Trong các thí nghiệm về cường độ bám dính và
độ xuyên nước, sự ảnh hưởng của cát (mẫu M2 và
M3) và tro trấu (mẫu M4 và M5) so với mẫu cơ bản
M1 không rõ ràng, chứng tỏ vai trò bám dính và
chống thấm chủ yếu do xi măng và polystyren đảm
nhiệm, cát và tro trấu chủ yếu đóng vai trò như chất
độn. Tuy nhiên, sự khác nhau về thành phần dẫn
đến giá thành sản phẩm khác nhau. Do vậy, khi áp
dụng vật liệu chống thấm này cho các công trình,
tùy thuộc vào điều kiện thực tế và nguồn cung cấp
vật liệu để lựa chọn thành phần phù hợp
6 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 873 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chế tạo vật liệu chống thấm từ polystyren tái chế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
44 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VẬT LIỆU CHỐNG THẤM
TỪ POLYSTYREN TÁI CHẾ
TS. NGÔ SĨ HUY, ThS. LÊ SỸ CHÍNH, SV. LÊ VĂN TRƯỜNG
Trường Đại học Hồng Đức
Tóm tắt: Bài báo nghiên cứu chế tạo vật liệu
chống thấm sử dụng polystyren từ rác thải trong
công nghiệp và sinh hoạt. Các thành phần cấu tạo
nên vật liệu chống thấm bao gồm: polystyren, xi
măng, cát, tro trấu và natri silicat, là các vật liệu
thông dụng và phổ biến ở Việt Nam. Quy trình chế
tạo và thi công vật liệu đơn giản. Kết quả thí nghiệm
cho thấy, vật liệu chống thấm từ polystyren tái chế
thỏa mãn các yêu cầu kỹ thuật về cường độ bám
dính và độ xuyên nước theo tiêu chuẩn Việt Nam và
Châu Âu.
Từ khóa: Vật liệu chống thấm, polystyrene tái
chế, cường độ bám dính, độ xuyên nước.
1. Đặt vấn đề
Cùng với việc xây dựng các công trình, việc bảo
vệ chúng trước sự xâm thực của môi trường (nước
mưa, hơi ẩm, ánh sáng, nhiệt độ, hóa chất ăn
mòn,...) là rất cần thiết. Bởi sự xâm thực làm suy
giảm chất lượng và tuổi thọ các công trình. Đặc biệt
trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam, lượng
mưa hàng năm nhiều và độ ẩm cao là nguyên nhân
các công trình dễ bị nước xâm thực. Vì vậy việc
chống thấm, bảo vệ công trình khỏi sự xâm thực
của nước, luôn được tính đến ngay từ khi thiết kế
và thi công các công trình. Hiện nay, thị trường vật
liệu chống thấm khá đa dạng với hơn 100 loại sản
phẩm khác nhau, tuy nhiên chủ yếu nhập khẩu từ
nước ngoài với giá thành cao làm cho chi phí chống
thấm các công trình tăng cao.
Ở trong nước, Nguyễn Quang Phú và Phạm
Văn Chiến (2013) đã nghiên cứu lựa chọn vật liệu
và công nghệ để sản xuất sơn chống thấm thẩm
thấu kết tinh gốc xi măng [1]. Sơn được chế tạo có
độ bám dính với bề mặt bê tông và độ chống thấm
cao, chất lượng có thể so sánh với sơn cùng loại
nhập khẩu. Sau 10 năm nghiên cứu, khoa Công
nghệ Hóa học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
đã công bố chế tạo thành công vật liệu phủ chống
thấm phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió
mùa Việt Nam. Phạm Thế Trình cùng các cộng sự
công bố đã nghiên cứu thành công việc lựa chọn
các lớp phủ để xây dựng bộ vật liệu chống thấm
bền hóa. Tuy nhiên các kết quả nghiên cứu của
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và Phạm Thế
Trình chưa được công bố trên một tạp chí khoa học
chính thống nào, mà tồn tại dưới dạng thông tin sản
phẩm thương mại.
Các nghiên cứu trong nước về vật liệu chống
thấm còn ít và hạn chế. Trong khi các nghiên cứu
ngoài nước về vật liệu chống thấm ít được công bố
hoặc công bố hạn chế, do họ giữ bí mật bản quyền
công nghệ để khai thác thương mại. Bài báo này
nghiên cứu sử dụng polystyren tái chế, là rác thải
trong công nghiệp và sinh hoạt, để chế tạo vật liệu
chống thấm. Vật liệu chống thấm trong nghiên cứu
này có thể giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn vật
liệu nhập khẩu hoặc chuyển giao công nghệ sản
xuất đắt đỏ của nước ngoài. Mặt khác có thể sử
dụng nguồn nguyên liệu polystyren tái chế, là rác
thác trong công nghiệp và sinh hoạt để giảm giá
thành, tăng hiệu quả kinh tế và góp phần bảo vệ
môi trường.
2. Vật liệu và phương pháp thí nghiệm
2.1. Vật liệu
2.1.1. Polystyren
Polystyren là vật liệu nhẹ, có tính điện môi tốt,
bền với hóa chất và đặc biệt chịu nước tốt. Hàng
năm khối lượng lớn polystyren đã qua sử dụng
được loại bỏ như những rác thải trong công nghiệp
và sinh hoạt. Chính vì khả năng chịu nước tốt nên
polystyren được sử dụng là nhân tố chính của vật
liệu chống thấm trong nghiên cứu này. Polystyren
được thu gom từ rác thải, sau đó rửa sạch, sấy khô,
và sử dụng một lượng xăng vừa đủ để hòa tan
chúng thành một dạng keo lỏng có độ dẻo lớn.
2.1.2. Xi măng
Xi măng sử dụng trong nghiên cứu này là xi
măng Nghi Sơn PC40, có khối lượng riêng 3,12
tấn/m3, thành phần hóa học như trong bảng 1. Xi
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 45
măng có vai trò là chất kết dính và tăng cường độ
bám dính của vật liệu chống thấm.
2.1.3. Tro trấu
Trấu là phế phẩm có khối lượng rất lớn trong
sản xuất nông nghiệp. Khi đốt trấu ở nhiệt độ thích
hợp sẽ thu được tro trấu có độ xốp lớn với hàm
lượng SiO2 vô định hình cao nên tro trấu có độ hoạt
tính puzơlan rất cao. Theo nghiên cứu [2], khi tỷ lệ
nước so với chất kết dính nhỏ hơn 0,3, bê tông tro
trấu không bị thấm sau 14 ngày dưới áp suất nước
27,5 atm. Do kích thước hạt trung bình nhỏ hơn xi
măng, tỷ lệ diện tích bề mặt lớn nên tro trấu làm
giảm đáng kể độ rỗng mao quản trong bê tông hoặc
bịt kín các mao quản, làm giảm hệ số thấm và tăng
cường độ cho bê tông. Trong nghiên cứu này, tro
trấu được sử dụng để tăng cường độ, chống thấm,
đồng thời cũng đóng vai trò thay thế cát như chất
độn. Trấu được cho vào lò nung ở nhiệt độ 850oC
trong khoảng (3÷6) giờ đến khối lượng không đổi,
sau đó sàng qua rây 0,15 mm để sử dụng. Thành
phần hóa học của tro trấu như trong bảng 1.
Bảng 1. Thành phần hóa học của xi măng và tro trấu
Thành phần SiO2 Al2O3 Fe2O3 CaO MgO Lượng mất khi nung
Hàm lượng (%) Xi măng 22,38 5,31 4,03 55,93 2,80 1,98 Tro trấu 89,74 0,96 0,52 1,96 1,41 0,33
2.1.4. Cát
Cát được sử dụng để làm cốt liệu thô, tăng độ
cứng cho vật liệu, tham gia vào quá trình thủy hóa
với xi măng, tạo khả năng liên kết giữa các lớp màng
polystyren, tạo bề mặt nhám cho vật liệu dễ liên kết
với các vật liệu khác tại vị trí chống thấm, và làm chất
độn do giá thành rẻ. Cát được rửa sạch để loại bỏ
bùn đất, chất cặn bẩn sau đó sấy khô đến khối lượng
không đổi (khoảng 6 giờ ở nhiệt độ 105÷110oC). Sau
đó sàng qua bộ rây sàng để lấy các hạt có kích cỡ
mịn trong khoảng (0,15÷0,25) mm.
2.1.5. Natri silicat
Natri Silicat hay còn được gọi là thủy tinh lỏng
có độ nhớt cao nên được sử dụng để tăng độ linh
hoạt, tăng khả năng đông kết nhanh và tăng khả
năng chịu nhiệt cho vật liệu.
Các thành phần dùng để chế tạo vật liệu chống
thấm trong nghiên cứu này đều rất phổ biến ở Việt
Nam. Đặc biệt polystyren tái chế và tro trấu là các
phế thải trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp
và sinh hoạt. Nghiên cứu sử dụng các loại vật liệu
này còn góp phần bảo vệ môi trường và sử dụng
hiệu quả các nguồn tài nguyên.
2.2. Mẫu thí nghiệm
Các mẫu thí nghiệm được thử với nhiều tỷ lệ
khối lượng các thành phần khác nhau để tìm ra tỷ lệ
tối ưu nhất. Bài báo này trình bày 5 mẫu thí nghiệm
chính có tỷ lệ như bảng 2.
Bảng 2. Tỷ lệ khối lượng các thành phần trong các mẫu thí nghiệm
Tên mẫu
Tỷ lệ khối lượng
Natri Silicat Xi măng Polystyren Cát mịn Tro trấu
M1 1 2 2 0 0
M2 1 2 6 4 0
M3 1 2 4 4 0
M4 1 2 10 0 4
M5 1 2 8 0 2
Mẫu M1 nghiên cứu sự kết hợp giữa ba thành
phần chính gồm xi măng, polystyren và natri silicat
được gọi là mẫu cơ bản. Mẫu M2 và M3 có thêm
thành phần cát mịn so với mẫu cơ bản để xem xét sự
kết hợp của cát trong vật liệu đang nghiên cứu. Mẫu
M4 và M5 thay thế cát mịn trong các mẫu M2 và M3
bằng tro trấu. Khi thêm vào cát mịn hoặc tro trấu, tỷ lệ
khối lượng các thành phần được điều chỉnh để vật liệu
có độ linh động cao và dễ thi công. Chú ý rằng tính dễ
thi công và khả năng chống thấm của vật liệu là do
polystyren, trong khi cường độ bám dính của vật liệu
do xi măng tạo ra. Nếu hàm lượng polystyren thấp, vật
liệu khó thi công và khả năng chống thấm kém. Nếu
hàm lượng polystyren cao, cường độ bám dính của
vật liệu thấp. Vì vậy tỷ lệ xi măng so với polystyren
không nên nhỏ hơn 1 và không lớn hơn 5.
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
46 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016
Quy trình chế tạo vật liệu chống thấm như sau:
Các vật liệu đầu vào được xử lý ban đầu như trên,
sau đó cho các vật liệu dạng thô và khô vào trước,
polystyren cho sau cùng. Trộn đều bằng đũa thủy
tinh từ một đến ba phút cho đến khi các nguyên liệu
hòa đều vào nhau. Sử dụng dao sắt hoặc bay để thi
công tương tự như trát vữa hồ xi măng với lớp dày
khoảng (1÷2) mm.
2.3. Phương pháp thí nghiệm
Các thông số kỹ thuật của vật liệu chống thấm
được xác định theo tiêu chuẩn Châu Âu BS EN
14891-2012 [3] và phải thỏa mãn Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia QCVN 16-2014/BXD về sản phẩm,
hàng hóa vật liệu xây dựng [4], bao gồm: Cường độ
bám dính, cường độ bám dính sau khi ngâm nước,
cường độ bám dính sau lão hóa nhiệt, cường độ
bám dính sau khi kết hợp lão hóa nhiệt và ngâm
nước, và độ xuyên nước. Tất cả các thí nghiệm
trong bài báo này được thực hiện tại Xưởng thực
hành - Khoa Kỹ thuật công nghệ, trường Đại học
Hồng Đức.
2.3.1. Cường độ bám dính
Nguyên tắc xác định cường độ bám dính chính
là xác định lực kéo đứt lớn nhất vuông góc với bề
mặt bám dính của vật liệu trên nền thử. Cường độ
bám dính của vật liệu là tỷ số giữa lực kéo đứt và
diện tích mẫu thử. Các mẫu thí nghiệm xác định
cường độ bám dính được thể hiện như hình 1. Các
mẫu bê tông hình trụ đường kính 20 mm, cao
(30÷50) mm được dính kết với nhau bởi lớp vật liệu
chống thấm đang nghiên cứu. Hình 2 mô tả thí
nghiệm xác định lực kéo đứt lớn nhất. Mẫu bê tông
thử được buộc chặt bởi các dây thép, sau đó gia tải
từ từ bằng cách treo các quả nặng bằng sắt có khối
lượng tăng dần từ 0,125 kg đến 5,1 kg cho tới khi
hai phần của mẫu thử bị đứt rời tại vị trí liên kết bởi
lớp vật liệu chống thấm. Các mẫu được thí nghiệm
ở điều kiện thường, sau khi ngâm nước, sau khi lão
hóa nhiệt ở 7 và 14 ngày, và sau khi kết hợp lão
hóa nhiệt 7 ngày và ngâm nước 7 ngày. Mỗi lần thí
nghiệm với 3 mẫu thử, lấy giá trị trung bình. Hình
ảnh mẫu ngâm nước và mẫu trong lò sấy ở nhiệt độ
70oC ± 3oC được thể hiện như hình 3.
(a) (b)
Hình 1. Mẫu thử cường độ bám dính
(a) (b)
Hình 2. Thí nghiệm xác định cường độ bám dính
(a) (b)
Hình 3. a) Mẫu ngâm nước ; b) Mẫu trong lò sấy
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 47
2.3.2. Độ xuyên nước
Độ xuyên nước được đánh giá bằng khoảng
thời gian từ lúc bắt đầu thử tới thời điểm xuất hiện
vết thấm nước ở mặt dưới của tấm thử, được xác
định theo TCVN 6557-2000 [5], tương tự tiêu chuẩn
BS EN 14891-2012 [3]. Mỗi mẫu vật liệu chống
thấm được quét lên hai tấm bìa cát tông có kích
thước 100 100 5 (mm) như hình 4(a) với chiều
dày tương ứng là 1 mm và 2 mm. Khi vật liệu chống
thấm đạt trạng thái khô hoàn toàn, đặt tấm thử theo
phương nằm ngang, mặt có lớp chống thấm ở phía
trên. Dùng keo epoxy để gắn chặt ống nước có
đường kính trong 25 mm, cao 150 mm theo phương
thẳng đứng trên bề mặt vật liệu như hình 4(b). Đổ
nước đầy vào ống thử và bảo đảm mực nước này
trong suốt quá trình thử.
(a) (b)
Hình 4. Thí nghiệm xuyên nước
3. Kết quả thí nghiệm và thảo luận
3.1. Cường độ bám dính
Kết quả thí nghiệm cường độ bám dính ở 7 và
14 ngày tuổi được thể hiện lần lượt trong bảng 3 và
bảng 4. Tất cả các mẫu thí nghiệm đều cho cường
độ bám dính lớn hơn 0,5 MPa thỏa mãn theo tiêu
chuẩn Châu Âu BS EN 14891-2012 [3] và Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 16-2014/BXD [4].
Các mẫu bị lão hóa nhiệt có cường độ bám dính tốt
nhất, sau đó đến các mẫu ở điều kiện thường, các
mẫu ngâm nước có cường độ thấp nhất, tuy nhiên
vẫn đảm bảo chỉ tiêu kỹ thuật như nêu trên. Tuổi
của mẫu thí nghiệm càng cao thì cường độ bám
dính càng tốt, bởi vì vật liệu nghiên cứu sử dụng vật
liệu gốc xi măng nên cường độ của mẫu phát triển
tương tự như cường độ của vữa bê tông. Điều đó
cũng lý giải tại sao cường độ mẫu chịu nhiệt cao
hơn các mẫu ở điều kiện thường và điều kiện ngâm
nước (do thuộc tính thủy hóa của xi măng tốt khi
nhiệt độ cao). Các mẫu ngâm nước có cường độ
thấp hơn các mẫu ở điều kiện thường, vì nước xâm
thực sẽ làm yếu các liên kết của vật liệu. Chú ý rằng
cường độ bám dính thực tế của các mẫu chịu lão
hóa nhiệt ở 14 ngày lớn hơn giá trị ghi trong bảng,
do mẫu thử bị đứt ở phần bê tông, phần liên kết bởi
vật liệu chống thấm không bị phá hoại. Điều này
chứng tỏ cường độ bám dính của các mẫu vật liệu
sau khi lão hóa nhiệt ở 14 ngày cao hơn cường độ
chịu kéo của bê tông.
Khi mẫu chịu kết hợp lão hóa nhiệt và ngâm
nước, cường độ bám dính cao hơn các mẫu ở điều
kiện bình thường. Khi chịu nhiệt trước, tốc độ ninh
kết của xi măng tăng nhanh kết hợp với polystyren
tạo nên một lớp vật liệu có tính đặc chắc của bê
tông (do xi măng tạo ra) và cũng như một màng
chống thấm (do polystyren tạo ra). Do vậy khi ngâm
nước, lớp này giúp ngăn ngừa nước xâm thực vào
vật liệu, vì vậy cường độ bám dính của các mẫu này
không bị ảnh hưởng khi ngâm nước.
Bảng 3. Cường độ bám dính ở 7 ngày tuổi
Mẫu
Cường độ bám dính (MPa)
Điều kiện thường Lão hóa nhiệt Ngâm nước
M1 0,64 1,66 0,74
M2 0,55 1,66 0,55
M3 0,74 1,47 0,55
M4 0,80 1,60 0,61
M5 0,80 1,60 0,55
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
48 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016
Bảng 4. Cường độ bám dính ở 14 ngày tuổi
Mẫu
Cường độ bám dính (MPa)
Điều kiện thường Lão hóa nhiệt Ngâm nước Kết hợp lão hóa nhiệt-ngâm nước
M1 1,10 1,72 0,74 1,10
M2 1,10 1,72 0,80 1,66
M3 1,23 1,72 0,98 1,41
M4 1,10 1,72 0,98 1,47
M5 1,29 1,72 1,10 1,41
3.2. Khả năng chống thấm
3.2.1. Khả năng chống thấm bằng trực quan
Khả năng chống thấm của vật liệu được đặc
trưng bởi dấu hiệu cơ bản của vật liệu biểu hiện
trên màng. Đáng chú ý ở đây là hiệu ứng giọt nước
có hình cầu (giọt nước trên lá sen, lông vịt,), đó là
hiện tượng sức căng bề mặt xuất hiện ở giữa chất
lỏng và chất rắn có chênh lệch lực hút phân tử
khiến các phân tử ở bề mặt của chất lỏng thể hiện
đặc tính của một màng chất dẻo đang chịu lực kéo
căng (hình 5).
Hình 5. Hiện tượng sức căng mặt ngoài
Bằng trực quan, hình 6 miêu tả giọt nước khi
nhỏ lên các tấm bê tông phủ vật liệu chống thấm và
giọt nước khi nhỏ lên tấm bê tông thông thường.
Quan sát thấy giọt nước trên các lớp vật liệu chống
thấm có hình tròn gần giống như giọt nước trên lá
sen. Trong khi giọt nước trên tấm bê tông thông
thường có hiện tượng bị vỡ và có vết thấm xung
quanh. Kết quả từ thí nghiệm này cho thấy vật liệu
nghiên cứu có khả năng chống thấm tốt dựa trên
sức căng bề mặt.
Hình 6. Khả năng chống thấm bằng trực quan
3.2.2. Độ xuyên nước
Hình 7(a) cho thấy, sau 7 ngày dưới áp lực
cột nước cao 15 cm (tương đương áp lực thủy
tĩnh 1,5 bar), không có hiện tượng nước thấm qua
các lớp vật liệu chống thấm đến lớp bìa cát tông.
Sau 10 ngày một số mẫu có lớp chống thấm
mỏng (1 mm) xuất hiện vết thấm như hình 7(b)
(các mẫu bên phải), các mẫu có lớp chống thấm 2
mm không có hiện tượng nước thấm qua hình
7(b) (các mẫu bên trái). Theo TCVN 6557-2000
[5], độ xuyên nước không được nhỏ hơn 24h.
Theo Quy chuẩn Việt Nam QCVN 16-2014/BXD
[4] và tiêu chuẩn Châu Âu BS EN 14891-2012 [3],
độ xuyên nước không dưới 7 ngày. Như vậy tất
cả các mẫu thí nghiệm đều thỏa mãn các tiêu
chuẩn kỹ thuật nêu trên.
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 49
(a) (b)
Hình 7. Độ xuyên nước: (a) sau 7 ngày; và (b) sau 10 ngày
Trong các thí nghiệm về cường độ bám dính và
độ xuyên nước, sự ảnh hưởng của cát (mẫu M2 và
M3) và tro trấu (mẫu M4 và M5) so với mẫu cơ bản
M1 không rõ ràng, chứng tỏ vai trò bám dính và
chống thấm chủ yếu do xi măng và polystyren đảm
nhiệm, cát và tro trấu chủ yếu đóng vai trò như chất
độn. Tuy nhiên, sự khác nhau về thành phần dẫn
đến giá thành sản phẩm khác nhau. Do vậy, khi áp
dụng vật liệu chống thấm này cho các công trình,
tùy thuộc vào điều kiện thực tế và nguồn cung cấp
vật liệu để lựa chọn thành phần phù hợp.
4. Kết luận
Nghiên cứu đã sử dụng các vật liệu phổ thông
và các vật liệu là rác thải trong quá trình sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt để chế tạo
vật liệu chống thấm. Một số kết luận được rút ra từ
kết quả thí nghiệm trong nghiên cứu này như sau:
- Tất cả các mẫu vật liệu chống thấm có cường
độ bám dính lớn hơn 0,5 MPa, thỏa mãn yêu cầu kỹ
thuật theo tiêu chuẩn Việt Nam và Châu Âu. Quá
trình lão hóa nhiệt làm tăng cường độ bám dính,
trong khi quá trình ngâm nước làm giảm cường độ
bám dính của vật liệu, tuy nhiên vẫn thỏa mãn các
yêu cầu kỹ thuật;
- Sau 7 ngày dưới áp lực cột nước thủy tĩnh cao
15 cm, không có hiện tượng thấm xảy ra với tất cả
các mẫu thí nghiệm, thỏa mãn tiêu chuẩn kỹ thuật
của Việt Nam và Châu Âu về khả năng chống thấm.
Sau 10 ngày, một số mẫu thử với độ dày lớp chống
thấm 1 mm có hiện tượng bị nước xuyên qua, trong
khi các mẫu thử với độ dày lớp chống thấm 2 mm
vẫn đảm bảo khả năng chống thấm;
- Vật liệu chống thấm trong nghiên cứu này có
thể được sản xuất thủ công, quy trình chế tạo và thi
công đơn giản, sử dụng các loại vật liệu phổ thông
như cát, xi măng, natri silicat và các phế thải trong
công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt như
polystyren và tro trấu, nên giá thành rẻ, góp phần
bảo vệ môi trường, có thể được phổ biến sử dụng
rộng rãi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Quang Phú, Phạm Văn Chiến (2013), “Nghiên
cứu chế tạo sơn chống thấm thẩm thấu kết tinh gốc xi
măng trong phòng thí nghiệm và ứng dụng trong công
trình thủy lợi”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây
dựng, số 1, tr.24-28.
[2] Ngọ Văn Toản (2013), “Nghiên cứu ảnh hưởng của tro
trấu và phụ gia siêu dẻo tới tính chất của hồ, vữa và
bê tông”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng, số
3+4, 50-59.
[3] BS EN 14891-2012, Liquid-applied water impermeable
products for use beneath ceramic tiling bonded with
adhesives – Requirements, test methods, evaluation
of conformity, classification and designation.
[4] QCVN 16-2014/BXD - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng.
[5] TCVN 6557-2000 - Vật liệu chống thấm – Sơn bitum
cao su.
Ngày nhận bài:10/5/2016.
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 9/9/2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1484645895ngosyhuy_4321.pdf