanh -
hệ phân tán rắn nghệ vàng - glucose là 1- 3,75 - 8; sử dụng tá dược dính ethanol 96% và tá dược
trơn là magnesi stearat và talc. Sản phẩm thu được có màu vàng nâu, khô tơi, vị ngọt thanh, độ rã
< 5 phút, hàm ẩm dưới 5% và độ đồng đều khối lượng nằm trong khoảng ± 7,5% so khối lượng
trung bình gói.
Từ khóa: Cốm; polyphenol; curcumin; chè xanh; nghệ vàng.
Ngày nhận bài: 06/01/2020; Ngày hoàn thiện: 05/02/2020; Ngày đăng: 11/6/2020
STUDY ON PREPARATION OF GRANULATED CONTAINING
POLYPHENOL, CURCUMIN EXTRACTED FROM GREEN TEA AND
CURCUMA LONGA.
Nguyen Khac Tung*, Nguyen Thu Quynh,
Dong Quang Huy, Dao Thuy Linh
TNU - University of Medicine and Pharmacy
ABSTRACT
The study was conducted to formulate of granulated medicine containing extracts of curcuma
longa L and green tea. Green tea is extracted by hot soaking method, with acidic water solution
having pH 3.0. Curcuma longa L is extracted by immersion method using an infused flask, with
the solvent being 70% acetone. The ratio of medicinal herbs to the solvent is 1:10. The extraction
time is 4 hours with twice extraction. After removing impurities and drying process, the product is
ground into powder consisting of green tea (about 41% polyphenol content) and curcuma longa L
(about 92% curcumin content). A solid dispersion system of curcuma longa L extract is prepared
by melting method. Granulated medicine is prepared by wet granulation method with the ratio of
green tea to solid dispersion system curcuma longa to glucose being 1:3.75:8; binder and lubricant
excipients used are 96% ethanol and magnesium stearate and talc, respectively. The product
obtained is yellow brown, dry, sweet, having less than five-minute decomposition, <5% moisture
content and equitable mass ranging within ± 7.5% of the average mass of the packages.
Keywords: granulated medicine; polyphenol; curcumin; green tea; curcuma longa L.
Received: 06/01/2020; Revised: 05/02/2020; Published: 11/6/2020
* Corresponding author. Email: tungyduoctn@gmail.com
Nguyễn Khắc Tùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 31 - 37
Email: jst@tnu.edu.vn 32
1. Giới thiệu
Chè xanh là thức uống phổ biến nhất trên toàn
thế giới. Nghệ vàng là dược liệu đã được sử
dụng lâu đời. Trong chè xanh và nghệ vàng
đều chứa các hợp chất polyphenol có tác dụng
tăng cường sức khỏe, chống lão hóa, tăng
cường hệ miễn dịch, chống ung thư, chống
viêm và kháng khuẩn [1]-[6]. Sự kết hợp chiết
xuất polyphenol trong chè xanh với curcumin
đã được chứng minh tạo ra tác dụng hiệp
đồng ức chế sự tăng sinh tế bào ung thư
miệng, tế bào ung thư vú và ung thư ruột kết
[7]-[11]. Mới đây, một nghiên cứu đã cho
thấy curcumin giúp tăng khả năng giải phóng
dược chất và tác dụng chống tăng lipid máu
của chiết xuất chè xanh [12]. Như vậy, một
sản phẩm kết hợp hai nhóm chất này sẽ tạo ra
nhiều tác dụng có lợi hơn. Từ thực tiễn đó, đề
tài “Nghiên cứu bào chế cốm chứa chất chiết
từ chè xanh và nghệ vàng” được thực hiện
góp phần đa dạng hóa sản phẩm, hiệp đồng
tác dụng của hai dược liệu, và nâng cao giá trị
cho cây chè xanh, nghệ vàng.
2. Nguyên vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Nguyên vật liệu và thiết bị
Lá chè xanh và củ nghệ vàng được thu mua
tại Thái Nguyên. Nguyên liệu đạt tiêu chuẩn
DĐVN IV. Chất chuẩn acid gallic (109,8%;
Merck) và curcumin (99,9%; Trung Quốc).
Lactose, glucose, mannitol, PEG 6000, PVP
K30 (đạt tiêu chuẩn USP 42; Trung Quốc);
ethanol 96%, nước cất đạt tiêu chuẩn DĐVN V.
Thiết bị sử dụng trong nghiên cứu gồm cân
phân tích (độ chính xác 0,0001 g) và cân kỹ
thuật (độ chính xác 0,01 g) Satorius, cân xác
định độ ẩm Sartorius, tủ sấy tĩnh Memmert
(Đức), máy thử độ tan rã Electrolab
dissolution tester, máy quang phổ UV-Vis
Hitachi U1900 và các dụng cụ thủy tinh.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chiết xuất
Dược liệu lá chè xanh và củ nghệ vàng sau
khi thu mua được sơ chế và chiết xuất bằng
phương pháp ngâm. Tiến hành đánh giá ảnh
hưởng của nhiệt độ, dung môi, thời gian đến
hiệu suất chiết (dựa trên hàm lượng
polyphenol trong dịch chiết chè xanh và
curcumin trong dịch chiết củ nghệ vàng).
- Phương pháp bào chế hệ phân tán rắn
(HPTR) curcumin [13], [14].
Phương pháp đun chảy: Cân các thành phần
theo công thức. Đun chảy chất mang (PEG
6000). Phối hợp nhanh bột nghệ vàng vào
dung dịch PEG 6000 nóng chảy, khuấy đều,
tiếp tục phối hợp nhanh PVP K30, làm lạnh
nhanh bằng nước đá, đồng thời vẫn tiếp tục
khuấy trộn tới khi hệ đông rắn lại, để ổn định
trong bình hút ẩm 24 giờ. Sản phẩm được
nghiền nhỏ và rây lấy các hạt có kích thước
phù hợp.
- Phương pháp bào chế cốm
Nghiền bột chè xanh và các tá dược, rây để
đạt kích thước hạt (0,25 - 0,8mm). Trộn bột
chè xanh và hệ phân tán rắn curcumin theo
nguyên tắc đồng lượng. Sau đó trộn hỗn hợp
bột với lactose, glucose. Thêm tá dược dính
(ethanol 96%, PVP K30/ethanol %, hồ tinh
bột) tạo khối ẩm, xát hạt qua rây 1 mm. Sấy
hạt ở nhiệt độ 45°C trong khoảng 24 giờ đến
độ ẩm khoảng 5%. Trộn cốm với tá dược trơn
(nếu cần). Đóng gói cốm 3 g.
- Phương pháp đánh giá chất lượng:
+ Đánh giá đặc tính của hạt: Khối lượng riêng
biểu kiến được đánh giá bằng phương pháp
gõ đến thể tích không đổi. Khối lượng riêng
thô dt và khối lượng riêng biểu kiến được tính
theo công thức:
;
Chỉ số Carr (C) được tính theo công thức:
Chỉ số C biểu thị khả năng trơn chảy của bột
và hạt. C càng lớn, độ trơn chảy của bột (hạt)
càng kém:
C ≤ 15: Trơn chảy tốt;
C trong khoảng từ 16 – 20: Trơn chảy tương
đối tốt;
Nguyễn Khắc Tùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 31 - 37
Email: jst@tnu.edu.vn 33
C trong khoảng từ 21 – 25: Có thể trơn chảy;
C ≥ 26: Trơn chảy kém
+ Hình thức: Cảm quan (cốm khô tơi, đồng
đều về kích thước hạt, không có hiện tượng
hút ẩm, không bị mềm và biến màu).
+ Độ ẩm: Phương pháp mất khối lượng do
làm khô trong tủ sấy ở điều kiện nhiệt độ xác
định (phụ lục 9.6 DĐVN IV).
+ Độ đồng đều khối lượng: đánh giá theo
hướng dẫn trong phụ lục 11.3 DĐVN IV.
+ Độ rã: Cho một lượng cốm đóng gói trong
một đơn vị phân liều vào cốc chứa 200 ml
nước ở 65 - 70°C. Cốm được coi là rã hết nếu
hoà tan hoặc phân tán hết trong nước. Thử với
6 gói, chế phẩm đạt yêu cầu phép thử nếu mỗi
gói rã trong vòng 5 phút [15].
+ Thử độ hòa tan: Thử bằng thiết bị thử độ
hòa tan ELECTROLAB sử dụng cánh khuấy
với các thông số: Thiết bị cánh khuấy, tốc độ
quay 100 vòng/phút. Môi trường hòa tan 900
ml nước chứa 0,2% Tween 80. Nhiệt độ môi
trường hòa tan 37 ± 0,5°C. Khối lượng mẫu
thử tương ứng với 5,0 mg curcumin [16].
Cách tiến hành: cho các mẫu thử vào cốc có
mỏ chứa một lượng môi trường thử độ hòa
tan, siêu âm 3-4 giây và chuyển vào cốc chứa
môi trường thử hòa tan. Sau các khoảng thời
gian 10, 20, 30, 40, 50 và 60 phút, lấy khoảng
10 ml dung dịch thử, ly tâm 5 phút với tốc độ
12,000 vòng/phút. Phần dịch trong được định
lượng curcumin bằng phương pháp quang phổ
hấp thụ UV-Vis ở bước sóng 425 nm, sử dụng
mẫu trắng là dung dịch Tween 80 0,2%. Sau
khi đo quang, rót toàn bộ phần cắn và phần
dịch ly tâm vào cốc thử độ hòa tan.
Tính toán kết quả bằng cách so sánh độ hấp thụ
của mẫu thử và mẫu chuẩn (trong đó Cn, Co:
nồng độ dung dịch thử và chuẩn (µg/ml). Dn,
Do: độ hấp thụ của dung dịch thử và chuẩn):
Phần trăm curcumin đã hòa tan tại thời điểm t
được tính theo công thức (trong đó n là nồng
độ curcumin tại thời điểm t (µg/ml). m là
lượng curcumin thử (mg)):
% CUR
+ Định tính curcumin: bột chế phẩm có xuất
hiện huỳnh quang màu vàng tươi khi chiếu
dưới đèn tử ngoại. Chế phẩm sau phản ứng
với thuốc thử có màu xanh và có cực đại hấp
thụ tại vùng bước sóng 755- 765 nm [16].
- Định lượng curcumin trong bột nghệ vàng
bằng quang phổ hấp thụ UV-Vis: cân chính
xác khoảng 10,0 mg bột nghệ vàng, hòa tan
trong 10 ml methanol, thêm dung môi pha
loãng đến nồng độ 5µg/ml. Lọc dung dịch qua
màng lọc kích thước lỗ lọc 0,45 µm. Đo độ
hấp thụ của mẫu chuẩn và mẫu thử tại bước
sóng 425 nm. So sánh với curcumin chuẩn
được tiến hành song song cùng điều kiện [15].
+ Định lượng polyphenol trong bột chè xanh
bằng phương pháp đo quang phổ UV-Vis tiến
hành theo TCVN 9745-1-2013. Chất chuẩn sử
dụng là acid gallic [17].
3. Kết quả nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, lá chè xanh được chiết
xuất bằng phương pháp ngâm nóng, dung môi
nước acid pH 3,0. Củ nghệ vàng được chiết
xuất bằng phương pháp ngâm, dung môi
aceton 70%. Tỷ lệ dược liệu - dung môi là 1 -
10. Thời gian chiết 4 giờ, chiết 2 lần. Sau khi
loại tạp và sấy khô, nghiền sản phẩm thành
bột chè xanh (CX) và nghệ vàng (NV). Kết
quả định lượng CX có chứa 41,0 ± 3,61%
polyphenol (kl/kl), NV có chứa 92,1 ± 2,03%
curcumin (kl/kl).
3.1. Bào chế hệ phân tán rắn
Do bản chất curcumin thành phần chính trong
bột nghệ vàng rất ít tan trong nước. Để cải
thiện khả năng hòa tan, tính thấm và hấp thu
curcumin cần có biện pháp cải thiện độ hòa
tan và tính thấm của nguyên liệu. Trên cơ sở
tham khảo tài liệu [13], nghiên cứu đã bào
chế hệ phân tán rắn (HPTR) với tỷ lệ bột nghệ
vàng: PEG 6000: PVP K30 là 1:2:3. Việc sử
dụng PVP K30 làm chất mang trong HPTR
giúp cải thiện đáng kể khả năng hòa tan của
dược chất ít tan và ổn định trạng thái vật lý
Nguyễn Khắc Tùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 31 - 37
Email: jst@tnu.edu.vn 34
của HPTR. Kết quả sản phẩm HPTR được thể
hiện như hình 1.
Hình 1. Hệ phân tán rắn của curcumin
Xác định độ hòa tan của curcumin trong
HPTR theo phương pháp ghi mục 2.2. Kết
quả cho thấy, sau 30 phút, curcumin đã hòa
tan được khoảng 38,0% (tăng thêm khoảng
15% so với nguyên liệu). Điều này có thể
được giải thích là do phân tử chất các mang
thân nước như PEG 6000 và PVP 30 trong hệ
phân tán rắn khi tiếp xúc với môi trường hòa
tan nhanh chóng tạo ra một vi môi trường
(lớp hấp phụ) bao quanh phân tử dược chất,
làm tăng khả năng thấm ướt của dược chất, do
đó cải thiện đáng kể tốc độ và mức độ hòa tan
curcumin từ HPTR. Hơn nữa, trong quá trình
đun chảy, khoảng cách giữa các phân tử
polyme (PEG và PVP 30 được giãn rộng ra
dưới tác động của nhiệt độ tạo điều kiện cho
các phân tử dược chất phân tán vào trong, tạo
liên kết hydro nội phân tử bền vững. Nhờ thế
mà dược chất chuyển phần lớn từ dạng kết
tinh sang dạng vô định hình có khả năng hòa
tan tốt hơn. Chính những mạch polyme này
đóng vai trò là lớp áo ngăn cách giữa các
phân tử dược chất, hạn chế sự tái kết tập, kết
tinh của các phân tử curcumin trong quá trình
bào chế và bảo quản HPTR.
3.2. Khảo sát ảnh hưởng của tá dược
3.2.1. Khảo sát ảnh hưởng của tá dược dính
Để khảo sát sự ảnh hưởng của tá dược dính,
nghiên cứu cố định khối lượng chè xanh và
HPTR nghệ vàng với tỷ lệ 1: 3,75. Tá dược
độn lactose; tá dược dính khảo sát bao gồm
dung dịch PVP K30 khoảng 5-15% trong
EtOH 50%, dung dịch EtOH 96%, hồ tinh bột
5 - 10%. Các mẫu thực nghiệm được bào chế
bằng phương pháp được trình bày mục 2.2.
Kết quả cho thấy, sản phẩm thu được từ tất cả
các công thức với tá dược dính là dung dịch
PVP K30 trong EtOH 50%, và hồ tinh bột
đều không tạo được khối ẩm đồng nhất, khối
bột dính bết gây khó khăn trong quá trình xát
hạt, hạt cốm không đều. Điều này có thể do
bản chất CX dính bết khi ẩm. Do vậy, các tá
dược dính có hàm lượng nước cao không tạo
được cốm, chỉ có ethanol 96% là có khả năng
tạo cốm và được sử dụng làm tá dược dính
trong các khảo sát tiếp theo.
3.2.2. Khảo sát ảnh hưởng của tá dược độn
Tá dược độn thường dùng trong bào chế
thuốc cốm là các loại bột đường (glucose,
lactose) để kết hợp điều vị cho chế phẩm. Ưu
điểm của lactose và glucose là dễ tan trong
nước, vị dễ chịu, trung tính, ít hút ẩm, dễ phối
hợp được với các loại dược chất. Các công
thức khảo sát tá dược độn được thiết kế như
trong bảng 1.
Bảng 1. Thành phần công thức cốm với các tá dược độn khác nhau
Thành phần
Công thức
CT1 CT2 CT3 CT4 CT5 CT6 CT7 CT8
Bột chè xanh (g) 1 1 1 1 1 1 1 1
HPTR nghệ vàng (g) 3,75 3,75 3,75 3,75 3,75 3,75 3,75 3,75
Lactose (g) 4 8 12 16 - - - -
Glucose (g) - - - - 4 8 12 16
Ethanol 96% (ml) Thêm vừa đủ tạo khối ẩm để xát hạt
Kết quả cho thấy, các mẫu thực nghiệm CT1, CT2, CT3 và CT5 tạo thành khối ẩm dính bết vào
thành cối, không thể tạo cốm. Các công thức còn lại gồm CT4, CT6, CT7 và CT8 có thể tạo cốm.
Tiến hành đánh giá chất lượng sản phẩm theo các chỉ tiêu: hình thức, độ ẩm, độ rã, chỉ số Carr.
Kết quả đánh giá chỉ tiêu chất lượng được thể hiện ở bảng 2.
Nguyễn Khắc Tùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 31 - 37
Email: jst@tnu.edu.vn 35
Bảng 2. Một số chỉ tiêu chất lượng của mẫu thực nghiệm
Chỉ tiêu
Công thức
CT4 CT6 CT7 CT8
Hình thức
Hạt cốm cứng
chắc, vị nhạt, khó
tạo hạt, dễ sấy
khô.
Hạt cốm chắc, vị
ngọt nhẹ, dễ hút
ẩm, dễ sấy khô.
Hạt cốm có vị ngọt
vừa, cốm xốp, dễ
bở, dễ tạo hạt và dễ
sấy khô.
Hạt cốm cứng
chắc, vị ngọt sắc,
khó tạo hạt, khó
sấy khô.
Độ ẩm (%; n=6;
TB± SD)
2,16 ± 0,32 2,01 ± 0,58 1,46 ± 0,28 3,15 ± 0,41
Độ rã (giây) 183 165 141 197
Chỉ số Carr (n=3;
TB ± SD)
22,3 ± 1,24 22,5 ± 1,38 21,1± 1,41 21,8 ± 2,33
Định tính - Tạo dung dịch màu xanh sau phản ứng với thuốc thử Folin-Ciocalteu và dung
dịch có cực đại hấp thụ là 765 nm.
- Chế phẩm phát huỳnh quang màu vàng tươi khi chiếu dưới đèn tử ngoại.
Mẫu thực nghiệm sử dụng tá dược độn lactose tạo cốm chắc, khó tạo hạt đều nhau, độ trơn chảy
kém. Mẫu cốm sử dụng tá dược độn glucose như ở công thức CT7 với tỷ lệ dược chất và tá dược
là 4,75 : 12 cho hạt cốm xốp, độ trơn chảy tốt, thời gian sấy cốm ngắn. Do vậy, nghiên cứu lựa
chọn tá dược độn là glucose và tỷ lệ dược chất với tá dược độn là 4,75 : 12 để tạo sản phẩm có vị
ngọt thanh, cốm xốp, thời gian sấy cốm ngắn.
3.2.3. Khảo sát ảnh hưởng của tá dược trơn
Để cải thiện khả năng trơn chảy của chế phẩm, cần bổ sung tá dược trơn magnesi stearat và talc
với tỷ lệ tá dược như thiết kế trong bảng 3.
Bảng 3. Thiết kế công thức có tỷ lệ tá dược trơn chảy thay đổi
Thành phần
Công thức
CT9 CT10 CT11 CT12 CT13
Bột chè xanh 1 1 1 1 1
HPTR nghệ vàng 3,75 3,75 3,75 3,75 3,75
Glucose (g) 12 12 12 12 12
Magnesi stearat (%) 0,5 1 1 1 2
Talc (%) 1 0,5 1 2 1
Ethanol 96% Thêm vừa đủ tạo khối ẩm để xát hạt
Các mẫu được bào chế theo phương pháp ghi mục 2 và đánh giá chất lượng sản phẩm. Kết quả
được trình bày bảng 4.
Bảng 4. Một số chỉ tiêu chất lượng chế phẩm khi thay đổi tá dược trơn chảy
Công
thức
Hình thức
Chỉ số Carr
(n= 3; TB ± SD)
Độ rã
(giây)
Độ đồng đều khối
lượng (%, n= 20)
CT 9 Cốm không đều, dễ hút ẩm, vị ngọt,
thời gian sấy kéo dài.
22,9 ± 1,16 155 ± 3,8
CT 10 Cốm không đều, dễ hút ẩm, vị ngọt,
thời gian sấy kéo dài.
23,1 ± 1,31 161 ± 4,1
CT 11 Cốm không đều, dễ hút ẩm, vị ngọt,
thời gian sấy kéo dài.
21,5 ± 2,07 139 ± 3,2
CT12 Cốm khá đồng đều, vị ngọt, thời
gian sấy ngắn.
19,8 ± 1,96 140 ± 1,6
CT 13 Cốm khá đồng đều, vị ngọt, thời
gian sấy ngắn.
22,7 ± 1,53 145 ± 4,9
Kết quả cho thấy, tỷ lệ và lượng tá dược trơn chủ yếu ảnh hưởng đến mức độ trơn chảy của khối
bột, tăng tỷ lệ talc trong thành phần công thức dẫn đến độ trơn chảy của cốm tốt hơn. Điều này
Nguyễn Khắc Tùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 31 - 37
Email: jst@tnu.edu.vn 36
do talc có tác dụng làm trơn và điều hòa sự
chảy tốt, ngoài ra talc ít sơ nước nên cũng ít
ảnh hưởng tới thời gian rã của cốm. Trong các
mẫu nghiên cứu, mẫu CT12 (tỷ lệ magnesi
stearat và talc tương ứng là 1% và 2% của khối
lượng cốm) có chỉ số Carr thấp nhất, các chỉ
tiêu về hình thức, đồng đều khối lượng, độ rã,
độ ẩm đều đạt yêu cầu, do vậy được lựa chọn
là tá dược trơn trong nghiên cứu.
4. Kết luận
Từ các kết quả nghiên cứu thu được, nhóm
tác giả rút ra một số kết luận sau:
Bào chế được HPTR nghệ vàng với tỷ lệ bột
nghệ vàng: PEG 6000: PVP K30 là 1:2:3 giúp
tăng khả năng hòa tan của CX NV thêm
khoảng 15% so với nguyên liệu.
Xây dựng được công thức bào chế cốm hỗn
hợp CX, HPTR NV với công thức như sau:
Thành phần Khối lượng
1. Bột chè xanh
2. HPTR nghệ vàng
3. Glucose
4. Magnesi stearat
5. Talc
6. Ethanol 96%
1000 mg
3750 mg
12000 mg
1 % khối lượng cốm
2 % khối lượng cốm
Vừa đủ
Các chỉ tiêu chất lượng của chế phẩm như hình
thức, hàm ẩm, độ rã, độ đồng đều khối lượng
đều đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn DĐVN IV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1]. T. L. Do, Medicinal plants and drugs from
Vietnam. Times Publishing House, 1999, pp.
187- 188.
[2]. B. B. Aggarwal, A. Kumar, and A. C. Bharti,
“Anticancer potential of curcumin: preclinical
and clinical studies,” Anticancer research,
vol. 23, pp. 363-398, 2003.
[3]. P. Anand, C. Sundaram, S. Jhurani, A. B.
Kunnumakkara, and B. B. Aggarwal,
“Curcumin and cancer: an ‘‘old-age” disease
with an ‘‘age-old” solution,” Cancer Lett.,
vol. 267, pp. 133-164, 2008.
[4]. J. J. Johnson, and H. Mukhtar, “Curcumin for
chemoprevention of colon cancer,” Cancer
Letters, vol. 255, pp. 170-181, 2007.
[5]. A. B. Kunnumakkara, S. Guha, S. Krishnan,
P. Diagaradjane, J. Gelovani, and B. B.
Aggarwal, “Curcumin potentiates antitumor
activity of gemcitabine in an orthotopic model
of pancreatic cancer through suppression of
proliferation, angiogenesis, and inhibition of
nuclear factor-kappaB-regulated gene
products,” Cancer Res., vol. 67, pp. 3853-
3861, 2007.
[6]. P. Maiti et al, “Use of curcumin, a natural
polyphenol for targeting molecular pathways
in treating age-related neurodegenerative
diseases,” Int. J. Mol. Sci., vol. 19, p. 1637,
2018.
[7]. G. Xu, G. Ren, X. Xu, H. Yuan, Zh.Wang,
L.Kang, W. Yu, and K.Tian, “Combination of
curcumin and green tea catechins prevents
dimethylhydrazine-induced colon
carcinogenesism,” Food and Chemical
Toxicology, vol. 48, pp. 390-395, 2010.
[8]. A. Khafif, S. P. Schantz, T.-C. Chou, D.
Edelstein, and P. G. Sacks, “Quantitation of
chemopreventive synergism between (2)-
epigallocatechin-3-gallate and curcumin in
normal, premalignant and malignant human
oral epithelial cells,” Carcinogenesis, vol. 19,
pp. 419-424, 1998.
[9]. N. Li, X. X. Chen, J. Liao, G. Y. Yang, S.
Wang, Y. Josephson, C. Han, J. S. Chen, > T.
Huang, and C. S. Yang, “Inhibition of 7,12-
dimethylbenz [a]anthracene (DMBA)–
induced oral carcinogenesis in hamsters by tea
and curcumin,” Carcinogenesis, vol. 23, pp.
1307-1313, 2002.
[10]. N. Khan, and H. Mukhtar, “Multitargeted
therapy of cancer by green tea polyphenols,”
Cancer Letters, vol. 269, pp. 269-280, 2008.
[11]. T. J. Somers-Edgar, M. J. Scandlyn, E. C.
Stuart, M. J. Le Nedelec, S. P. Valentine, and
R. J. Rosengren, “The combination of
epigallocatechin gallate and curcumin
suppresses ERa-breast cancer cell growth in
vitro and in vivo,” Int. J. Cancer, vol. 122, pp.
1966-1971, 2008.
[12]. A. P. Pandit, S. R. Joshi, P. S. Dalal, and V.
C. Patole, “Curcumin as a permeability
enhancer enhanced the antihyperlipidemic
activity of dietary green tea extract,” BMC
Complementary and Alternative Medicine,
vol. 19, no. 1, p. 129, 2019.
[13]. T. T. D. Nguyen, and T. X. Dam,
"Formulation of a solid dispersion system for
curcumin by melt-mixing technique,"
Pharmaceutical journal, vol. 56, no. 479, pp.
67-71, 2016.
[14]. M. K. Modasiya, and V. M. Patel, “Studies
on solubility of curcumin,” Int. J. of Pharm.
Nguyễn Khắc Tùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 31 - 37
Email: jst@tnu.edu.vn 37
& Life Sci (IJPLS), vol. 3, no. 3, pp. 1490-
1497, 2012.
[15]. Ministry of Health, Vietnamese.
Pharmacopoeia IV. Medical Publishing
House, 2009.
[16]. T. H. A. Duong, “Preparation of
nanoparticles to improve the oral
bioavailability of curcumin,” Doctoral
Dissertation in pharmacy, Hanoi University of
Pharmacy, 2017.
[17]. Determination of substances characteristic
of green and blck tea. Part 1: Content of total
polyphenols in tea. Colorimetric method using
Folin-Ciocalteu reagent, ISO 14502-1, 2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_bao_che_com_chua_chat_chiet_tu_che_xanh_va_nghe_v.pdf