Trong các thí nghiệm về cường độ bám dính và
độ xuyên nước, sự ảnh hưởng của cát (mẫu M2 và
M3) và tro trấu (mẫu M4 và M5) so với mẫu cơ bản
M1 không rõ ràng, chứng tỏ vai trò bám dính và
chống thấm chủ yếu do xi măng và polystyren đảm
nhiệm, cát và tro trấu chủ yếu đóng vai trò như chất
độn. Tuy nhiên, sự khác nhau về thành phần dẫn
đến giá thành sản phẩm khác nhau. Do vậy, khi áp
dụng vật liệu chống thấm này cho các công trình,
tùy thuộc vào điều kiện thực tế và nguồn cung cấp
vật liệu để lựa chọn thành phần phù hợp
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 1075 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chế tạo vật liệu chống thấm từ polystyren tái chế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
44 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VẬT LIỆU CHỐNG THẤM 
TỪ POLYSTYREN TÁI CHẾ 
TS. NGÔ SĨ HUY, ThS. LÊ SỸ CHÍNH, SV. LÊ VĂN TRƯỜNG 
Trường Đại học Hồng Đức 
Tóm tắt: Bài báo nghiên cứu chế tạo vật liệu 
chống thấm sử dụng polystyren từ rác thải trong 
công nghiệp và sinh hoạt. Các thành phần cấu tạo 
nên vật liệu chống thấm bao gồm: polystyren, xi 
măng, cát, tro trấu và natri silicat, là các vật liệu 
thông dụng và phổ biến ở Việt Nam. Quy trình chế 
tạo và thi công vật liệu đơn giản. Kết quả thí nghiệm 
cho thấy, vật liệu chống thấm từ polystyren tái chế 
thỏa mãn các yêu cầu kỹ thuật về cường độ bám 
dính và độ xuyên nước theo tiêu chuẩn Việt Nam và 
Châu Âu. 
Từ khóa: Vật liệu chống thấm, polystyrene tái 
chế, cường độ bám dính, độ xuyên nước. 
1. Đặt vấn đề 
Cùng với việc xây dựng các công trình, việc bảo 
vệ chúng trước sự xâm thực của môi trường (nước 
mưa, hơi ẩm, ánh sáng, nhiệt độ, hóa chất ăn 
mòn,...) là rất cần thiết. Bởi sự xâm thực làm suy 
giảm chất lượng và tuổi thọ các công trình. Đặc biệt 
trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam, lượng 
mưa hàng năm nhiều và độ ẩm cao là nguyên nhân 
các công trình dễ bị nước xâm thực. Vì vậy việc 
chống thấm, bảo vệ công trình khỏi sự xâm thực 
của nước, luôn được tính đến ngay từ khi thiết kế 
và thi công các công trình. Hiện nay, thị trường vật 
liệu chống thấm khá đa dạng với hơn 100 loại sản 
phẩm khác nhau, tuy nhiên chủ yếu nhập khẩu từ 
nước ngoài với giá thành cao làm cho chi phí chống 
thấm các công trình tăng cao. 
Ở trong nước, Nguyễn Quang Phú và Phạm 
Văn Chiến (2013) đã nghiên cứu lựa chọn vật liệu 
và công nghệ để sản xuất sơn chống thấm thẩm 
thấu kết tinh gốc xi măng [1]. Sơn được chế tạo có 
độ bám dính với bề mặt bê tông và độ chống thấm 
cao, chất lượng có thể so sánh với sơn cùng loại 
nhập khẩu. Sau 10 năm nghiên cứu, khoa Công 
nghệ Hóa học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội 
đã công bố chế tạo thành công vật liệu phủ chống 
thấm phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió 
mùa Việt Nam. Phạm Thế Trình cùng các cộng sự 
công bố đã nghiên cứu thành công việc lựa chọn 
các lớp phủ để xây dựng bộ vật liệu chống thấm 
bền hóa. Tuy nhiên các kết quả nghiên cứu của 
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và Phạm Thế 
Trình chưa được công bố trên một tạp chí khoa học 
chính thống nào, mà tồn tại dưới dạng thông tin sản 
phẩm thương mại. 
Các nghiên cứu trong nước về vật liệu chống 
thấm còn ít và hạn chế. Trong khi các nghiên cứu 
ngoài nước về vật liệu chống thấm ít được công bố 
hoặc công bố hạn chế, do họ giữ bí mật bản quyền 
công nghệ để khai thác thương mại. Bài báo này 
nghiên cứu sử dụng polystyren tái chế, là rác thải 
trong công nghiệp và sinh hoạt, để chế tạo vật liệu 
chống thấm. Vật liệu chống thấm trong nghiên cứu 
này có thể giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn vật 
liệu nhập khẩu hoặc chuyển giao công nghệ sản 
xuất đắt đỏ của nước ngoài. Mặt khác có thể sử 
dụng nguồn nguyên liệu polystyren tái chế, là rác 
thác trong công nghiệp và sinh hoạt để giảm giá 
thành, tăng hiệu quả kinh tế và góp phần bảo vệ 
môi trường. 
2. Vật liệu và phương pháp thí nghiệm 
2.1. Vật liệu 
2.1.1. Polystyren 
Polystyren là vật liệu nhẹ, có tính điện môi tốt, 
bền với hóa chất và đặc biệt chịu nước tốt. Hàng 
năm khối lượng lớn polystyren đã qua sử dụng 
được loại bỏ như những rác thải trong công nghiệp 
và sinh hoạt. Chính vì khả năng chịu nước tốt nên 
polystyren được sử dụng là nhân tố chính của vật 
liệu chống thấm trong nghiên cứu này. Polystyren 
được thu gom từ rác thải, sau đó rửa sạch, sấy khô, 
và sử dụng một lượng xăng vừa đủ để hòa tan 
chúng thành một dạng keo lỏng có độ dẻo lớn. 
2.1.2. Xi măng 
Xi măng sử dụng trong nghiên cứu này là xi 
măng Nghi Sơn PC40, có khối lượng riêng 3,12 
tấn/m3, thành phần hóa học như trong bảng 1. Xi 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 45 
măng có vai trò là chất kết dính và tăng cường độ 
bám dính của vật liệu chống thấm. 
2.1.3. Tro trấu 
Trấu là phế phẩm có khối lượng rất lớn trong 
sản xuất nông nghiệp. Khi đốt trấu ở nhiệt độ thích 
hợp sẽ thu được tro trấu có độ xốp lớn với hàm 
lượng SiO2 vô định hình cao nên tro trấu có độ hoạt 
tính puzơlan rất cao. Theo nghiên cứu [2], khi tỷ lệ 
nước so với chất kết dính nhỏ hơn 0,3, bê tông tro 
trấu không bị thấm sau 14 ngày dưới áp suất nước 
27,5 atm. Do kích thước hạt trung bình nhỏ hơn xi 
măng, tỷ lệ diện tích bề mặt lớn nên tro trấu làm 
giảm đáng kể độ rỗng mao quản trong bê tông hoặc 
bịt kín các mao quản, làm giảm hệ số thấm và tăng 
cường độ cho bê tông. Trong nghiên cứu này, tro 
trấu được sử dụng để tăng cường độ, chống thấm, 
đồng thời cũng đóng vai trò thay thế cát như chất 
độn. Trấu được cho vào lò nung ở nhiệt độ 850oC 
trong khoảng (3÷6) giờ đến khối lượng không đổi, 
sau đó sàng qua rây 0,15 mm để sử dụng. Thành 
phần hóa học của tro trấu như trong bảng 1. 
Bảng 1. Thành phần hóa học của xi măng và tro trấu 
Thành phần SiO2 Al2O3 Fe2O3 CaO MgO Lượng mất khi nung 
Hàm lượng (%) Xi măng 22,38 5,31 4,03 55,93 2,80 1,98 Tro trấu 89,74 0,96 0,52 1,96 1,41 0,33 
2.1.4. Cát 
Cát được sử dụng để làm cốt liệu thô, tăng độ 
cứng cho vật liệu, tham gia vào quá trình thủy hóa 
với xi măng, tạo khả năng liên kết giữa các lớp màng 
polystyren, tạo bề mặt nhám cho vật liệu dễ liên kết 
với các vật liệu khác tại vị trí chống thấm, và làm chất 
độn do giá thành rẻ. Cát được rửa sạch để loại bỏ 
bùn đất, chất cặn bẩn sau đó sấy khô đến khối lượng 
không đổi (khoảng 6 giờ ở nhiệt độ 105÷110oC). Sau 
đó sàng qua bộ rây sàng để lấy các hạt có kích cỡ 
mịn trong khoảng (0,15÷0,25) mm. 
2.1.5. Natri silicat 
Natri Silicat hay còn được gọi là thủy tinh lỏng 
có độ nhớt cao nên được sử dụng để tăng độ linh 
hoạt, tăng khả năng đông kết nhanh và tăng khả 
năng chịu nhiệt cho vật liệu. 
Các thành phần dùng để chế tạo vật liệu chống 
thấm trong nghiên cứu này đều rất phổ biến ở Việt 
Nam. Đặc biệt polystyren tái chế và tro trấu là các 
phế thải trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp 
và sinh hoạt. Nghiên cứu sử dụng các loại vật liệu 
này còn góp phần bảo vệ môi trường và sử dụng 
hiệu quả các nguồn tài nguyên. 
2.2. Mẫu thí nghiệm 
Các mẫu thí nghiệm được thử với nhiều tỷ lệ 
khối lượng các thành phần khác nhau để tìm ra tỷ lệ 
tối ưu nhất. Bài báo này trình bày 5 mẫu thí nghiệm 
chính có tỷ lệ như bảng 2. 
Bảng 2. Tỷ lệ khối lượng các thành phần trong các mẫu thí nghiệm 
Tên mẫu 
Tỷ lệ khối lượng 
Natri Silicat Xi măng Polystyren Cát mịn Tro trấu 
M1 1 2 2 0 0 
M2 1 2 6 4 0 
M3 1 2 4 4 0 
M4 1 2 10 0 4 
M5 1 2 8 0 2 
Mẫu M1 nghiên cứu sự kết hợp giữa ba thành 
phần chính gồm xi măng, polystyren và natri silicat 
được gọi là mẫu cơ bản. Mẫu M2 và M3 có thêm 
thành phần cát mịn so với mẫu cơ bản để xem xét sự 
kết hợp của cát trong vật liệu đang nghiên cứu. Mẫu 
M4 và M5 thay thế cát mịn trong các mẫu M2 và M3 
bằng tro trấu. Khi thêm vào cát mịn hoặc tro trấu, tỷ lệ 
khối lượng các thành phần được điều chỉnh để vật liệu 
có độ linh động cao và dễ thi công. Chú ý rằng tính dễ 
thi công và khả năng chống thấm của vật liệu là do 
polystyren, trong khi cường độ bám dính của vật liệu 
do xi măng tạo ra. Nếu hàm lượng polystyren thấp, vật 
liệu khó thi công và khả năng chống thấm kém. Nếu 
hàm lượng polystyren cao, cường độ bám dính của 
vật liệu thấp. Vì vậy tỷ lệ xi măng so với polystyren 
không nên nhỏ hơn 1 và không lớn hơn 5. 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
46 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 
Quy trình chế tạo vật liệu chống thấm như sau: 
Các vật liệu đầu vào được xử lý ban đầu như trên, 
sau đó cho các vật liệu dạng thô và khô vào trước, 
polystyren cho sau cùng. Trộn đều bằng đũa thủy 
tinh từ một đến ba phút cho đến khi các nguyên liệu 
hòa đều vào nhau. Sử dụng dao sắt hoặc bay để thi 
công tương tự như trát vữa hồ xi măng với lớp dày 
khoảng (1÷2) mm. 
2.3. Phương pháp thí nghiệm 
Các thông số kỹ thuật của vật liệu chống thấm 
được xác định theo tiêu chuẩn Châu Âu BS EN 
14891-2012 [3] và phải thỏa mãn Quy chuẩn kỹ 
thuật quốc gia QCVN 16-2014/BXD về sản phẩm, 
hàng hóa vật liệu xây dựng [4], bao gồm: Cường độ 
bám dính, cường độ bám dính sau khi ngâm nước, 
cường độ bám dính sau lão hóa nhiệt, cường độ 
bám dính sau khi kết hợp lão hóa nhiệt và ngâm 
nước, và độ xuyên nước. Tất cả các thí nghiệm 
trong bài báo này được thực hiện tại Xưởng thực 
hành - Khoa Kỹ thuật công nghệ, trường Đại học 
Hồng Đức. 
2.3.1. Cường độ bám dính 
Nguyên tắc xác định cường độ bám dính chính 
là xác định lực kéo đứt lớn nhất vuông góc với bề 
mặt bám dính của vật liệu trên nền thử. Cường độ 
bám dính của vật liệu là tỷ số giữa lực kéo đứt và 
diện tích mẫu thử. Các mẫu thí nghiệm xác định 
cường độ bám dính được thể hiện như hình 1. Các 
mẫu bê tông hình trụ đường kính 20 mm, cao 
(30÷50) mm được dính kết với nhau bởi lớp vật liệu 
chống thấm đang nghiên cứu. Hình 2 mô tả thí 
nghiệm xác định lực kéo đứt lớn nhất. Mẫu bê tông 
thử được buộc chặt bởi các dây thép, sau đó gia tải 
từ từ bằng cách treo các quả nặng bằng sắt có khối 
lượng tăng dần từ 0,125 kg đến 5,1 kg cho tới khi 
hai phần của mẫu thử bị đứt rời tại vị trí liên kết bởi 
lớp vật liệu chống thấm. Các mẫu được thí nghiệm 
ở điều kiện thường, sau khi ngâm nước, sau khi lão 
hóa nhiệt ở 7 và 14 ngày, và sau khi kết hợp lão 
hóa nhiệt 7 ngày và ngâm nước 7 ngày. Mỗi lần thí 
nghiệm với 3 mẫu thử, lấy giá trị trung bình. Hình 
ảnh mẫu ngâm nước và mẫu trong lò sấy ở nhiệt độ 
70oC ± 3oC được thể hiện như hình 3. 
(a) (b) 
Hình 1. Mẫu thử cường độ bám dính 
(a) (b) 
Hình 2. Thí nghiệm xác định cường độ bám dính 
(a) (b) 
Hình 3. a) Mẫu ngâm nước ; b) Mẫu trong lò sấy 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 47 
2.3.2. Độ xuyên nước 
Độ xuyên nước được đánh giá bằng khoảng 
thời gian từ lúc bắt đầu thử tới thời điểm xuất hiện 
vết thấm nước ở mặt dưới của tấm thử, được xác 
định theo TCVN 6557-2000 [5], tương tự tiêu chuẩn 
BS EN 14891-2012 [3]. Mỗi mẫu vật liệu chống 
thấm được quét lên hai tấm bìa cát tông có kích 
thước 100 100 5 (mm) như hình 4(a) với chiều 
dày tương ứng là 1 mm và 2 mm. Khi vật liệu chống 
thấm đạt trạng thái khô hoàn toàn, đặt tấm thử theo 
phương nằm ngang, mặt có lớp chống thấm ở phía 
trên. Dùng keo epoxy để gắn chặt ống nước có 
đường kính trong 25 mm, cao 150 mm theo phương 
thẳng đứng trên bề mặt vật liệu như hình 4(b). Đổ 
nước đầy vào ống thử và bảo đảm mực nước này 
trong suốt quá trình thử. 
(a) (b) 
Hình 4. Thí nghiệm xuyên nước 
3. Kết quả thí nghiệm và thảo luận 
3.1. Cường độ bám dính 
Kết quả thí nghiệm cường độ bám dính ở 7 và 
14 ngày tuổi được thể hiện lần lượt trong bảng 3 và 
bảng 4. Tất cả các mẫu thí nghiệm đều cho cường 
độ bám dính lớn hơn 0,5 MPa thỏa mãn theo tiêu 
chuẩn Châu Âu BS EN 14891-2012 [3] và Quy 
chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 16-2014/BXD [4]. 
Các mẫu bị lão hóa nhiệt có cường độ bám dính tốt 
nhất, sau đó đến các mẫu ở điều kiện thường, các 
mẫu ngâm nước có cường độ thấp nhất, tuy nhiên 
vẫn đảm bảo chỉ tiêu kỹ thuật như nêu trên. Tuổi 
của mẫu thí nghiệm càng cao thì cường độ bám 
dính càng tốt, bởi vì vật liệu nghiên cứu sử dụng vật 
liệu gốc xi măng nên cường độ của mẫu phát triển 
tương tự như cường độ của vữa bê tông. Điều đó 
cũng lý giải tại sao cường độ mẫu chịu nhiệt cao 
hơn các mẫu ở điều kiện thường và điều kiện ngâm 
nước (do thuộc tính thủy hóa của xi măng tốt khi 
nhiệt độ cao). Các mẫu ngâm nước có cường độ 
thấp hơn các mẫu ở điều kiện thường, vì nước xâm 
thực sẽ làm yếu các liên kết của vật liệu. Chú ý rằng 
cường độ bám dính thực tế của các mẫu chịu lão 
hóa nhiệt ở 14 ngày lớn hơn giá trị ghi trong bảng, 
do mẫu thử bị đứt ở phần bê tông, phần liên kết bởi 
vật liệu chống thấm không bị phá hoại. Điều này 
chứng tỏ cường độ bám dính của các mẫu vật liệu 
sau khi lão hóa nhiệt ở 14 ngày cao hơn cường độ 
chịu kéo của bê tông. 
Khi mẫu chịu kết hợp lão hóa nhiệt và ngâm 
nước, cường độ bám dính cao hơn các mẫu ở điều 
kiện bình thường. Khi chịu nhiệt trước, tốc độ ninh 
kết của xi măng tăng nhanh kết hợp với polystyren 
tạo nên một lớp vật liệu có tính đặc chắc của bê 
tông (do xi măng tạo ra) và cũng như một màng 
chống thấm (do polystyren tạo ra). Do vậy khi ngâm 
nước, lớp này giúp ngăn ngừa nước xâm thực vào 
vật liệu, vì vậy cường độ bám dính của các mẫu này 
không bị ảnh hưởng khi ngâm nước. 
Bảng 3. Cường độ bám dính ở 7 ngày tuổi 
Mẫu 
Cường độ bám dính (MPa) 
Điều kiện thường Lão hóa nhiệt Ngâm nước 
M1 0,64 1,66 0,74 
M2 0,55 1,66 0,55 
M3 0,74 1,47 0,55 
M4 0,80 1,60 0,61 
M5 0,80 1,60 0,55 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
48 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 
Bảng 4. Cường độ bám dính ở 14 ngày tuổi 
Mẫu 
Cường độ bám dính (MPa) 
Điều kiện thường Lão hóa nhiệt Ngâm nước Kết hợp lão hóa nhiệt-ngâm nước 
M1 1,10 1,72 0,74 1,10 
M2 1,10 1,72 0,80 1,66 
M3 1,23 1,72 0,98 1,41 
M4 1,10 1,72 0,98 1,47 
M5 1,29 1,72 1,10 1,41 
3.2. Khả năng chống thấm 
3.2.1. Khả năng chống thấm bằng trực quan 
Khả năng chống thấm của vật liệu được đặc 
trưng bởi dấu hiệu cơ bản của vật liệu biểu hiện 
trên màng. Đáng chú ý ở đây là hiệu ứng giọt nước 
có hình cầu (giọt nước trên lá sen, lông vịt,), đó là 
hiện tượng sức căng bề mặt xuất hiện ở giữa chất 
lỏng và chất rắn có chênh lệch lực hút phân tử 
khiến các phân tử ở bề mặt của chất lỏng thể hiện 
đặc tính của một màng chất dẻo đang chịu lực kéo 
căng (hình 5). 
Hình 5. Hiện tượng sức căng mặt ngoài 
Bằng trực quan, hình 6 miêu tả giọt nước khi 
nhỏ lên các tấm bê tông phủ vật liệu chống thấm và 
giọt nước khi nhỏ lên tấm bê tông thông thường. 
Quan sát thấy giọt nước trên các lớp vật liệu chống 
thấm có hình tròn gần giống như giọt nước trên lá 
sen. Trong khi giọt nước trên tấm bê tông thông 
thường có hiện tượng bị vỡ và có vết thấm xung 
quanh. Kết quả từ thí nghiệm này cho thấy vật liệu 
nghiên cứu có khả năng chống thấm tốt dựa trên 
sức căng bề mặt. 
Hình 6. Khả năng chống thấm bằng trực quan 
3.2.2. Độ xuyên nước 
Hình 7(a) cho thấy, sau 7 ngày dưới áp lực 
cột nước cao 15 cm (tương đương áp lực thủy 
tĩnh 1,5 bar), không có hiện tượng nước thấm qua 
các lớp vật liệu chống thấm đến lớp bìa cát tông. 
Sau 10 ngày một số mẫu có lớp chống thấm 
mỏng (1 mm) xuất hiện vết thấm như hình 7(b) 
(các mẫu bên phải), các mẫu có lớp chống thấm 2 
mm không có hiện tượng nước thấm qua hình 
7(b) (các mẫu bên trái). Theo TCVN 6557-2000 
[5], độ xuyên nước không được nhỏ hơn 24h. 
Theo Quy chuẩn Việt Nam QCVN 16-2014/BXD 
[4] và tiêu chuẩn Châu Âu BS EN 14891-2012 [3], 
độ xuyên nước không dưới 7 ngày. Như vậy tất 
cả các mẫu thí nghiệm đều thỏa mãn các tiêu 
chuẩn kỹ thuật nêu trên. 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 49 
(a) (b) 
Hình 7. Độ xuyên nước: (a) sau 7 ngày; và (b) sau 10 ngày 
Trong các thí nghiệm về cường độ bám dính và 
độ xuyên nước, sự ảnh hưởng của cát (mẫu M2 và 
M3) và tro trấu (mẫu M4 và M5) so với mẫu cơ bản 
M1 không rõ ràng, chứng tỏ vai trò bám dính và 
chống thấm chủ yếu do xi măng và polystyren đảm 
nhiệm, cát và tro trấu chủ yếu đóng vai trò như chất 
độn. Tuy nhiên, sự khác nhau về thành phần dẫn 
đến giá thành sản phẩm khác nhau. Do vậy, khi áp 
dụng vật liệu chống thấm này cho các công trình, 
tùy thuộc vào điều kiện thực tế và nguồn cung cấp 
vật liệu để lựa chọn thành phần phù hợp. 
4. Kết luận 
Nghiên cứu đã sử dụng các vật liệu phổ thông 
và các vật liệu là rác thải trong quá trình sản xuất 
công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt để chế tạo 
vật liệu chống thấm. Một số kết luận được rút ra từ 
kết quả thí nghiệm trong nghiên cứu này như sau: 
- Tất cả các mẫu vật liệu chống thấm có cường 
độ bám dính lớn hơn 0,5 MPa, thỏa mãn yêu cầu kỹ 
thuật theo tiêu chuẩn Việt Nam và Châu Âu. Quá 
trình lão hóa nhiệt làm tăng cường độ bám dính, 
trong khi quá trình ngâm nước làm giảm cường độ 
bám dính của vật liệu, tuy nhiên vẫn thỏa mãn các 
yêu cầu kỹ thuật; 
- Sau 7 ngày dưới áp lực cột nước thủy tĩnh cao 
15 cm, không có hiện tượng thấm xảy ra với tất cả 
các mẫu thí nghiệm, thỏa mãn tiêu chuẩn kỹ thuật 
của Việt Nam và Châu Âu về khả năng chống thấm. 
Sau 10 ngày, một số mẫu thử với độ dày lớp chống 
thấm 1 mm có hiện tượng bị nước xuyên qua, trong 
khi các mẫu thử với độ dày lớp chống thấm 2 mm 
vẫn đảm bảo khả năng chống thấm; 
- Vật liệu chống thấm trong nghiên cứu này có 
thể được sản xuất thủ công, quy trình chế tạo và thi 
công đơn giản, sử dụng các loại vật liệu phổ thông 
như cát, xi măng, natri silicat và các phế thải trong 
công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt như 
polystyren và tro trấu, nên giá thành rẻ, góp phần 
bảo vệ môi trường, có thể được phổ biến sử dụng 
rộng rãi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Quang Phú, Phạm Văn Chiến (2013), “Nghiên 
cứu chế tạo sơn chống thấm thẩm thấu kết tinh gốc xi 
măng trong phòng thí nghiệm và ứng dụng trong công 
trình thủy lợi”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây 
dựng, số 1, tr.24-28. 
[2] Ngọ Văn Toản (2013), “Nghiên cứu ảnh hưởng của tro 
trấu và phụ gia siêu dẻo tới tính chất của hồ, vữa và 
bê tông”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng, số 
3+4, 50-59. 
[3] BS EN 14891-2012, Liquid-applied water impermeable 
products for use beneath ceramic tiling bonded with 
adhesives – Requirements, test methods, evaluation 
of conformity, classification and designation. 
[4] QCVN 16-2014/BXD - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về 
sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng. 
[5] TCVN 6557-2000 - Vật liệu chống thấm – Sơn bitum 
cao su. 
Ngày nhận bài:10/5/2016. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 9/9/2016. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1484645895ngosyhuy_4321.pdf 1484645895ngosyhuy_4321.pdf