TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá các đặc điểm giải phẫu của động mạch thân tạng và hệ động mạch gan ở người
Việt Nam trường thành bằng X quang cắt lớp vi tính.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, cắt ngang mô tả dựa trên phân tích hình ảnh X quang cắt lớp vi tính
bụng có tiêm thuốc tương phản thì động mạch của 600 bệnh nhân, từ tháng 07/2016 đến 11/2016, tại khoa Chẩn đoán hình ảnh,
bệnh viện Đại học Y Dược TpHCM.
Kết quả: ĐMTT tách từ ĐMCB thay đổi trong khoảng 1/3 dưới T11 đến 1/3 trên L2, với hơn 70% ĐMTT ngang mức 1/3
dưới T12, T12 – L1 và 1/3 trên L1. ĐMTT dạng thường gặp (Uflacker dạng 1) chiếm 87,7% trường hợp, dạng thay đổi chiếm
12,3% trường hợp với dạng thân gan – lách (Uflacker dạng 2) hay gặp nhất chiếm 4,0%. ĐMTT mơ hồ chiếm 3,1%. Nguyên ủy
ĐMG chung từ ĐMTT phổ biến nhất chiếm 92,7%, kế đến là từ ĐMMTTT (4,0%) và từ ĐMCB (1,2%). Hệ ĐMG dạng thường
gặp (Michels dạng 1) chiếm 73%. Hệ ĐMG dạng thay đổi chiếm 27%, Michels dạng 2 phổ biến nhất (7%), kế đến là dạng 3
(5,7%), dạng 9 (3,8%) và các dạng khác. Dạng 10 không có trong nghiên cứu. Có 3,2% trường hợp dạng hệ ĐMG không được
đề cập trong bảng phân loại của Michels. Chiều dài và đường kính trung bình của ĐMTT lần lượt là 28,29 ± 6,68mm và 7,33
± 1,15mm. Khoảng cách trung bình ĐMTT – ĐMMTTT là 20,51 ± 4,17mm. Kích thước ĐMTT ở nữ nhỏ hơn ở nam (p<0,05).
Chiều dài và đường kính trung bình của ĐMG chung lần lượt là 32,43 ± 8,49mm và 5,40 ± 1,04mm. Đường kính trung bình
ĐMG riêng là 4,45 ± 0,87mm. Kích thước ĐMG ở nữ nhỏ hơn ở nam (p<0,05). Trong nhóm có dạng thay đổi giải phẫu, có sự
giảm đường kính các nhánh động mạch; giảm chiều dài ĐMTT; nhưng tăng chiều dài ĐMG chung (p<0,05). Ngoài ra, chúng tôi
còn ghi nhận sự tương quan có ý nghĩa giữa đường kính và chiều dài ĐMTT; chiều dài ĐMTT và khoảng cách đến ĐMMTTT;
đường kính và chiều dài ĐMG chung; đường kính ĐMG chung và đường kính ĐMG riêng (p<0,05).
Kết luận: Nắm vững giải phẫu ĐMTT, hệ ĐMG cũng như các dạng thay đổi thường gặp trong dân số giúp ích trong hỗ
trợ chọn lựa phương pháp điều trị và lên kế hoạch thực hiện phẫu thuật. X quang cắt lớp vi tính là phương tiện không xâm lấn
đáng tin cậy để quan sát rõ các đặc điểm phân bố ĐMTT và hệ ĐMG.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu động mạch thân tạng và hệ động mạch gan ở người trưởng thành bằng X quang cắt lớp vi tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/2019 31
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU ĐỘNG
MẠCH THÂN TẠNG VÀ HỆ ĐỘNG MẠCH
GAN Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH BẰNG X
QUANG CẮT LỚP VI TÍNH
Anatomical study of celiac artery and hepatic arterial
system in adults: an analysis using multidectector
computed tomography
Cao Trọng Văn*, Võ Tấn Đức**
* Bác sĩ nội trú
** Bộ môn Chẩn Đoán Hình Ảnh,
Đại học Y Dược TPHCM
Objectives: The aim of the present study was to evaluate the anatomical
chacracteristics of celiac artery (CA) and hepatic arterial system (HAS) in
Vietnamese adults by using multidetector computed tomography (MDCT).
Materials and Methods: Retrospective, cross-sectional and
predominantly descriptive study based on the analysis of arterial phase
contrast-enhanced CT images of 600 patients between July 2016 and
November 2016, at the Radiology Department, University Medical
Center, Ho Chi Minh City (UMC HCMC).
Results: The CA arises variably from the aorta at the level between
lower 1/3 11th thoracic and upper 1/3 2nd lumbar vertebrae with more
than 70% at the level of lower 1/3 12th thoracic, T12 – L1 junction and
upper 1/3 1st lumbar vertebra. The celiac trunk anatomy was normal
(Uflacker type 1) in 87.7% of cases and variation of CA was observed
in 12.3% with the form of hepatosplenic trunk (Uflacker type 2) was the
most common type (4.0%). Ambiguous celiac axis anatomy was seen
in 3.1% of patients. CHA originated from celiac axis in 92.7% of cases,
followed by SMA (4.0%) and aorta (1.2%). The HAS was described as
normal (Michels type 1) in 73% of patients and several variations were
noted in 23%. The most common variation was Michels type 2 (7.0%),
followed by type 3 (5.7%), type 9 (3.8%) and others. Type
10 was not observed in our series. We have noted additional,
unclassified variations in 19 cases (3.2%). Mean length and diameter of
CA were 28.29 ± 6.68mm and 7.33 ± 1.15mm. Mean distance between
CA and SMA was 20.51 ± 4.17mm. Normal measures of CA in women
were smaller than in men (p<0.05). Mean length and diameter of CHA
were 32.43 ± 8.49mm and
5.40 ± 1.04mm. Mean diameter of PHA was 4.45 ± 0.87mm. Normal
measures of hepatic artery in women were smaller than in men (p<0.05). In
the presence of anatomical variations, there was a decrease in the arterial
diameters of the CA and HAS, decrease in the CA length, but increase in
CHA length (p<0.05). In addition, a significant correlation was observed
between CA diameter and length; CA diameter and distance to SMA; CHA
diameter and length; and CHA diameter and PHA diameter (p<0.05).
Conclusion: The knowledge of anatomic characteristics of the
celiac artery and hepatic arterial system, including the most common
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/201932
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thực hành lâm sàng hằng ngày, kiến thức
về giải phẫu động mạch thân tạng (ĐMTT) và hệ động
mạch gan (ĐMG) đóng vai trò quan trọng không chỉ với
các phẫu thuật viên chuyên ngành gan – mật - tụy khi
thực hiện các phẫu thuật vùng bụng như cắt gan, cắt túi
mật nội soi, phẫu thuật ghép gan, mà còn quan trọng với
các bác sĩ trong lĩnh vực can thiệp nội mạch khi kiểm soát
tình trạng chảy máu, thuyên tắc động mạch bằng hóa chất
trong điều trị ung thư tế bào gan, điều trị các trường hợp
phình mạch tạng. Tuy nhiên, sự xuất hiện các biến thể giải
phẫu ĐMTT và hệ ĐMG có thể dẫn đến chẩn đoán sai,
khó khăn trong lúc phẫu thuật và còn làm gia tăng nguy
cơ biến chứng sau phẫu thuật. Vì vậy, nắm vững các đặc
điểm giải phẫu cũng như các dạng thay đổi hay gặp nhất
của ĐMTT và hệ ĐMG góp phần quan trọng để lên kế
hoạch tiến hành phẫu thuật hoặc can thiệp [4], [5], [10].
Chụp mạch số hóa xóa nền vẫn là tiêu chuẩn
vàng để quan sát cấu trúc của mạch máu trong ổ bụng.
Tuy nhiên, kỹ thuật chụp X quang cắt lớp vi tính ngày
càng được sử dụng rộng rãi để khảo sát đặc điểm hình
thái và sự phân bố mạch máu ổ bụng trước phẫu thuật
do các ưu điểm mạnh về tính không xâm lấn, thời gian.
II. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu hồi cứu, cắt ngang mô tả dựa trên
phân tích hình ảnh CT bụng có tiêm thuốc tương phản
thì động mạch sẵn có của những bệnh nhân ≥ 18 tuổi
được chụp tại khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Đại
học Y Dược TPHCM từ tháng 07/2016 đến 11/2016.
Mẫu nghiên cứu gồm 600 đối tượng (274 nam và
226 nữ), tuổi từ 18 đến 93 tuổi (trung bình 55 tuổi).
Bệnh nhân có bệnh lý làm ảnh hưởng kích thước ĐMTT
và hệ ĐMG như phình/bóc tách động mạch, bệnh lý xơ
vữa đóng vôi, các bệnh lý gan (áp xe gan, viêm gan
mạn, xơ gan, u gan,), tiền sử phẫu thuật gan, lách,
dạ dày hoặc đã được can thiệp nội mạch đặt stent, chất
lượng hình ảnh kém được loại khỏi nghiên cứu.
Hình ảnh CT bụng lấy từ hệ thống máy MDCT
128 (Light speed VCT - GE healthcare Mỹ, Somatom
Definition - Siemens) và MDCT 64 (Light speed VCT – GE
healthcare Mỹ, Somatom Definition – Siemens). Thuốc
tương phản được sử dụng là thuốc cản quang không ion
hóa (Omnipaque) nồng độ 350mg/ml, tốc chụp nhanh, các
phần mềm xử lý hiện đại cho phép quan sát hình ảnh đẹp
và rõ nét từ nhiều hướng khác nhau, giúp phác họa chính
xác và chi tiết các đặc điểm mạch máu nhỏ, đánh giá mối
tương quan giữa mạch máu và tổn thương nếu có [4].
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục đích
mô tả giải phẫu ĐMTT và hệ ĐMG ở người trưởng thành
trên hình ảnh X quang cắt lớp vi tính, bao gồm các đặc
điểm về dạng phân nhánh ĐMTT và hệ ĐMG, cũng như
các số đo kích thước bình thường của các động mạch
này. Độ tiêm 3 - 4 ml/giây, liều 1,5 - 2 ml/kg, hệ thống
bơm tự động 18 - 20G. Các thông số cài đặt trên máy
về quy trình chụp được tóm tắt trong Bảng 1. Để xác
định nguyên ủy, dạng phân nhánh của động mạch và
thực hiện đo đường kính, chiều dài của ĐMTT, khoảng
cách ĐMTT - ĐMMTTT, đường kính của ĐMG chung và
ĐMG riêng, chúng tôi sử dụng các hình ảnh chụp ở thì
động mạch sớm (bằng kỹ thuật Bolus - tracking) hoặc
động mạch muộn (30 - 35 giây sau tiêm thuốc) với các
phần mềm tái tạo MIP, MPR, CPR và VRT của hệ thống
Carestream Vue Motion. Dạng phân nhánh ĐMTT được
mô tả theo phân loại của Uflacker (gồm 8 nhóm), còn
dạng phân nhánh hệ ĐMG được mô tả theo phân loại
của Michels (gồm 10 nhóm). Kích thước trình bày dưới
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, đơn vị milimet (mm).
Số liệu được xử lý, phân tích bằng phần mềm
thống kê SPSS version 20. Giá trị p<0,05 được xem là
có ý nghĩa thống kê.
variations of these arteries in population may assist in the selection of
treatmen options và surgical planning. As a reliable non invasive method,
MDCT can accurately provide detailed information of celiac artery and
hepatic arterial system.
Keywords: Anatomical variations; Celiac artery (CA); Hepatic
arterial system (HAS); Common hepatic artery (CHA), Proper hepatic
artery (PHA); Multidetector computed tomography (MDCT).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/2019 33
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 1. Các thông số chụp XQCLVT mạch máu
FOV Thời gian Pitch Độ dày lát cắt kVp mA Độ dày ảnh tái tạo
Toàn bộ gan 30 – 35s 1,4 0,6mm 120 200 – 210 1mm
Định nghĩa các mốc giải phẫu:
ĐMTT điển hình: thân động mạch cho các nhánh
ĐMG chung, ĐM vị trái và ĐM lách.
ĐMTT mơ hồ: không tồn tại ĐMG chung hoặc tồn
tại kênh thông nối giữa ĐMTT với ĐMMTTT hoặc kênh
thông nối giữa ĐMG chung với ĐMMTTT.
ĐMG chung: thân động mạch chứa ít nhất một
nhánh ĐMG và ĐM vị tá, không xét đến nguyên ủy và
lộ trình giải phẫu.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
1. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU ĐMTT
Nguyên ủy ĐMTT
Không tồn tại ĐMG chung: ĐM vị tá xuất phát
độc lập với hai ĐMG.
ĐMG thay thế: nhánh động mạch cấp máu cho
gan xuất phát từ một vị trí không chính thống và là
nhánh duy nhất cấp máu cho thùy gan.
ĐMG phụ: nhánh động mạch cấp máu cho gan
xuất phát từ một vị trí khác bên cạnh vị trí chính thống.
Bảng 2. So sánh vị trí nguyên ủy ĐMTT trong các nghiên cứu
Chúng tôi
Nguyên ủy (n=600)
%
Garima
Sehgala [6]
(n= 48)
M. Hafezji [7]
(n=50)
Panagouli [11]
(n=61)
Pinal Garcia
[12] (n=140)
% % % %
T10 - - - 6,56 0,7
T10 – T11 - - - 1,64 -
T11 0,2 - - 11,48 5,6
T11 – T12 0,3 2,08 12 - 3,6
T12 37,6% 29,17% 40% 26,23% 47,9%
T12 – L1 24,8% 45,83% 32% 13,11% 13,6%
L1 31,4% 22,92% 12% 36,06% 28,6%
L1 – L2 2,5 - 4 - -
1/3 trên L2 0,3 - - - -
Không tồn tại ĐMTT 0,7 4,17 - - -
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ĐMTT
xuất phát từ ĐMCB ngang mức đốt sống từ 1/3 dưới
T11 đến 1/3 trên L2, thấp hơn so với người nước ngoài.
Tuy nhiên, nguyên ủy ĐMTT hay gặp nhất ngang mức
T12 (37,6%), T12 – L1 (24,8%) và L1 (32,4%), tương
tự với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Trong
kỹ thuật chụp mạch, bác sĩ can thiệp thường xác định
ĐMTT dựa trên mức đốt sống tương ứng, nên biết các
vị trí thường gặp giúp chọn quá trình chọn lọc mạch
máu dễ dàng hơn.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/201934
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Dạng phân nhánh ĐMTT
Bảng 3. Dạng phân nhánh của ĐMTT theo Uflacker
Dạng phân
nhánh
1
(%)
2
(%)
3
(%)
4
(%)
5
(%)
6
(%)
7
(%)
8
(%)
(*)
(%)
Chúng tôi 87,7 4,0 - 0,3 3,0 1,2 - 0,7 3,1
Lê Văn Cường [2] 74,1 16,1 3,2 6,4 1,6 -
Trần Sinh Vương [3] 81,4 2,8 1,4 - 7,2 5,8 - 1,4 -
Osman và cs [18] 90,5 2,8 0,6 - 4,3 0,6 - 1 0,2
Urugel và cs [16] 89 3 1 1 4 - - 1 1
Song và cs [13] 89,1 4,44 0,18 0,68 2,86 1,06 - 0,1 1,58
Sureka và cs[14] 91 2,83 - 0,16 1,49 0,66 - - 3,5
(*) Không đề cập
Dựa theo bảng phân loại ĐMTT của Uflacker,
chúng tôi ghi nhận dạng thường gặp (Uflacker dạng 1)
chiếm 87,7% và tỉ lệ biến thể ĐMTT là 12,3%, tương tự
với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Dạng thay
đổi phổ biến nhất là thân gan – lách (Uflacker dạng 2)
chiếm 4,0%, kế là thân vị - lách (Uflacker dạng 5) chiếm
3,0%. Kết quả này tương tự với các công trình nghiên
cứu của tác giả Lê Văn Cường [2], Song và cs [13],
Sureka và cs [14]. Khi so sánh với tác giả Trần Sinh
Vương [3], Osman và cs [18], Urugel và cs [16] thì có
chút khác biệt, dạng 2 (thân gan – lách) và dạng 5 (thân
vị - lách) vẫn là hai dạng thay đổi thường gặp, nhưng
dạng 5 hay gặp hơn dạng 2. Thân gan – vị (Uflacker
dạng 3) và thân tạng – kết trạng (Uflacker dạng 7)
không tìm thấy trong
Kích thước ĐMTT
Chiều dài và đường kính trung bình của ĐMTT
trong nghiên cứu của chúng tôi lần lượt là 28,29 ±
6,68mm và 7,33 ± 1,15mm. Khoảng cách trung bình
ĐMTT – ĐMMTTT là 20,51 ± 4,17mm. Khi so sánh sự
khác biệt theo giới nghiên cứu của chúng tôi, các dạng
còn lại hiếm gặp hơn với tỷ lệ < 2%. Chúng tôi còn
ghi nhận các dạng ĐMTT không có trong mô tả của
Uflacker trong nghiên cứu, được xếp vào dạng ĐMTT
mơ hồ theo khái niệm đề xuất từ kết quả nghiên cứu
của Song và cs (2010) [13]. Tác giả Song đã đề ra
khái niệm ĐMTT mơ hồ là các trường hợp không tồn
tại ĐMG chung hoặc tồn tại kênh thông nối giữa ĐMG
chung và ĐMMTTT hoặc giữa ĐMTT và ĐMMTTT),
từ đó ghi nhận thêm dạng thay đổi ĐMTT mới. Tỉ lệ
dạng này theo nghiên cứu của Song và cs là 1,26%
[13], theo Sureka và cs là 3,5% [14], còn trong nghiên
cứu của chúng tôi là 3,1% (trong đó 2,3% không tồn
tại ĐMG chung và 0,8% có tồn tại kênh thông nối).tính,
kích thước ĐMTT ở nữ nhỏ hơn nam (p<0,05). Khi so
sánh sự khác biệt theo dạng giải phẫu, các kíchthước
ĐMTT ở nhóm có thay đổi giải phẫu nhỏ hơn kích
thước ĐMTT ở nhóm có dạng thường gặp (p<0,05). Do
đó, cần lưu ý có biến thể giải phẫu khi kích thước các
động mạch này nhỏ và ngược lại.
Có sự tương quan thuận, mức độ yếu giữa chiều
dài và đường kính ĐMTT (r=0,109; p<0,05), giữa chiều
dài ĐMTT và khoảng cách ĐMTT – ĐMMTTT (r=0,185;
p<0,05).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/2019 35
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU HỆ ĐỘNG MẠCH GAN Nguyên ủy ĐMG chung
Bảng 4. So sánh nguyên ủy ĐMG chung giữa các nghiên cứu
Nguyên ủy
Chúng tôi
(n=600)
Lê Văn
Cường
[1]
Trần Sinh
Vương
(n=65) [3]
Sureka
(n=600)
[14]
Song
(n=5002)
[13]
Từ ĐMTT Chia hainhánh tận 76,5% 90,2% 81,5% 95,83% 96,3%
Chia ba
nhánh tận
16,2% 9,2%
Từ ĐMCB 1,0% - 1,5% 0,3% 0,4%
Từ ĐMMTTT 4,0% 6,4% 4,6% 1% 3%
Từ ĐM vị trái - - - - 0,16%
Không xác định 2,3% - - 2,16% 1,01%
Qua khảo sát, nguyên ủy ĐMG chung xuất phát
từ ĐMTT có tỷ lệ cao nhất (92,7%) với dạng ĐMTT chia
thành hai nhánh tận ĐMG chung và ĐM lách chiếm ưu
thế hơn (76,5%). Kết quả này tương tự với các kết quả
của các tác giả Lê Văn Cường [1], Trần Sinh Vương [3]
và hơi thấp hơn kết quả của các nghiên cứu của Sureka
[14] (95,83%) và Song [13] (96,3%). Vị trí nguyên ủy
ĐMG chung thường gặp thứ hai trong nghiên cứu của
chúng tôi là ĐMG chung xuất phát từ ĐMMTTT (chiếm
4%), kế đến là ĐMCB (1,0%), Kết quả này khá tương
đồng với kết quả của tác giả Lê Văn Cường [2], Trần
Sinh Vương [3], nhưng cao hơn kết quả nghiên cứu
của Sureka và cs [14], Song và cs [13]. Ngoài ra, chúng
tôi còn ghi nhận 2,3% trường hợp không tồn tại ĐMG
chung do sự xuất phát riêng biệt của hai ĐMG và ĐM
vị tá.
Dạng phân nhánh hệ ĐMG
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hệ ĐMG dạng
thường gặp (Michels dạng 1) chiếm 73%, và dạng
thay đổi (biến thể) chiếm 27%, tương tự với kết quả
các công trình nghiên cứu trước. Trong số biến thể,
dạng ĐMG thay thế thường gặp hơn dạng ĐMG phụ,
trong đó ĐMG trái từ ĐM vị trái (Michels dạng 2) là dạng
thường gặp nhất (7,0%), kế đến là ĐMG phải từ
ĐMMTTT (Michels dạng 3) (5,7%), kết quả này hơi khác
Hình 1. ĐMG trái thay thế và ĐMG phải thay thế Hình 2. Không tồn tại ĐMTT
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/201936
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
so với nghiên cứu của các tác giả nước ngoài khi dạng
hệ ĐMG thường gặp nhất là Michels dạng 3, kế đến là
Michels dạng 2. Hai dạng ĐMG thay thế khác chiếm tỉ
lệ thấp hơn trong nghiên cứu của chúng tôi là ĐMG trái
và ĐMG phải thay thế (Michels dạng 4) (2,3%) và ĐMG
chung thay thế từ ĐMMTTT (Michels dạng 9) (3,8%).
Việc xác định sự hiện diện ĐMG thay thế có ý
nghĩa lâm sàng rất quan trọng. Cụ thể, khi có hiện diện
ĐMG trái thay thế từ ĐM vị trái, cần thận trọng trong
phẫu thuật cắt dạ dày vì có thể dẫn đến thiếu máu toàn
bộ thùy trái gan khi cắt ĐM vị trái; trước khi phẫu thuật
cắt gan trái, dạng thay đổi này phải được phát hiện và
buộc thắt. Xác định sự hiện diện ĐMG phải thay thế từ
ĐMMTTT cũng rất quan trọng ở những bệnh nhân phải
cắt khối tá – tụy do ung thư đầu tụy hoặc mỏm móc tụy.
Nếu tổn thương liên quan đến ĐMG phải thay thế này
thì không thể tiến hành phẫu thuật, còn nếu chưa liên
quan thì cần bóc tách cẩn thận để tránh tổn thương
động mạch này. Trong trường hợp ĐMG chung xuất
phát từ ĐMMTTT, ĐM này thường nằm sâu phía sau
tĩnh mạch cửa, khác với nhóm có dạng thường gặp
(Dạng 1) là ĐM này nằm phía trước tĩnh mạch cửa và
trong dây chằng gan – tá tràng. Vì vậy, cần phải nắm
vững các dạng thay đổi này để tránh tổn thương
lúc phẫu thuật [5], [8], [17].
Bảng 5. Dạng phân nhánh hệ ĐMG theo Michels
Dạng phân
nhánh
Chúng tôi
Koops và cs
[9]
Osman và cs
[18]
Thangarajah và cs
[15]
n=600
MDCT 64, 128
n=604
DSA
n=1000
MDCT 16
n=820
MDCT 64
1 73,0 79,1 74,2 66,8
2 7,0 2,5 3,0 4,7
3 5,7 8,6 12,5 10,1
4 2,3 1,0 - 0,7
5 2,3 0,5 5,2 7,3
6 1,3 3,3 1,1 3,4
7 0,2 0,2 0,6 1,21
8 1,2 0,2 1 2,3
9 3,8 2,8 2,3 1,8
10 - - - -
Không đề cập 3,2 1,8 0,1 1,5
Dạng ĐMG phụ thường gặp mà chúng tôi quan
sát được là ĐMG trái phụ từ ĐM vị trái (Dạng 5) (2,3%),
dạng này cũng chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong nghiên cứu
của Osman [18], Thanragajah [15]. ĐMG phải phụ từ
ĐMMTTT (Dạng 6) và dạng kết hợp giữa ĐMG phụ và
ĐMG thay thế (Dạng 8) chiếm tỷ lệ tương đương trong
nhóm chúng tôi (1,2 – 1,3%). Tỷ lệ dạng này thay đổi
từ 0,2 -3,4% trong các nghiên cứu nước ngoài. Như
vậy, chúng tôi chưa xác định một cách gần đúng nhất
tỷ lệ của hai dạng này, cần nghiên cứu tiếp. Sự hiện
diện cả ĐMG trái phụ và ĐMG phải phụ (Dạng 7) hiếm
gặp, chiếm tỷ lệ thấp trong nghiên cứu của chúng tôi
cũng như nước ngoài. Dạng 10 (ĐMG trái và ĐMG
phải xuất phát từ ĐM vị trái) không thấy trong nghiên
cứu của chúng tôi cũng như nước ngoài. Sự hiện diện
của các ĐMG phụ cung cấp thêm một nguồn máu nuôi
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/2019 37
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
đến thùy gan. Do đó, cần chú ý khi thực hiện kiểm soát
lượng máu nuôi đến một thùy gan nếu có ĐMG phụ
[17]. Ngoài các dạng kể trên, chúng tôi còn ghi nhận 19
(3,2%) trường hợp có dạng hệ ĐMG không theo mô tả
của Michels. ĐMG chung xuất phát từ ĐMCB (1,0%),
ĐMG phải thay thế từ ĐMTT (1%), ĐMG phải thay thế
từ ĐMCB (0,2%), ĐMG phải phụ từ ĐM vị tá (0,2%).
Nhìn chung, ĐMG trái thay thế hoặc ĐMG trái phụ hầu
hết trường hợp đều xuất phát từ ĐM vị trái còn ĐMG
phải thay thế hoặc ĐMG phải phụ có nhiều vị trí nguyên
ủy hơn ngoài ĐMMTTT là nguyên ủy thường gặp nhất
thì ĐMG phải có thể xuất phát từ ĐMTT, ĐMCB hoặc
ĐM vị tá.
Kích thước hệ ĐMG
Bảng 5. Kích thước các nhánh hệ ĐMG
Kích thước Giá trị
Panagouli
(mm)
Trần Sinh Vương
(mm)
Lê Văn Cường
(mm)
Chúng tôi
(mm)
Chiều dài Mean ± SD (*) 24,83 ± 6,5 25,16 32,43 ± 8,49
ĐMG chung
Đường kính Mean ± SD 5 ± 0,4 4,54 ± 0,96 4,8 5,40 ± 1,04
ĐMG chung
Đường kính
ĐMG riêng
Mean ± SD 4,5 ± 0,3 3,27 ± 0,85 3,34 4,45 ± 0,87
(*) Tác giả không đề cập
Kết quả nghiên cứu cho thấy các kích thước trung
bình hệ ĐMG trong nghiên cứu của chúng tôi hơi lớn
hơn kết quả của tác giả Lê Văn Cường và Trần Sinh
Vương. Điều này có thể do sự khác biệt về đối tượng
nghiên cứu và cách đo, các nghiên cứu khác tiến hành
đo đạc trên xác, còn chúng tôi đo trên hình ảnh chụp
XQCLVT của người sống, sử dụng kỹ thuật CPR để
duỗi thẳng các cấu trúc mạch máu ngoằn ngoèo. Mặc
dù kết quả của chúng tôi khá tương ứng với kết quả
của Panagouli và cs [11] nhưng sự so sánh này chỉ
mang tính tương đối vì sự khác biệt về chủng tộc và
đối tượng. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy các số
đo chiều dài ĐMG chung, đường kính ĐMG chung và
đường kính ĐMG riêng ở nữ nhỏ hơn so với nam, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Hình 3. ĐMTT dạng thân tạng – mạc treo
(Uflacker dạng 6)
Hình 4. ĐMG phải thay thế từ ĐMCB
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/201938
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khi khảo sát sự liên quan với tuổi, chiều dài ĐMG
chung tăng theo tuổi (tương quan thuận, mức độ vừa
r=0,302). Chúng tôi còn khảo sát sự khác biệt kích
thước hệ ĐMG giữa dạng thường gặp và dạng thay đổi,
kết quả thu được cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa hai nhóm (p<0,05). Cụ thể, trong nhóm
có dạng thay đổi thì ĐMG chung có chiều dài dài hơn
và đường kính nhỏ hơn so với nhóm có dạng thường
gặp, ĐMG riêng trong nhóm có dạng thay đổi có đường
kính nhỏ hơn so với nhóm có dạng thường gặp. Ngoài
ra, chúng tôi ghi nhận có sự tương quan thuận, mức độ
chặt (r =0,747) giữa đường kính ĐMG chung và ĐMG
riêng; tương quan thuận, mức độ yếu (r=0,122) giữa
đường kính ĐMG chung và chiều dài ĐMG chung.
IV. KẾT LUẬN
Nắm vững giải phẫu ĐMTT, hệ ĐMG cũng như các
dạng thay đổi thường gặp trong dân số giúp ích trong hỗ
trợ chọn lựa phương pháp điều trị và lên kế hoạch thực
hiện phẫu thuật. X quang cắt lớp vi tính là phương tiện
không xâm lấn đáng tin cậy để quan sát các đặc điểm
dạnh phân nhánh và kích thước ĐMTT và hệ ĐMG.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Cường (1994), “Các dạng động mạch gan ở người Việt Nam”, Hình thái học. 4 (1), tr. 4-6.
2. Lê Văn Cường (2012), Các dạng và kích thước động mạch ở người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, TpHCM,
tr. 102 - 148.
3. Trần Sinh Vương (2012), “Nghiên cứu về nguyên ủy, các dạng phân nhánh của động mạch gan ở người Việt
Nam trưởng thành”, Tạp chí Y học thực hành. 817 (4), tr. 73 - 75.
4. Araujo Neto S. A. et al. (2016), “Multidetector computed tomography angiography of the celiac trunk and
hepatic arterial system: normal anatomy and main variants”, Radiol Bras. 49 (1), pp. 49-52..
5. Araujo Neto S. A. et al. (2015), “Anatomical variations of the celiac trunk and hepatic arterial system: an
analysis using multidetector computed tomography angiography”, Radiol Bras. 48 (6), pp. 358-362..
Hình 5. ĐMG trái phụ từ ĐM vị trái và ĐMG
phải thay thế (Michels dạng 8)
Hình 6. ĐMG phải phụ từ ĐMMTTT
(Michels dạng 8
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/2019 39
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
6. Garima Sehgala, A.K. Srivastavab, P.K. Sharmac, Navneet Kumarc, Ragini Singhd, et al. (2013), “Morphometry
of the celiac trunk: a multidetector computed tomographic angiographic study”, Journal of the Anatomical
Society of India. 62, pp. 23 - 27..
7. Hafezji H. M. et al. (2016), “A Study of Morphometric Variations of Celiac Trunk Using Computed Tomographic
Angiography”, Indian Journal of Clinical Anatomy and Physiology 2016. 3, pp. 86-90..
8. Iezzi R. et al. (2008), “Multidetector-row CT angiographic imaging of the celiac trunk: anatomy and normal
variants”, Surg Radiol Anat. 30 (4), pp. 303-310..
9. Koops A. et al. (2004), “Anatomic variations of the hepatic arteries in 604 selective celiac and superior
mesenteric angiographies”, Surg Radiol Anat. 26 (3), pp. 239-244..
10. Mugunthan N. et al. (2016), “Variations in the Origin and Course of Right Hepatic Artery and its Surgical
Significance”, J Clin Diagn Res. 10 (9), pp. Ac01-ac04..
11. Panagouli E. et al. (2011), “A morphometric study concerning the branching points of the main arteries in
humans: relationships and correlations”, Ann Anat. 193 (2), pp. 86-99.
12. Pinal-Garcia D. F. et al. (2018), “The Celiac Trunk and Its Anatomical Variations: A Cadaveric Study”, J Clin
Med Res. 10 (4), pp. 321-329..
13. Song S. Y. et al. (2010), “Celiac axis and common hepatic artery variations in 5002 patients: systematic analysis
with spiral CT and DSA”, Radiology. 255 (1), pp. 278-288..
14. Sureka B. et al. (2013), “Variations of celiac axis, common hepatic artery and its branches in 600 patients”,
Indian J Radiol Imaging. 23 (3), pp. 223-233..
15. Thangarajah A. et al. (2016), “Celiac Axis, Common Hepatic and Hepatic Artery Variants as Evidenced on
MDCT Angiography in South Indian Population”, J Clin Diagn Res. 10 (1), pp. Tc01-05..
16. Ugurel M. S. et al. (2010), “Anatomical variations of hepatic arterial system, coeliac trunk and renal arteries: an
analysis with multidetector CT angiography”, Br J Radiol. 83 (992), pp. 661-667..
17. Farghadani M. et al. (2016), “Anatomical variation of celiac axis, superior mesenteric artery, and hepatic artery:
Evaluation with multidetector computed tomography angiography”, Journal of Research in Medical Sciences :
The Official Journal of Isfahan University of Medical Sciences. 21, pp. 129..
18. Osman A. M. et al. (2016), “Celiac trunk and hepatic artery variants: A retrospective preliminary MSCT report
among Egyptian patients”, The Egyptian Journal of Radiology and Nuclear Medicine. 47 (4), pp. 1451-1458..
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá các đặc điểm giải phẫu của động mạch thân tạng và hệ động mạch gan ở người
Việt Nam trường thành bằng X quang cắt lớp vi tính.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, cắt ngang mô tả dựa trên phân tích hình ảnh X quang cắt lớp vi tính
bụng có tiêm thuốc tương phản thì động mạch của 600 bệnh nhân, từ tháng 07/2016 đến 11/2016, tại khoa Chẩn đoán hình ảnh,
bệnh viện Đại học Y Dược TpHCM.
Kết quả: ĐMTT tách từ ĐMCB thay đổi trong khoảng 1/3 dưới T11 đến 1/3 trên L2, với hơn 70% ĐMTT ngang mức 1/3
dưới T12, T12 – L1 và 1/3 trên L1. ĐMTT dạng thường gặp (Uflacker dạng 1) chiếm 87,7% trường hợp, dạng thay đổi chiếm
12,3% trường hợp với dạng thân gan – lách (Uflacker dạng 2) hay gặp nhất chiếm 4,0%. ĐMTT mơ hồ chiếm 3,1%. Nguyên ủy
ĐMG chung từ ĐMTT phổ biến nhất chiếm 92,7%, kế đến là từ ĐMMTTT (4,0%) và từ ĐMCB (1,2%). Hệ ĐMG dạng thường
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/201940
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
gặp (Michels dạng 1) chiếm 73%. Hệ ĐMG dạng thay đổi chiếm 27%, Michels dạng 2 phổ biến nhất (7%), kế đến là dạng 3
(5,7%), dạng 9 (3,8%) và các dạng khác. Dạng 10 không có trong nghiên cứu. Có 3,2% trường hợp dạng hệ ĐMG không được
đề cập trong bảng phân loại của Michels. Chiều dài và đường kính trung bình của ĐMTT lần lượt là 28,29 ± 6,68mm và 7,33
± 1,15mm. Khoảng cách trung bình ĐMTT – ĐMMTTT là 20,51 ± 4,17mm. Kích thước ĐMTT ở nữ nhỏ hơn ở nam (p<0,05).
Chiều dài và đường kính trung bình của ĐMG chung lần lượt là 32,43 ± 8,49mm và 5,40 ± 1,04mm. Đường kính trung bình
ĐMG riêng là 4,45 ± 0,87mm. Kích thước ĐMG ở nữ nhỏ hơn ở nam (p<0,05). Trong nhóm có dạng thay đổi giải phẫu, có sự
giảm đường kính các nhánh động mạch; giảm chiều dài ĐMTT; nhưng tăng chiều dài ĐMG chung (p<0,05). Ngoài ra, chúng tôi
còn ghi nhận sự tương quan có ý nghĩa giữa đường kính và chiều dài ĐMTT; chiều dài ĐMTT và khoảng cách đến ĐMMTTT;
đường kính và chiều dài ĐMG chung; đường kính ĐMG chung và đường kính ĐMG riêng (p<0,05).
Kết luận: Nắm vững giải phẫu ĐMTT, hệ ĐMG cũng như các dạng thay đổi thường gặp trong dân số giúp ích trong hỗ
trợ chọn lựa phương pháp điều trị và lên kế hoạch thực hiện phẫu thuật. X quang cắt lớp vi tính là phương tiện không xâm lấn
đáng tin cậy để quan sát rõ các đặc điểm phân bố ĐMTT và hệ ĐMG.
Từ khoá: Biến thể giải phẫu; Động mạch thân tạng (ĐMTT); Động mạch gan chung (ĐMG chung); Động mạch gan riêng
(ĐMG riêng); X quang cắt lớp vi tính (XQCLVT).
Ngày nhận bài: 20/12/2018. Ngày chấp nhân đăng: 20/2./2019
Người liên hệ: Cao Trọng Văn, email: trongvan248@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_dac_diem_giai_phau_dong_mach_than_tang_va_he_dong.pdf