Nghiên cứu bệnh chứng các yếu tố nguy cơ thừa cân, béo phì của học sinh mẫu giáo từ 4 - 6 tuổi

NGHIÊN CỨU BỆNH CHỨNG CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ THỪA CÂN, BÉO PHÌ CỦA HỌC SINH MẪU GIÁO TỪ 4-6 TUỔI TÓM TẮT Đặt vấn đề: Béo phì trẻ em đang là vấn đề sức khoẻ cộng đồng mới nảy sinh tại các thành phố lớn. Xác định các yếu tố nguy cơ và mức độ tác động của các yếu tố này là cần thiết. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định các yếu tố nguy cơ và đánh giá mối liên quan của các yếu tố nguy cơ này với tình trạng thừa cân, béo phì ở học sinh mẫu giáo từ 4- 6 tuổi tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu bệnh chứng, có 198 trẻ béo phì và 198 trẻ nhóm chứng được chọn cùng trường cùng lớp với trẻ bệnh được đưa vào nghiên cứu. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy thói quen ăn uống nhanh và thời gian hoạt động tĩnh tại cao là các yếu tố nguy cơ với tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ 4-6 tuổi trong các trường mẫu giáo mầm non. Trong nhà trường trẻ thừa cân có thói quen ăn nhanh hơn nhóm chứng 2,7 lần và tại nhà trẻ thừa cân háu ăn hơn nhóm chứng 5,3 lần. Trẻ thừa cân thích ăn chất béo gấp 2,3 lần so với trẻ bình thường. Trẻ thừa cân có thời gian hoạt động tĩnh tại trung bình (xem ti vi, chơi vi tính, học tập) là 178 phút/ngày cao hơn so với trẻ nhóm chứng (156 phút/ngày). Kết luận: Chương trình can thiệp tại trường học là cần thiết nhằm tránh sự gia tăng tỉ lệ thừa cân béo phì ở trẻ em trong các trường mẫu giáo mầm non tại các thành phố lớn, đang có khuynh hướng tăng nhanh trong thời gian gần đây.

pdf15 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2739 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu bệnh chứng các yếu tố nguy cơ thừa cân, béo phì của học sinh mẫu giáo từ 4 - 6 tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU BỆNH CHỨNG CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ THỪA CÂN, BÉO PHÌ CỦA HỌC SINH MẪU GIÁO TỪ 4-6 TUỔI TÓM TẮT Đặt vấn đề: Béo phì trẻ em đang là vấn đề sức khoẻ cộng đồng mới nảy sinh tại các thành phố lớn. Xác định các yếu tố nguy cơ và mức độ tác động của các yếu tố này là cần thiết. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định các yếu tố nguy cơ và đánh giá mối liên quan của các yếu tố nguy cơ này với tình trạng thừa cân, béo phì ở học sinh mẫu giáo từ 4- 6 tuổi tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu bệnh chứng, có 198 trẻ béo phì và 198 trẻ nhóm chứng được chọn cùng trường cùng lớp với trẻ bệnh được đưa vào nghiên cứu. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy thói quen ăn uống nhanh và thời gian hoạt động tĩnh tại cao là các yếu tố nguy cơ với tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ 4-6 tuổi trong các trường mẫu giáo mầm non. Trong nhà trường trẻ thừa cân có thói quen ăn nhanh hơn nhóm chứng 2,7 lần và tại nhà trẻ thừa cân háu ăn hơn nhóm chứng 5,3 lần. Trẻ thừa cân thích ăn chất béo gấp 2,3 lần so với trẻ bình thường. Trẻ thừa cân có thời gian hoạt động tĩnh tại trung bình (xem ti vi, chơi vi tính, học tập) là 178 phút/ngày cao hơn so với trẻ nhóm chứng (156 phút/ngày). Kết luận: Chương trình can thiệp tại trường học là cần thiết nhằm tránh sự gia tăng tỉ lệ thừa cân béo phì ở trẻ em trong các trường mẫu giáo mầm non tại các thành phố lớn, đang có khuynh hướng tăng nhanh trong thời gian gần đây. ABSTRACT Introduction: Overweight and obesity in kindergarten children is an emerging health issue in big cities recently. Determine risk factors of the disease is necessary. Objectives: Determine risk factors and their relation with obesity and overweight in kindergarten children from 4 to 6 years old in district 5, Ho Chi Minh city. Methodology: Case-control study, recruiting 198 overweight children and 198 controls in the same kindergarten and the same classes. Results: Fast eating habit and longer sedentary time are main risk factors for overweight in kindergarten children 4 to 6 years old. In school, overweight children have fast eating habit 2.7 times higher than controls; at home, overweight children have voracious appetite 5.3 times more than controls. Cases are more likely to eat fatty food 2.3 times than controls. Cases have longer sedentary time every day than controls (178 minutes/day vs 156 minutes/day). Conclusion: Intervention to prevent overweight in kindergarten is necessary to reduce the fastly increase in proportion of overweight in kindergarten children in big cities. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới trên toàn thế giới có khoảng 1 tỉ người thừa cân, trong đó ít nhất 300 triệu người bị béo phì. Sự gia tăng số người béo phì từ 200 triệu năm 1995 lên 300 triệu năm 2000 và 400 triệu năm 2005(9) cho thấy đây là một gánh nặng y tế trong tương lai. Thừa cân, béo phì là một nguyên nhân quan trọng của các bệnh không lây và ngày càng gia tăng cùng với quá trình toàn cầu hóa, phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Thừa cân, béo phì có nguy cơ trên các bệnh như tiểu đường type 2, bệnh lý tim mạch, đột quị, và một số ung thư tại túi mật, tuyến vú, đại tràng, tiền liệt tuyến và thận(6). Riêng trẻ em, theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới 22 triệu trẻ dưới 5 tuổi đang bị thừa cân trên thế giới. Ở Thái lan, tỉ lệ béo phì ở trẻ 5 - 12 tuổi tăng từ 12,2% đến 15,6% trong 2 năm(6). Tác giả Hà Huy Khôi, Viện Dinh dưỡng, nhận xét ở Nhật tỉ lệ trẻ em học sinh thừa cân tăng từ 5% lên 10% trong 20 năm từ 1973 đến 1993. Nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy tỉ lệ béo phì ở trẻ tại các thành phố lớn là khá cao. Năm 2000 điều tra tại các thành phố lớn cho thấy tỉ lệ thừa cân ở lứa tuổi học sinh tiểu học Hà nội là 10%, thành phố Hồ Chí Minh là 12%. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, điều tra của Nguyễn Thị Kim Hưng qua các năm cho thấy tỉ lệ thừa cân 4-5 tuổi vào các năm 1995, 2000, 2001 tương ứng là 2,5%; 3,1% và 3,3%(5). Điều tra năm 2006 tại thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Huỳnh Thị Thu Diệu cho thấy ở lứa tuổi tiền học đường tỉ lệ thừa cân là 20,5% và béo phì là 16,3%(3). Các yếu tố nguy cơ của thừa cân, béo phì được ghi nhận là: thời gian xem tivi nhiều (trên 2 giờ/ngày), mức hoạt động thể chất thấp, tính thích ăn vặt, thích ăn các loại thực phẩm nhiều năng lượng như thức ăn nhanh, nước ngọt, có tiền sử cha mẹ béo phì. Mục tiêu nghiên cứu Xác định các yếu tố nguy cơ và đánh giá mối liên quan của các yếu tố nguy cơ như thói quen và sở thích ăn uống, hoạt động và nghỉ ngơi của trẻ, kiến thức về dinh dưỡng, thái độ đối với tình trạng béo phì, thừa cân của cha mẹ trẻ với tình trạng thừa cân, béo phì ở trẻ. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Ðối tượng Học sinh mẫu giáo từ 4-6 tuổi tại quận 5 thành phố Hồ Chí Minh. Cha mẹ, người chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng Cỡ mẫu và cách chọn mẫu Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu bệnh chứng: Trong đó, n = cỡ mẫu nghiên cứu cho mỗi nhóm = 0,05 (độ tin cậy 95%), z (-1/2) = 1,96 = 0,2 (xác suất sai lầm loại 2), z(1- ) = 0,84 Tỉ số bệnh chứng lựa chọn là 1:1 P2 = ước lượng tỉ lệ tiếp xúc yếu tố nguy cơ nhóm chứng P2 = 9% (P2 = 0,09) P1 = ước lượng tỉ lệ tiếp xúc yếu tố nguy cơ nhóm bệnh P1 = 18% (P1 = 0,18) Ước lượng tỉ số số chênh OR = 2,5 Số mẫu phải khảo sát, n = 176, cho mỗi nhóm. Kích thước cả hai nhóm: 2 x 176 = 352. Trên thực tế, khảo sát 2 x 198 = 396 trẻ. Tiêu chuẩn đánh giá Theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (2005), với trẻ dưới 9 tuổi chỉ tiêu đánh giá thừa cân trẻ em là cân nặng/chiều cao (CN/CC) so sánh với quần thể tham khảo WHO 2005. > + 2 SD đến + 3SD : thừa cân độ 1 > + 3 SD đến + 4 SD : thừa cân độ 2 > + 4 SD : thừa cân độ 3. Thừa cân độ 2 và thừa cân độ 3 được xem như béo phì. Nhập và xử lý số liệu Kết quả nghiên cứu sẽ được nhập và xử lý trên các phần mềm: EpiData 3.0, SPSS 10.0, Stata 8.0. Giá trị p<0,05 được xem như có ý nghĩa khác biệt thống kê. KẾT QUẢ Bảng 1: Phân bố đặc điểm dân số học của trẻ Nhóm bệnh (n,%) Nhóm chứng (n,%) Tổng (n,%) 4 tuổi 45 (22,7%) 40 (20,2%) 85 (21,5%) 5 tuổi 55 (27,8%) 58 (29,3%) 113 (28,5%) Tuổi 6 tuổi 98 (49,5%) 100 (50,5%) 198 (50,0%) Nam 150 (75,8%) 140 (70,7%) 290 (73,2%) Giới Nữ 48 (24,2%) 58 (29,3%) 106 (26,8%) Dân Kinh 158 150 308 (79,8%) (75,8%) (77,8%) Hoa 39 (19,7%) 48 (24,2%) 87 (22,0%) tộc Khác 1 (0,5%) 0 (0,0%) 1 (0,3%) Không có sự khác biệt về tuổi, giới, dân tộc giữa nhóm bệnh và nhóm chứng. Nam chiếm tỉ lệ (73,2%) cao hơn nữ (26,8%), nhóm 6 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất (50,0%). Bảng 2: Thói quen ăn uống của trẻ Nhóm bệnh (n,%) Nhóm chứng (n,%) OR p Tại trường: trẻ háu ăn Có 90 27 5,3 0,000 (45,5%) (13,6%) Không 108 (54,5%) 171 (86,4%) (3,2 - 9,0) Tại nhà: trẻ ăn nhanh Có 87 (44,2%) 43 (22,3%) Không 110 (55,8%) 150 (77,7%) 2,8 (1,7 - 4,4)) 0,000 Thích ăn chất béo Có 69 (42,1%) 37 (24,3%) Không 95 (57,9%) 115 (75,7%) 2,3 (1,4 - 3,8) 0,0009 Thích ăn ngọt Có 84 (50,3%) 101 (58,1%) Không 83 (49,7%) 73 (41,9%) 0,7 (0,5 - 1,1) 0,151 Nhóm trẻ thừa cân có khuynh hướng ăn nhanh và háu ăn hơn nhóm chứng từ 2,7 lần đến 5,3 lần trong cả điều kiện ăn trong nhà trường và ăn tại nhà (p < 0,001). Trẻ thừa cân thích ăn chất béo gấp 2,3 (KTC 95%: 1,4-3,8) lần so với trẻ bình thường (p < 0,05). Bảng 3: Thời gian hoạt động động và tĩnh tại của trẻ (T-test) Nhóm bệnh (phút) Nhóm chứng (phút) p Thời gian hoạt 114,3 110,9 0,741 động động của trẻ Thời gian hoạt động tĩnh tại của trẻ 178,0 155,6 0,047 Thời gian hoạt động động không khác nhau giữa hai nhóm trẻ. Trẻ thừa cân có thời gian hoạt động tĩnh tại trung bình (xem ti vi, chơi vi tính, học tập) cao hơn so với trẻ nhóm chứng. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Phân tích kiến thức về dinh dưỡng phòng chống béo phì của bà mẹ. Trong các câu hỏi về dinh dưỡng phòng chống béo phì, khi bà mẹ trả lời đúng 50% số câu được xem là có kiến thức đúng về dinh dưỡng. Bảng 4: Kiến thức về dinh dưỡng của mẹ Nhóm bệnh (n,%) Nhóm chứng (n,%) OR p Bà mẹ có KT đúng về dinh dưỡng Có 181 (91,4%) 165 (83,3%) Không 17 (9,6%) 33 (16,7%) 2,1 (1,1 - 4,2) 0,015 Bà mẹ có con thừa cân có kiến thức đúng về dinh dưỡng phòng chống béo phì nhiều gấp 2,1 lần (KTC 95%: 1,1-4,2) so với bà mẹ không có con thừa cân. Điều này cho thấy bà mẹ có con thừa cân quan tâm nhiều hơn đến các thông tin phòng ngừa béo phì cho trẻ. Bảng 5: Thái độ về tình trạng thừa cân của trẻ Nhóm bệnh (n,%) Nhóm chứng (n,%) OR p Bà mẹ có thái độ đúng khi cho rằng mập/béo không phải là đẹp hơn Nhóm bệnh (n,%) Nhóm chứng (n,%) OR p Có 79 (58,1%) 68 (54,0%) Không 57 (41,9%) 58 (46,0%) 1,2 (0,7 – 2,0) 0,5020 Bà mẹ có thái độ đúng khi cho rằng mập/béo không phải là khoẻ mạnh Có 134 (90,5%) 117 (84,8%) Không 14 (9,5%) 21 (15,2%) 1,7 (0,8 - 3,8) 0,1376 Không ghi nhận sự khác biệt về thái độ của bà mẹ về tình trạng thừa cân của trẻ. BÀN LUẬN Nghiên cứu cho thấy thói quen ăn uống của trẻ, trong đó thói quen ăn nhanh, háu ăn có mối liên quan với tình trạng thừa cân của trẻ. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả Trương Công Hoà ở trẻ 2-6 tuổi tại các trường mầm non quận Gò Vấp thanh phố Hồ Chí Minh năm 2005. Ngoài ra, còn thấy trẻ thừa cân có khuynh hướng thích ăn chất béo cao hơn so với trẻ bình thường. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kim Hưng khi điều tra về tình trạng thừa cân và các yếu tố liên quan năm 2003 cho học sinh 6-11 tuổi tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, không phát hiện sự ưa thích của trẻ thừa cân béo phì với chất ngọt. Nghiên cứu này cũng không phát hiện sự khác biệt về thái độ về tình trạng béo mập của trẻ giữa hai nhóm bà mẹ có con thừa cân và có con bình thưòng. Trong khi đó, nghiên cứu của tác giả Nguyến Thị Kim Hưng năm 2003 cho thấy tỉ lệ bà mẹ có con thừa cân đồng ý “trẻ béo mập là tốt” cao hơn so với bà mẹ có con không thừa cân (tương ứng là 16,3% và 12,2%). KẾT LUẬN Nghiên cứu bệnh chứng này cho thấy thói quen ăn uống của trẻ có liên quan đến tình trạng thừa cân của trẻ. Nhóm trẻ thừa cân có thói quen ăn nhanh hơn nhóm chứng 2,7 lần trong điều kiện ăn trong nhà trường. Nhóm trẻ thừa cân háu ăn hơn nhóm chứng 5,3 lần khi ăn tại nhà. Trẻ thừa cân thích ăn chất béo gấp 2,3 lần so với trẻ bình thường. Trẻ thừa cân có thời gian hoạt động tĩnh tại trung bình (xem ti vi, chơi vi tính, học tập) cao hơn so với trẻ nhóm chứng. Thói quen ăn nhanh và hoạt động tĩnh tại nhiều là yếu tố nguy cơ quan trọng cho trẻ thừa cân và cần có biện pháp can thiệp phù hợp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfa2.PDF
Tài liệu liên quan