KẾT LUẬN.
Qua nghiên cứu 33 trường hợp quai bị có
viêm tinh hoàn ở trẻ em, chúng tôi có một số
kết luận như sau:
Đặc điểm dịch tễ:
Tuổi 11 –15: chiếm tỷ lệ 91%, ngày nhập
viện: Từ ngày 4 – 8 của bệnh chiếm tỉ lệ 93,8%.
Lâm sàng và cận lâm sàng:
Sốt 100%, viêm tuyến mang tai 100%, viêm
tinh hoàn 100%, đau góc hàm 18,2%.
Viêm tinh hoàn 1 bên: 78,8%, 2 bên 21,2%.
Ngày xuất hiện triệu chứng viêm tinh hoàn
chủ yếu là 3 - 8 chiếm 75,7%, triệu chứng khi
viêm tinh hoàn: Sốt cao trở lại 66,7%, sưng đau
tinh hoàn 93,9%.
Bạch cầu máu  10000/mm3 là 51,5% và 
10.000/mm3 là 48,5%; công thức bạch cầu với
tỷ lệ lympho < 30% là 84,8%.
Amylase máu tăng > 200u/l là 78%.
Các trường hợp viêm tinh hoàn do quai bị
cần được điều trị thích hợp ở các cơ sở y tế,
nghỉ ngơi tại chỗ, chườm mát tinh hoàn, sử
dụng thuốc kháng viêm, giảm đau, hạ nhiệt,
cần được theo dõi liên tục sau này để phát
hiện sớm tình trạng viêm teo tinh hoàn ảnh
hưởng đến khả năng sinh sản và hỗ trợ kịp
thời. Trường hợp quai bị có viêm tinh hoàn 2
bên nhưng chưa lập gia đình hoặc chưa có con
cần khuyến cáo bệnh nhân đến các trung tâm
điều trị vô sinh để dự trữ lạnh tinh trùng giúp
duy trì khả năng sinh sản.
Điều tốt nhất là phòng ngừa bệnh quai
bị bằng vắc xin tạo miễn dịch chủ động ở
mọi lứa tuổi (> 1 tuổi); đặc biệt là lứa tuổi
thanh thiếu niên sau dậy thì chưa mắc
bệnh quai bị hoặc chưa được chủng ngừa
quai bị trước đó.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 738 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng bệnh quai bị có biểu hiện viêm tinh hoàn ở trẻ em tại bệnh viện Đa khoa Tiền Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG 
BỆNH QUAI BỊ CÓ BIỂU HIỆN VIÊM TINH HOÀN Ở TRẺ EM 
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TIỀN GIANG. 
Tạ Văn Trầm* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng 
của 33 trường hợp bệnh quai bị có biểu hiện viêm tinh hoàn ở trẻ em tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang 
trong 05 năm 2002 – 2006. 
Phương pháp: Hồi cứu cắt ngang mô tả. 
Kết quả: Nghiên cứu cho thấy rằng: tuổi 11 - 15 chiếm 91%, biểu hiện sốt 100%, viêm tuyến mang tai 
100%, đau góc hàm 18,2%, viêm tinh hoàn 1 bên 78,8%, 2 bên: 21,2%. Amylase máu tăng là: 78%. 
Kết luận: Các trường hợp viêm tinh hoàn được điều trị thích hợp ở các cơ sở y yế, nghỉ ngơi, chườm 
mát tinh hoàn, sử dụng thuốc kháng viêm, giảm đau. Các trường hợp này cần được theo dõi để phát hiện 
sớm tình trạng viêm teo tinh hoàn, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản sau này. Tốt nhất là phòng ngừa quai 
bị bằng vaccin cho mọi lứa tuổi > 1 tuổi. 
ABSTRACT 
EVALUATE THE MANIFESTATIONS OF EPIDEMOLOGY, CLINIC, LABORATORY 
OF MUNPS WITH ORCHITIS IN CHILDREN AT TIEN GIANG GENERAL HOSPITAL 
IN 5 YEARS (2002 – 2006) 
Ta Van Tram * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 4 - 2007:127 – 131 
Objective: The purpose of this study was to evaluate the manifestations of epidemology, clinic, laboratory of 33 
cases of munps with orchitis in children at Tien Giang General Hospital in 5 years (2002 – 2006). 
Methods: a descriptive retropective. 
Results: the patients at age from 11 to 15 occurred: 91%, fever: 100%, sialadenitis: 100%, pain corner of 
jaw: 18,2%, one lateral orchitis: 78,8%, both lateral orchitis: 21,2%, elevation of serum amylase: over 78%. 
Conclusion: Mumps with orchitis should be treated appropriately at health organs. Treatment 
included: bed rest, relieve pain, anti-inflammation. This cases needed to follow to early find out atrophy of 
testes which affected the ability of fertility in the future. The best was to prevent by mumps vaccine for 
children over one age. 
ĐẶT VẤN ĐỀ: 
Bệnh quai bị là một bệnh lý toàn thân, cấp 
tính do siêu vi gây ra và dễ lây lan. Bệnh đặc 
trưng bởi sưng, đau tuyến nước bọt, đôi khi 
kèm theo viêm tuyến sinh dục, viêm tụy tạng 
và một số cơ quan khác. Bệnh thường diễn 
tiến nhẹ và tự khỏi. Ngoài viêm tuyến nước 
bọt điển hình,viêm tinh hoàn là biểu hiện 
thường gặp của quai bị ở nam giới, lứa tuổi 
thanh thiếu niên từ dậy thì, hiếm gặp ở những 
trẻ em chưa dậy thì và trên 50 tuổi. Tỷ lệ quai 
bị có biểu hiện viêm tinh hoàn có thể từ 20 – 
35%. Viêm tinh hoàn thường xảy ra sau khi 
viêm tuyến mang tai khoảng vài ngày. Khi bị 
viêm, tinh hoàn đau và sưng to, thường kèm 
với sốt. Viêm tinh hoàn chẳng những gây đau 
đớn, kéo dài thời gian điều trị mà còn gây ra 
những vấn đề sau đây: Thiểu năng sinh dục 
* Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang 
 Chuyên đề Nhi Khoa 128 
hoặc có thể gây vô sinh ở những bệnh nhân bị 
viêm teo cả hai tinh hoàn. 
Đã có một vài nghiên cứu khác nhau về 
bệnh quai bị song đến nay còn rất ít tài liệu 
nói về bệnh quai bị có viêm tinh hoàn ở trẻ em 
vị thành niên. Chúng tôi tiến hành đề tài nầy 
nhằm rút ra một số nhận xét về bệnh quai bị 
có viêm tinh hoàn ở trẻ đã điều trị tại Bệnh 
viện Đa khoa Tiền Giang từ năm 2002 – 2006 
và đề xuất hướng theo dõi lâu dài đời sống 
tình dục của những bệnh nhân bị bệnh quai bị 
có viêm tinh hoàn. 
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tƣợng nghiên cứu 
Bao gồm các bệnh nhân dưới 16 tuổi nhập 
viện Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang từ tháng 
01/2002 đến 12/2006 được chẩn đoán là quai bị 
có viêm tinh hoàn. 
Cỡ mẫu: Toàn bộ các bệnh nhân. 
Phƣơng pháp nghiên cứu 
Hồi cứu cắt ngang mô tả 
Thu thập số liệu qua bệnh án. 
Xử lý số liệu: Bằng phương pháp thống kê 
y học. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm dịch tễ học 
Bảng 1: Phân bố theo năm 
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng số 
n 4 2 9 9 9 33 
% 13 6 27 27 27 100 
Nhận xét: Có 33 trường hợp quai bị có 
viêm tinh hoàn từ năm 2002 đến tháng 
12/2006. 
Bảng 2: Phân bố theo tuổi: 
Tuổi < 10 11 – 15 Tổng 
n 3 30 33 
% 9 91 100 
Nhận xét: Từ 11 – 15 tuổi có 30 trường hợp 
chiếm tỷ lệ cao nhất (91%), có 3 trường hợp < 
10 tuổi. 
Biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng 
Bảng 3: Thời gian từ khi có triệu chứng đến khi 
vào viện: 
Ngày < 3 4 - 5 6 7 8 9 Tổng 
n 0 10 8 10 3 2 33 
% 0 30,3 24,2 30,3 9 6,2 100% 
Nhận xét: các trường hợp vào viện thường 
ngày thứ 4 – 8 chiếm 93,8%. 
Bảng 4: Các biểu hiện lâm sàng: 
Triệu chứng n % 
Sốt 33 100 
Rét run 6 18,2 
Đau góc hàm 6 18,2 
Hạch góc hàm 3 9,1 
Chán ăn 5 15,2 
Đau đầu 5 15,2 
Viêm tuyến mang tai 33 100 
Viêm tinh hoàn 33 100 
Nhận xét: Biểu hiện lâm sàng thường gặp 
nhất là sốt 100% và 100% có viêm tuyến mang 
tai, viêm tinh hoàn. 
Bảng 5: Vị trí viêm tinh hoàn: 
Vị trí n % 
Phải 12 36,4 
Trái 14 42,4 
2 bên 7 21,2 
Nhận xét: Viêm tinh hoàn một bên chiếm 
78,8%, viêm tinh hoàn 2 bên chiếm 21,2%. 
Bảng 6: Xuất hiện triệu chứng viêm tinh hoàn 
Ngày 3 -  7 8 9 10 > 10 Tổng 
n 13 12 6 2 0 33 
% 39,4 36,4 18,2 6 0 100 
Nhận xét: Ngày xuất hiện triệu chứng 
viêm tinh hoàn thường: ngày 3 – 8 chiếm 
75,8%. 
Bảng 7: Triệu chứng sau viêm tinh hoàn: 
Triệu chứng n % 
Sốt cao trở lại 22 66,7 
Ói 2 6 
Nhức đầu 3 9 
Đau bụng 3 9 
Sưng đau tinh hoàn 31 93,9 
Sưng mào tinh hoàn 2 6 
Bảng 8: Xét nghiệm bạch cầu máu: 
CTM n % P 
Số lượng bạch cầu 
10.000/mm
3
 17 51,5 
> 0,05 
>10.000mm
3
 16 48,5 
Tỷ lệ % Lympho 
 30% 28 84,8 
< 0,05 
> 30% 5 15,2 
Nhận xét: Số lượng bạch cầu  10.000/mm3 
và > 10.000/mm3 không khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (P > 0,05). 
Tỷ lệ % lympho  30% chiếm 84,8%, khác 
biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm có tỷ lệ 
% lympho > 30% chiếm 15,2%. 
Bảng 9: Xét nghiệm Amylase máu (u/l) 
Amylase máu (u/l) 2000 Tổng 
n 6 19 2 27 
% 22 70,4 7,6 100 
Nhận xét: Trong 27 trường hợp có làm xét 
nghiệm Amylase máu có 22% trường hợp 
Amylase máu bình thường (< 200u/l) và 78% 
có Amylase máu tăng (> 200u/l) 
BÀN LUẬN: 
Một số đặc điểm dịch tễ học 
Trong những năm gần đây, tình hình bệnh 
quai bị, đặc biệt là bệnh quai bị viêm tinh hoàn ở 
trẻ vị thành niên có chiều hướng gia tăng. 
Tuổi: Nhóm tuổi 11 – 15 tuổi chiếm tỷ lệ 
cao nhất là 91%. Bệnh quai bị là một loại bệnh 
nhiễm virut cấp tính, dễ lây lan. Trẻ em là đối 
tượng dễ mắc bệnh quai bị. Trẻ dậy thì khi bị 
quai bị dễ thị viêm tinh hoàn Theo Daniel 
Floret, viêm tinh hoàn do quai bị thường gặp ở 
lứa tuổi 12 – 30 tuổi và tác giả Cao Văn Viên 
nghiên cứu 162 trường hợp viêm tinh hoàn do 
quai bị, ghi nhận tuổi từ 12 – 15 tuổi chiếm tỷ 
lệ 22%. Tác giả Trịnh Thị Minh Liên và cộng 
sự nghiên cứu 97 trường hợp bệnh quai bị có 
viêm tinh hoàn, ghi nhận tuổi dưới 16 chiếm 
10,4%. Lứa tuổi dậy thì là lứa tuổi có cơ quan 
sinh dục đang phát triển, khi bị bệnh có thể 
gây thiểu năng sinh dục hay vô sinh ở những 
người viêm teo tinh hoàn 2 bên. Quá trình 
viêm teo tinh hoàn có thể diễn tiến từ từ ở 
khoảng 50% những bệnh nhân bệnh quai bị có 
viêm tinh hoàn. 
Do đó, việc đề ra những biện pháp phòng 
ngừa, ngăn chặn bệnh xảy ra bằng việc cách ly, 
vắc xin chủng ngừa bệnh quai bị là cần thiết cho 
mọi lứa tuổi, nhất là nhóm tuổi dậy thì. 
Biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng 
Biểu hiện lâm sàng 
Trong 33 trường hợp nghiên cứu của 
chúng tôi, các biểu hiện lâm sàng thường gặp: 
Sốt 100%, viêm tuyến mang tai 100%, viêm 
tinh hoàn 100%, đau góc hàm 18,2%, < 
Bệnh quai bị là một bệnh lý toàn thân. 
Virut gây bệnh quai bị thụôc nhóm 
Paramyxovirus có ái tính với tuyến nước bọt. 
Ngoài tuyến nước bọt, một số cơ quan trong 
thời kỳ phôi thai có nguồn gốc từ lá thai ngoài 
như: Tinh hoàn, buồng trứng, tụy, màng 
não,<cũng có thể bị viêm. 
Vì vậy, ngoài viêm tuyến nước bọt điển 
hình, viêm tinh hoàn là một biểu hiện thường 
gặp nhất của quai bị ở nam giới sau tuổi dậy 
thì. Bệnh quai bị trước tuổi dậy thì thường ít 
có biến chứng viêm tinh hoàn và ít ảnh hưởng 
đến khả năng sinh sản. Viêm tinh hoàn 
thường xuất hiện từ 7 – 9 ngày sau viêm tuyến 
nước bọt hoặc cùng lúc. Thường chỉ viêm một 
bên, ít gặp 2 bên kết hợp. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, viêm tinh 
hoàn gặp sau tuyến nước bọt 3 – 8 ngày là 
75,8%. Điều này phù hợp với nghiên cứu của 
các tác giả Trịnh Thị Minh Liên (79,5%), Cao 
Văn Viên (85,7%). 
Theo tác giả D. Floret, viêm tinh hoàn thường 
một bên nhưng hai bên cũng gặp ở 15 – 30%. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, viêm tinh 
hoàn một bên là 78,8%,tỷ lệ viêm tinh hoàn 2 
bên là 21,2%. 
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của 
các tác giả: Trịnh Thị Minh Liên, ghi nhận 
81,4% viêm tinh hoàn 1 bên và 18,6% viêm 
tinh hoàn 2 bên;Tác giả Tarahtino, ghi nhận 
 Chuyên đề Nhi Khoa 130 
trong 12 trường hợp viêm tinh hoàn do quai bị 
có 11 trường hợp viêm tinh 1 bên và 1 trường 
hợp viêm cả 2 bên tinh hoàn. 
Triệu chứng viêm tinh hoàn được báo hiệu 
trước bằng sốt cao trở lại (66,7%); Đau đầu 9%, 
buồn nôn và đặc biệt là tinh hoàn sưng to và 
đau cấp tính (93,9%).Đây là các lý do khiến 
người bệnh đi khám bệnh và được chỉ định 
nhập viện điều trị. 
Biểu hiện cận lâm sàng 
Trong bệnh quai bị, bạch cầu thường bình 
thường hoặc giảm nhẹ với tỷ lệ tế bào lympho 
tăng trong các thể không có biến chứng. Trong 
viêm tinh hoàn do quai bị, bạch cầu đa nhân 
tăng đa số và công thức bạch cầu chuyển trái. 
Amylase trong máu tăng cả trong viêm 
tuyến mang tai, viêm tụy, viêm tinh hoàn,< 
tăng lên cao điểm khoảng 1 tuần và trở về 
bình thường sau 2 tuần kế tiếp. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 48,5% 
trường hợp bạch cầu tăng  10.000/mm3, và 
51,5% trường hợp bạch cầu < 10.000/mm3. Sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). 
Trong công thức bạch cầu, tỷ lệ bạch cầu 
Lympho  30% là 15,2% khác biệt có ý nghĩa 
thống kê so với tỷ lệ bạch cầu Lympho < 30% 
là 84,8%. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp 
với nghiên cứu của các tác giả Trịnh Thị Minh 
Liên, Cao văn Viên, Daniel Floret < 
Trong 33 trường hợp nghiên cứu của 
chúng tôi, có 27 trường hợp có thử 
Amylase trong máu. Kết quả ghi nhận có 
22% các trường hợp Amylase máu bình 
thường < 200u/l; có 78% Amylase máu tăng 
trên 200u/l. 
Đa số các trường hợp bệnh của chúng tôi 
vào viện ngày thứ 4 – 8 của bệnh (93,8%); phù 
hợp với thời điểm nồng độ Amylase trong 
máu tăng cao trong tuần đầu bị bệnh. 
Chúng tôi không làm các xét nghiệm virut 
học và huyết thanh học. 
Bệnh quai bị và vô sinh nam 
Ngoài viêm tuyến mang tai, viêm tinh 
hoàn do quai bị là biểu hiện thường gặp nhất 
ở nam giới sau dậy thì. 
Quá trình viêm teo tinh hoàn có thể diễn 
ra từ từ ở khoảng 50% những bệnh nhân viêm 
tinh hoàn do quai bị, diễn tiến trong vòng 1 – 6 
tháng sau đợt viêm cấp tính. Quá trình sinh 
tinh sẽ giảm dần và có thể mất hẳn. Teo mô 
tinh hoàn có thể do tác động trực tiếp của 
virut hoặc thứ phát do thiếu máu cục bộ trong 
quá trình mô bị viêm. Việc suy giảm quá trình 
sinh tinh do di chứng viêm tinh hoàn có thể 
phát hiện bằng các chỉ số trong tinh dịch đồ 
giảm dần. Nếu bị viêm ở 2 bên tinh hoàn 
(khoảng 15%) có thể dẫn đến vô sinh hoàn 
toàn. Một số trường hợp tinh hoàn teo, giảm 
sinh tinh nhưng vẫn còn 1 số ổ sinh tinh sót lại 
trong tinh hoàn. 
Khảo sát trên 400 cặp vợ chồng đến khám 
vô sinh tại bệnh viện Phụ sản Từ Dũ cho thấy: 
trong 52 trường hợp kích thước tinh hoàn nhỏ 
hơn bình thường đã có hơn phân nửa có bệnh 
quai bị sau dậy thì, có 28 trường hợp teo tinh 
hoàn 2 bên. 
Do đó, nếu nam giới sau tuổi trưởng thành 
bị quai bị và có viêm tinh hoàn, để giảm thiểu 
tác hại của di chứng trên tinh hoàn, có thể áp 
dụng các biện pháp điều trị như: Nghỉ ngơi tại 
chỗ, chườm mát tinh hoàn, sử dụng thuốc 
kháng viêm, 1 số nghiên cứu sử dụng 
interferon trong giai đoạn viêm tinh hoàn có 
thể làm giảm tổn thương tinh hoàn và giảm tỷ 
lệ teo tinh hoàn. 
Các trường hợp viêm tinh hoàn cần đến cơ 
sở y tế để có biện pháp điều trị thích hợp và có 
kế hoạch theo dõi lâu dài. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, cả 33 trường hợp đều được điều 
trị tại bệnh viện, nghỉ ngơi tại chỗ, mặc quần 
lót nâng dịch tinh hoàn, giảm căng và đỡ đau 
nhức, 100% các trường hợp đều được chỉ định 
dùng thuốc giảm đau, hạ nhiệt và kháng viêm 
Corticoides. Chúng tôi chưa có kế hoạch để 
theo dõi lâu dài về đời sống tình dục và sức 
khỏe sinh sản của các bệnh nhân bị quai bị có 
biến chứng viêm tinh hoàn sau này. 
Các trường hợp theo dõi, nếu nhận thấy 
viêm tinh hoàn cả 2 bên ở những người chưa 
lập gia đình hoặc chưa có con cần có hình thức 
khuyến khích lưu trữ tinh trùng dự phòng các 
trung tâm điều trị vô sinh khi chất lượng tinh 
trùng chưa giảm nhiều, giúp duy trì khả năng 
sinh sản, mang lại hạnh phúc gia đình cho 
bệnh nhân. 
KẾT LUẬN. 
Qua nghiên cứu 33 trường hợp quai bị có 
viêm tinh hoàn ở trẻ em, chúng tôi có một số 
kết luận như sau: 
Đặc điểm dịch tễ: 
Tuổi 11 –15: chiếm tỷ lệ 91%, ngày nhập 
viện: Từ ngày 4 – 8 của bệnh chiếm tỉ lệ 93,8%. 
 Lâm sàng và cận lâm sàng: 
Sốt 100%, viêm tuyến mang tai 100%, viêm 
tinh hoàn 100%, đau góc hàm 18,2%. 
Viêm tinh hoàn 1 bên: 78,8%, 2 bên 21,2%. 
Ngày xuất hiện triệu chứng viêm tinh hoàn 
chủ yếu là 3 - 8 chiếm 75,7%, triệu chứng khi 
viêm tinh hoàn: Sốt cao trở lại 66,7%, sưng đau 
tinh hoàn 93,9%. 
Bạch cầu máu  10000/mm3 là 51,5% và  
10.000/mm3 là 48,5%; công thức bạch cầu với 
tỷ lệ lympho < 30% là 84,8%. 
Amylase máu tăng > 200u/l là 78%. 
Các trường hợp viêm tinh hoàn do quai bị 
cần được điều trị thích hợp ở các cơ sở y tế, 
nghỉ ngơi tại chỗ, chườm mát tinh hoàn, sử 
dụng thuốc kháng viêm, giảm đau, hạ nhiệt, 
cần được theo dõi liên tục sau này để phát 
hiện sớm tình trạng viêm teo tinh hoàn ảnh 
hưởng đến khả năng sinh sản và hỗ trợ kịp 
thời. Trường hợp quai bị có viêm tinh hoàn 2 
bên nhưng chưa lập gia đình hoặc chưa có con 
cần khuyến cáo bệnh nhân đến các trung tâm 
điều trị vô sinh để dự trữ lạnh tinh trùng giúp 
duy trì khả năng sinh sản. 
Điều tốt nhất là phòng ngừa bệnh quai 
bị bằng vắc xin tạo miễn dịch chủ động ở 
mọi lứa tuổi (> 1 tuổi); đặc biệt là lứa tuổi 
thanh thiếu niên sau dậy thì chưa mắc 
bệnh quai bị hoặc chưa được chủng ngừa 
quai bị trước đó. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Cao Văn Viên (1977), Tổng kết bệnh quai bị về lâm sàng 
trong 8 năm (1970 -1977) tại khoa Truyền nhiễm Bệnh 
viện Bạch Mai, tiểu luận tốt nghiệp lớp nội trú bệnh viện 
khóa II (1975 – 1978), trường Đại học Y Hà Nội. 
2 Hồ Mạnh Tường (2002), Bệnh quai bị và vô sinh nam, Sức 
khỏe và Đời sống số 201/2002, trang 21. 
3 Phillips CF. (1987), Mumps, in: Nelson textbook of 
pediatrics, pp. 673 – 675. 
4 Trịnh Thị Minh Liên, Nguyễn Đức Hiền, Nguyễn Văn 
Dũng (2002). Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng của bệnh quai bị có viêm tinh hoàn – Tạp chí Y học 
thực hành, số 12 (437) – 2002 – trang 57 – 59. 
5 Võ Thị Thiên Hương (1992). Bệnh quai bị, trong: Bệnh 
truyền nhiễm, Bộ môn truyền nhiễm – Trường Đại học Y 
Dược Tp. HCM, trang 322 – 332. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nghien_cuu_dac_diem_dich_te_lam_sang_va_can_lam_sang_benh_qu.pdf nghien_cuu_dac_diem_dich_te_lam_sang_va_can_lam_sang_benh_qu.pdf