Đối với chấn thương cột sống cổ cao, với cơ chế
gập ép gập, chúng tôi ghi nhận được 4 trường hợp
bao gồm gãy cung trước C1 đơn thuần, gãy mỏm nha
C2 loại II, gãy mỏm nha C2 loại III, gãy Hangman C2.
Khi đối chiếu sự phù hợp chẩn đoán của X quang và
cắt lớp vi tính, chúng tôi nhận thấy có ¾ trường hợp X
quang giúp chẩn đoán có tổn thương cột sống cổ trên
phim (2 trường hợp chẩn đoán phù hợp cắt lớp vi
tính, một trường hợp nghi ngờ gãy và đã được chứng
minh gãy trên cắt lớp vi tính). Như vậy, X quang góp
phần quan trọng trong việc chẩn đoán và định hướng
xử trí lâm sàng, có chỉ định phù hợp tiếp theo là chụp
cắt lớp vi tính trong trường hợp nghi ngờ tổn thương
phức tạp, hoặc trong trường hợp đa chấn thương
[10]. Việc phát hiện sớm tổn thương các đốt sống
cổ cao, nhất là các tổn thương làm di lệch, mất vững
cột sống cổ rất có ý nghĩa vì đây là những thương tổn
nguy hiểm, dễ dẫn đến di chứng thần kinh nghiêm
trọng, hoặc nặng hơn là hôn mê do tổn thương thân
não, tử vong [11], [13].
Đối với tổn thương đốt sống cổ thấp, khi so sánh
từng tổn thương phát hiện trên X quang và cắt lớp vi
tính, chúng tôi nhận thấy tổn thương trật (bao gồm
trật đốt sống đơn thuần, gãy trật thân đốt sống, trật
mấu khớp) có tỉ lệ phát hiện trên X quang và cắt lớp
vi tính khá cao lần lượt ở các tổn thương là 7/7, 6/9,
và 2/2. Điều này có ý nghĩa, nhất là ở tuyến y tế cơ
sở không có cắt lớp vi tính hoặc trước khi có hình
ảnh chụp cắt lớp vi tính. Với chẩn đoán trật, X quang
giúp định hướng tổn thương, dự đoán các khả năng
xảy ra để có hướng xử trí thích hợp và chỉ định các
kỹ thuật hình ảnh tiếp theo hợp lý. Cộng hưởng từ
được chỉ định tiếp theo X quang để khảo sát tủy sống,
dây chằng, đĩa đệm vì có thể tổn thương trong chấn
thương trật [4].
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 37 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh X quang và cắt lớp vi tính cột sống trong chấn thương cột sống cổ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
12
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH X QUANG VÀ CẮT LỚP
VI TÍNH CỘT SỐNG TRONG CHẤN THƯƠNG CỘT SỐNG CỔ
Nguyễn Hoàng Minh Thi, Nguyễn Thanh Thảo
Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh - Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Chấn thương cột sống cổ là một tổn thương nặng, phức tạp bao gồm thương tổn ở xương
cột sống và tủy cổ. Chẩn đoán mức độ tổn thương rất cần thiết để giúp lựa chọn phương pháp xử lý hiệu
quả. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh X quang, cắt lớp vi tính của cột sống cổ trong chấn thương và phân
tích giá trị phù hợp của X quang đối với cắt lớp vi tính trong chấn thương cột sống cổ. Đối tượng và phương
pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 33 bệnh nhân được chẩn đoán tổn thương cột sống trên
cắt lớp vi tính tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 08/2014 đến
tháng 08/2015. Kết quả: Độ tuổi trung bình 43. Nam nhiều hơn nữ (gấp 4,5 lần). Nguyên nhân chính gây
chấn thương cột sống cổ là tai nạn giao thông và tai nạn lao động. Tổn thương một tầng chiếm tỉ lệ cao nhất
(90,90%), tổn thương nhiều tầng chiếm tỉ lệ thấp 9,10%. C5-C6 là vị trí hay gặp nhất trong chấn thương cột
sống cổ. Có 4/33 trường hợp tổn thương đốt sống cổ cao (trong đó 2 trường hơp X quang chẩn đoán phù
hợp với cắt lớp vi tính. 1 trường hợp nghi ngờ gãy trên X quang đã xác định có thương tổn trên cắt lớp vi tính.
1 trường hợp X quang không chẩn đoán được tổn thương. 29/33 trường hợp tổn thương đốt sống cổ thấp
(gãy thân và/hoặc gãy cung sau); trong đó các kiểu gãy vỡ nhiều mảnh, gãy trật, gãy vỡ đơn giản phát hiện
trên cắt lớp vi tính nhiều hơn X quang, p<0,05. Khả năng phù hợp chẩn đoán giữa X quang và cắt lớp vi tính
trong tổn thương thân đốt sống cổ thấp ở mức độ trung bình (<0,41< K= 0,598 <0,6). Tỉ lệ phát hiện các kiểu
gãy cung sau trong chấn thương cột sống cổ thấp ở cắt lớp vi tính cao hơn X quang, nhất là gãy mảnh sống và
gãy phối hợp nhiều vị trí, p>0,05. Không có sự phù hợp chẩn đoán giữa X quang và cắt lớp vi tính trong tổn
thương cung sau, K= 0,115 <0,2. Kết luận: X quang cột sống cổ vẫn còn giá trị trong thực hành lâm sàng đối
với các cơ sở y tế chưa được trang bị máy móc hiện đại đặc biệt trong chấn thương gãy mỏm nha C2 typ 2,
gãy Hangman và tổn thương trật đốt sống bên cạnh việc sử dụng cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ cột sống cổ
trong chấn thương.
Từ khóa: Cột sống cổ; Chấn thương; Đặc điểm hình thái.
Abstract
CONVENTIONAL X-RAY AND COMPUTED TOMOGRAPHY
FINDINGS OF CERVICAL SPINE TRAUMA
Nguyen Hoang Minh Thi, Nguyen Thanh Thao
Hue University of Medicine and Pharmacy
Background: Cervical spine trauma is a serious and complicated injury, affects both spine and spine cord.
Evaluation of cervical spine trauma is crucial for selecting effective treatment methods. Purposes: To describe
characteristics on X-ray and CT scanner of the cervical spine in trauma and to evaluate the value of X-ray for
the cervical spine trauma. Materials and Method: A cross-sectional study of 33 patients with cervical spine
injury seen on CT from 08/2014 to 08/2015 at Hue Central Hospital and Hue University Hospital. Results:
Average age was 43 years. The majority was males (the ratio was 4.5). The most common reason of injury
were motor vehicle crashes and labor accidents. The most common site of injury was C5 - C6 level. There were
4/33 cases of upper cervical spine fractures and there were 29/33 cases of lower cervical spine fractures, in
which blunt fracture, dislocation fracture, simple fracture were mainly identified on CT than on X-ray, p <0.05.
The Kappa value for measuring the realiability between X-ray and CT in findings of body spine fractures was
moderate (0.41 < K = 0.598 < 0.6). The ratio in finding posterior arch of lower cervical spine fractures on CT
were higher than on X-ray, particularly in laminar frature and multiple sites fracture. There was no diagnostic
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hoàng Minh Thi, email: nguyenhoangminhthi@gmail.com
Ngày nhận bài: 2/9/2016; Ngày đồng ý đăng: 20/10/2016; Ngày xuất bản: 25/10/2016
13
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
suitability between X-ray and CT in detecting posterior arch of lower cervical spine fractures, K= 0.115 < 0.2.
Conclusion: X-ray is still valuable in clinical practice in medical facilities that have not been equipped with
modern specialized equipment in odontoid fracture type 2, Hangman fracture and dislocated injuries besides
using CT and MRI.
Key words: Cervical vertebrate; Trauma; Morphologic characteristics.
-----
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương cột sống cổ là một tổn thương
nặng, phức tạp bao gồm thương tổn cả phần xương
cột sống lẫn phần tủy cổ và có thể để lại các di chứng
nặng nề ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt của
bệnh nhân. Hiện nay, việc sử dụng các phương tiện
giao thông ngày càng nhiều, tỉ lệ tai nạn giao thông
nghiêm trọng ngày càng tăng, mặt khác ý thức của
người điều khiển phương tiện giao thông lại thấp
dẫn đến tăng tỉ lệ mắc và mức độ nặng của chấn
thương nói chung và chấn thương cột sống cổ nói
riêng. Do vậy, việc chẩn đoán mức độ tổn thương
là rất cần thiết để giúp lựa chọn phương pháp xử lý
hiệu quả. Việc sử dụng hai kỹ thuật X quang thường
quy và cắt lớp vi tính là biện pháp chẩn đoán có
hiệu quả thực sự trong đánh giá phần xương nhưng
hạn chế trong khảo sát phần tủy. Tuy nhiên, việc
phối hợp hai kỹ thuật này vẫn còn giá trị trong thực
hành lâm sàng đối với các cơ sở y tế chưa được
trang bị máy móc hiện đại. Vì vậy, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu: Mô tả đặc
điểm hình ảnh X quang, cắt lớp vi tính của cột sống
cổ trong chấn thương từ đó phân tích giá trị phù
hợp của X quang đối với cắt lớp vi tính trong chấn
thương cột sống cổ.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, chọn mẫu
thuận tiện, thực hiện trên 33 bệnh nhân được chẩn
đoán tổn thương cột sống trên cắt lớp vi tính tại Bệnh
viện Trung ương Huế và Bệnh viện Trường Đại học
Y Dược Huế từ tháng 08/2014 đến tháng 08/2015,
có phim X quang cột sống cổ thẳng, nghiêng và có
thể kèm theo phim X quang tư thế há miệng trong
trường hợp nghi ngờ gãy mỏm nha. Chúng tôi loại
trừ những trường hợp dị dạng cột sống-tủy sống cổ,
có chấn thương hay phẫu thuật cột sống cổ trước
thời gian nghiên cứu, có bệnh lý cột sống khác kết
hợp như bị gãy trật do bệnh lý, loãng xương, lao
xương, u xương.
Protocol kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính cột sống cổ:
cắt xoắn ốc từ nền sọ đến xuống bờ dưới cột sống
T1. Bề dày lát cắt 3 mm. Pitch 1,5. Đặt hướng vuông
góc với mặt bàn và quét xoắn ốc liên tục, tái tạo các
mặt phẳng coronal và sagittal, khoảng cách 1-1,5
mm. Trường quan sát 220 – 250 mm. Các thông số:
110 KV, 100-120 mAs. Đặt cửa sổ mô mềm: 50 - 350
HU, cửa sổ xương ≥1000 HU [6].
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu
Tuổi trung bình 43, (trong đó lứa tuổi từ 19-59
chiếm tỉ lệ 84,8%); chấn thương xảy ra chủ yếu ở
bệnh nhân nam chiếm 81,8% và tập trung vào nhóm
công nhân nông dân 69,7%. Nguyên nhân chính gây
chấn thương cột sống cổ là tai nạn giao thông và tai
nạn lao động. Trong mẫu nghiên cứu, tổn thương
một tầng chiếm tỉ lệ cao nhất (90,90%), tổn thương
nhiều tầng chiếm tỉ lệ thấp 9,10%. C5-C6 là vị trí hay
gặp nhất trong chấn thương cột sống cổ.
3.2. Đặc điểm hình ảnh X quang cột sống trong chấn thương cột sống cổ
Bảng 1. Phát hiện tổn thương trên X quang
Tổn thương Số lượng Tỉ lệ (n/33) (%)
Mất đường cong sinh lý 17 51,5
Đường gãy xương 13 39,4
Thay đổi khoảng gian đĩa, khớp 11 33,3
Tăng độ dày phần mềm trước cột sống 10 30,3
Dấu hiệu mất đường cong sinh lý được phát hiện cao nhất trên X quang 51,5%
14
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 2. Phân bố kiểu gãy đốt sống trong phát hiện đường vỡ xương trên X quang
Kiểu tổn thương Số lượng (n) Tỉ lệ (n/13)
Gãy lún 1 1/13
Gãy trật 8 8/13
Gãy vỡ đơn thuần 2 2/13
Gãy mỏm gai 1 1/13
Gãy mấu khớp 1 1/13
Tổng 13 13/13
Tỉ lệ gãy trật có đường gãy trên X quang chiếm cao nhất 8/13 trường hợp, gấp 4 lần so với gãy vỡ đơn
thuần và gấp 8 lần so với các chấn thương gãy lún, gãy vỡ đơn thuần, gãy mỏm gai, mấu khớp.
Bảng 3. Liên quan giữa thay đổi khoảng gian, đĩa khớp với kiểu tổn thương thân đốt sống trên X quang
Kiểu tổn thương thân đốt sống*
Thay đổi khoảng gian đĩa khớp
Tổng
Có Không
Gãy lún 1 0 1
Gãy trật 5 3 8
Gãy vỡ đơn thuần 0 2 2
Trật đơn thuần 5 3 8
Không gãy 0 14 14
Tổng 11 22 33
Tỉ lệ gãy trật và trật đơn thuần có thay đổi khoảng gian đĩa khớp trên X quang bằng nhau và chiếm cao
nhất 5/33 mỗi trường hợp, p= 0,00001 < 0,05, X2= 16,125.
Bảng 4. Liên quan giữa tăng độ dày phần mềm trước sống với kiểu tổn thương thân đốt sống trên X quang
Kiểu tổn thương thân đốt sống*
XQ dày phần mềm trước sống
Tổng
Có Không
Gãy lún 1 0 1
Gãy trật 5 3 8
Gãy vỡ đơn thuần 0 2 2
Trật đơn thuần 4 4 8
Không gãy 0 14 14
Tổng 10 23 33
Tỉ lệ gãy trật và trật đơn thuần có dấu hiệu dày phần mềm trước sống trên X quang chiếm cao nhất 9/33
trường hợp, p= 0,001< 0,05, X2=14,653.
*Kiểu gãy đốt sống n= 13, tuy nhiên gãy mấu khớp và gãy mỏm gai không thuộc kiểu tổn thương thân đốt
sống nên mẫu tổng của kiểu tổn thương thân đốt sống trên bảng 3 và 4 là n=11.
3.3. Đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính cột sống trong chấn thương cột sống cổ
Bảng 5. Hình ảnh lệch trục và trượt đốt sống trên cắt lớp vi tính
Kiểu tổn thương Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
Thẳng trục 13 39,4
Trượt 13 39,4
Gập góc 1 3,0
Trượt gập 6 18,2
Tổng 33 100
15
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Chấn thương gây trượt và trượt gập đốt sống chiếm tỉ lệ cao nhất 57,6%. Chấn thương gây gập góc chiếm
tỉ lệ thấp nhất 3,0 %.
Bảng 6. Mức độ hẹp ống sống trên cắt lớp vi tính
Mức độ hẹp Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
Hẹp tương đối** 16 48,5
Hẹp tuyệt đối*** 4 12,1
Không hẹp* 13 39,4
Tổng 33 100
Tỉ lệ tổn thương có hẹp ống sống tương đối là cao nhất 48,5% gấp 4 lần so với hẹp ống sống tuyệt đối.
Bảng 7. Đối chiếu tổn thương đốt sống và hẹp ống sống
Thương tổn giải phẫu
Hẹp ống sống
Hẹp tương đối** Hẹp tuyệt đối*** Tổng
Gãy vỡ nhiều mảnh 2 0 2
Gãy trật 13 3 16
Trật đơn thuần 1 1 2
Tổng 16 4 20
Gãy trật gây hẹp ống sống chiếm tỉ lệ cao nhất (16/20), gấp 8 lần so với thương tổn do gãy vỡ nhiều mảnh
hoặc trật đơn thuần.
* Không hẹp: Đường kính trước sau ống sống >= 13 mm.
* Hẹp tương đối: khi đo đường kính trước sau ống sống từ 10-13 mm.
***Hẹp tuyệt đối: khi đo đường kính trước sau ống sống <10 mm [12].
Phân loại tổn thương đốt sống: Có 4 trường hợp tổn thương đốt sống cổ cao và 29 trường hợp tổn
thương đốt sống cổ thấp (gãy thân và/hoặc gãy cung sau).
Bảng 8. Phân loại tổn thương xương các đốt sống cổ cao
Vị trí Kiểu gãy Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
C1 Gãy cung trước 1 25%
C2
Gãy mỏm nha loại II 1 25%
Gãy mỏm nha C2 loại III 1 25%
Gãy Hangman 1 25%
Tổng 4 100%
Bảng 9. Phân loại tổn thương thân đốt sống cổ thấp trên cắt lớp vi tính
Kiểu tổn thương Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
Gãy đơn thuần 4 17,4
Gãy vỡ nhiều mảnh 3 13,0
Gãy trật 9 39,1
Trật đơn thuần 7 30,4
Tổng 23 100
Có 23/29 trường hợp có tổn thương thân đốt sống cổ thấp; loại chấn thương trật chiếm tỉ lệ nhiều nhất
69,5% gấp 4 lần loại gãy vỡ nhiều mảnh và gãy đơn thuần
16
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 10. Hình ảnh tổn thương cung sau đốt sống cổ thấp trên cắt lớp vi tính
Tổn thương gãy Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
Mảnh sống 6 28,6
Mỏm gai 3 14,3
Mỏm ngang 1 4,7
Gãy mấu khớp 3 14,3
Trật mấu khớp 2 9,5
Phối hợp 6 28,6
Tổng 21 100
Có 21/29 trường hợp gãy cung sau đốt sống cổ thấp; tổn thương gãy phối hợp nhiều vị trí và gãy mảnh
sống chiếm tỉ lệ cao nhất 28,6%, tiếp theo là gãy, trật mấu khớp 23,8%. Gãy mỏm ngang ít gặp nhất 4,7%.
3.4. Phân tích giá trị phù hợp của X quang đối với cắt lớp vi tính trong chấn thương cột sống cổ
3.4.1. Đối với tổn thương đốt sống cổ cao
Bảng 11. Đối chiếu tổn thương đốt sống cổ cao trên X quang và cắt lớp vi tính
X quang
Cắt lớp vi tính Tổng
Gãy C1
đơn thuần
Gãy mỏm nha
typ 2
Gãy mỏm nha
typ 3
Gãy
Hangman
Gãy mỏm nha typ2 0 1 0 0 1
Không gãy 1 0 0 0 1
Nghi ngờ gãy 0 0 1 0 1
Gãy Hangman 0 0 0 1 1
Tổng 1 1 1 1 4
χ²=12 p=1
Trong 4 trường hợp chấn thương cột sống cổ cao, có 2 trường hơp X quang chẩn đoán phù hợp với cắt lớp
vi tính, 1 trường hợp nghi ngờ gãy trên X quang đã xác định có thương tổn trên cắt lớp vi tính; 1 trường hợp
X quang không chẩn đoán được tổn thương.
3.4.2. Đối với tổn thương đốt sống cổ thấp
Bảng 12. Đối chiếu các kiểu tổn thương thân đốt sống trên X quang và cắt lớp vi tính
Kiểu gãy
XQ CLVT
n % n %
Gãy lún 1 3,4 0 0
Gãy vỡ nhiều mảnh 2 6,9 3 10,3
Gãy trật 6 20,7 10 34,5
Không gãy 10 34,5 6 20,7
Gãy vỡ đơn giản 2 6,9 3 10,3
Trật đơn thuần 8 27,6 7 24,1
Tổng 29 100 29 100
χ²= 65,747 p=0,0001
Các kiểu gãy vỡ nhiều mảnh, gãy trật, gãy vỡ đơn giản phát hiện trên cắt lớp vi tính nhiều hơn X quang, p<0,05.
17
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 13. Khả năng phù hợp chẩn đoán giữa X quang và cắt lớp vi tính trong tổn thương thân đốt sống
CLVT
XQ
Có tổn thương Không tổn thương Tổng
Có tổn thương 18 0 18
Không tổn thương 5 6 11
Tổng 23 6 29
χ²= 12,379 p=0,001
Kappa= 0,598
Nhận xét: Khả năng phù hợp chẩn đoán giữa X quang và cắt lớp vi tính trong tổn thương thân đốt sống
mức độ trung bình (<0,41< K= 0,598 <0,6).
Bảng 14. Đối chiếu kiểu gãy cung sau trên X quang và cắt lớp vi tính
Kiểu gãy
XQ CLVT
n % n %
Mảnh sống 0 0,0 6 20,7
Mỏm gai 2 6,9 3 10,3
Mỏm ngang 0 0,0 1 3,4
Mấu khớp 1 3,4 3 10,3
Trật khớp 2 6,9 2 6,9
Không gãy 24 82,8 8 27,6
Phối hợp 0 0,0 6 20,7
Tổng 29 100 29 100
χ²= 22,755 p=0,160
Nhận xét: Tỉ lệ phát hiện các kiểu gãy cung sau ở cắt lớp vi tính cao hơn X quang, nhất là gãy mảnh sống
và gãy phối hợp nhiều vị trí, p>0,05.
Bảng 15. Khả năng phù hợp chẩn đoán giữa X quang và cắt lớp vi tính trong tổn thương cung sau
CLVT
XQ
Có tổn thương Không tổn thương Tổng
Có tổn thương 4 0 4
Không tổn thương 17 8 25
Tổng 21 8 29
χ²= 1,768 p=0,552
Kappa= 0,115
Không có sự phù hợp chẩn đoán giữa X quang và
cắt lớp vi tính trong tổn thương cung sau, Kappa =
0,115 < 0,2.
4. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy lứa tuổi bị chấn
thương cột sống cổ hay gặp nhất là thanh niên và
trung niên, đối tượng nam nhiều hơn nữ (81,8%). Đây
là lực lượng lao động chính trong xã hội. Điều này nói
lên sự ảnh hưởng lớn đến đời sống cá nhân, gia đình
và xã hội; lúc này họ không thể tham gia trực tiếp
hoặc hạn chế khả năng lao động để tạo ra của cải vật
chất cho xã hội, tạo gánh nặng kinh tế cho gia đình,
cộng đồng, không những thế, về lâu về dài còn ảnh
hưởng đến tâm lý của các thành viên trong gia đình
[1], [2], [3].
Nghiên cứu trên mẫu 33 bệnh nhân chấn thương
cột sống cổ có chụp phim X quang, chúng tôi ghi
nhận tỉ lệ phát hiện mất đường cong sinh lý hướng
tới chấn thương chiếm cao nhất 57,6% gấp 1,6 lần
so với tỉ lệ phát hiện đường gãy xương (36,4%) hay
thay đổi khoảng gian đĩa khớp (36,4%); gấp 1,5 lần so
với tỉ lệ phát hiện hẹp ống sống (39,4%); tăng độ dày
phần mềm trước cột sống chiếm 30,3%. Kết quả này
18
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
khác biệt với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Vũ Hiệp [2]. Sự khác biệt này có thể là do đặc điểm
dạng tổn thương khác nhau, phụ thuộc vào trục cột
sống vào thời điểm chấn thương, véc-tơ lực tác động
và đặc điểm vật lý của bệnh nhân. Ở nghiên cứu của
chúng tôi, đặc điểm tổn thương gãy trật và trật chiếm
đa số nên tỉ lệ thay đổi đường cong sinh lý cao. Mặt
khác, chúng tôi nhận thấy phát hiện đường gãy xương
trên X quang trong mẫu nghiên cứu khó phát hiện do
tỉ lệ phim X quang chụp thấy toàn cảnh cột sống cổ
chiếm tỉ lệ không cao (28/33 trường hợp chiếm 85%),
việc đánh giá tổn thương đường vỡ xương khó phân
biệt với hình chồng của mô mềm tổn thương kế cận.
Mặc dù tỉ lệ phát hiện từng dấu hiệu nghi ngờ trên X
quang chiếm tỉ lệ không cao nhưng vẫn có ý nghĩa khi
phối hợp với nhau trong chẩn đoán chấn thương cột
sống cổ và chẩn đoán mất vững [5], [7], [15] bên cạnh
việc chỉ định X quang cột sống cổ gần như thường quy
trong những trường hợp chấn thương đơn giản, đủ
để giúp cho việc định hướng điều trị một cách hiệu
quả nhất.
Trong quá trình nhiên cứu, chúng tôi nhận thấy
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thay đổi
khoảng gian đĩa-khớp, tăng độ dày phần mềm trước
cột sống với kiểu tổn thương xương đốt sống, trong
đó gãy trật và trật đơn thuần làm thay đổi khoảng
gian đĩa-khớp chiếm tỉ lệ nhiều nhất. Như vậy, khi phát
hiện trên phim X quang có thay đổi khoảng gian đĩa
khớp hay tăng độ dày phần mềm trước cột sống hoặc
gãy trật, trật đốt sống thì nên chỉ định cộng hưởng từ
tiếp theo X quang để khảo sát tổn thương mô mềm,
dây chằng và đĩa đệm bên cạnh việc khảo sát tủy sống
[3], [6], [7]. Kết quả nghiên cứu này chỉ ra dấu hiệu
gián tiếp của tổn thương mô mềm trên X quang và
khá tương đồng với kết luận của Awad và cộng sự [4].
Về chấn thương gây trượt và trượt gập đốt sống,
chúng tôi nhận thấy đây là loại chấn thương chiếm
tỉ lệ cao nhất 57,6%. Kết quả này phù hợp với cơ chế
chấn thương chủ yếu ở nghiên cứu của chúng tôi là
cơ chế giãn-gập và ép gập. Mặt khác, cột sống cổ là
vùng cột sống di động nhất của cơ thể trong khi với cấu
trúc xương tương đối nhỏ, hệ thống cơ xung quanh
lại yếu nhất (so với vùng ngực và thắt lưng) nên dễ bị
chấn thương trượt [2]. Trong 13 trường hợp trượt độ
I, trong đó có 12 trường hợp có tổn thương thần kinh
(gồm Frankel A, B, C, D) thì có đến 6/12 trường hợp có
Frankel A-B-tổn thương thần kinh nặng. Như vậy, với
lực chấn thương lớn và ở tốc độ cao thì với những trật
cột sống nhẹ cũng đã gây ra tổn thương thần kinh nặng
nề [14]. Cộng hưởng từ là chỉ định tiếp theo cần phải
có khi nghi ngờ tổn thương thần kinh để không chậm
trễ trong việc điều trị hiệu quả cho bệnh nhân [6].
Theo Joonho Chung, Seung Hwan Yoon và cộng
sự, hẹp ống sống có liên quan với tổn thương thần
kinh [8]. Đường kính ống sống đo ở mặt phẳng
sagittal càng nhỏ thì có khiếm khuyết về thần kinh
càng nhiều. Việc đánh giá tình trạng hẹp ống sống
trong chấn thương cột sống cổ có tầm quan trọng.
Cắt lớp vi tính chứng tỏ có ưu thế hơn X quang
trong việc này, phát hiện ra nhiều trường hợp hẹp
ống sống, đánh giá rõ mức độ hẹp [8]. Nghiên cứu
trên mẫu gồm 33 bệnh nhân, chúng tôi ghi nhận có
20 trường hợp hẹp ống sống, trong đó tỉ lệ hẹp ống
sống tương đối là cao nhất 48,5% gấp 4 lần so với
hẹp ống sống tuyệt đối.
Đối với chấn thương cột sống cổ cao, với cơ chế
gập ép gập, chúng tôi ghi nhận được 4 trường hợp
bao gồm gãy cung trước C1 đơn thuần, gãy mỏm nha
C2 loại II, gãy mỏm nha C2 loại III, gãy Hangman C2.
Khi đối chiếu sự phù hợp chẩn đoán của X quang và
cắt lớp vi tính, chúng tôi nhận thấy có ¾ trường hợp X
quang giúp chẩn đoán có tổn thương cột sống cổ trên
phim (2 trường hợp chẩn đoán phù hợp cắt lớp vi
tính, một trường hợp nghi ngờ gãy và đã được chứng
minh gãy trên cắt lớp vi tính). Như vậy, X quang góp
phần quan trọng trong việc chẩn đoán và định hướng
xử trí lâm sàng, có chỉ định phù hợp tiếp theo là chụp
cắt lớp vi tính trong trường hợp nghi ngờ tổn thương
phức tạp, hoặc trong trường hợp đa chấn thương
[10]. Việc phát hiện sớm tổn thương các đốt sống
cổ cao, nhất là các tổn thương làm di lệch, mất vững
cột sống cổ rất có ý nghĩa vì đây là những thương tổn
nguy hiểm, dễ dẫn đến di chứng thần kinh nghiêm
trọng, hoặc nặng hơn là hôn mê do tổn thương thân
não, tử vong [11], [13].
Đối với tổn thương đốt sống cổ thấp, khi so sánh
từng tổn thương phát hiện trên X quang và cắt lớp vi
tính, chúng tôi nhận thấy tổn thương trật (bao gồm
trật đốt sống đơn thuần, gãy trật thân đốt sống, trật
mấu khớp) có tỉ lệ phát hiện trên X quang và cắt lớp
vi tính khá cao lần lượt ở các tổn thương là 7/7, 6/9,
và 2/2. Điều này có ý nghĩa, nhất là ở tuyến y tế cơ
sở không có cắt lớp vi tính hoặc trước khi có hình
ảnh chụp cắt lớp vi tính. Với chẩn đoán trật, X quang
giúp định hướng tổn thương, dự đoán các khả năng
xảy ra để có hướng xử trí thích hợp và chỉ định các
kỹ thuật hình ảnh tiếp theo hợp lý. Cộng hưởng từ
được chỉ định tiếp theo X quang để khảo sát tủy sống,
dây chằng, đĩa đệm vì có thể tổn thương trong chấn
thương trật [4].
5. KẾT LUẬN
X quang cột sống cổ vẫn còn giá trị trong thực
hành lâm sàng đối với các cơ sở y tế chưa được trang
bị máy móc hiện đại đặc biệt trong chấn thương gãy
mỏm nha C2 typ 2, gãy Hangman và tổn thương trật
đốt sống bên cạnh việc sử dụng cắt lớp vi tính, cộng
hưởng từ cột sống cổ trong chấn thương.
19
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 6, số 5 - tháng 10/2016
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-----
PHỤ LỤC
1. Trương Thiết Dũng, Võ Văn Nho & Nguyễn Hùng
Minh (2009), “Đặc điểm hình thái chấn thương cột sống
cổ thấp qua hình ảnh X quang và CT”, Tạp Chí Y-Dược Học
Quân Sự, 65 (Số chuyên đề hình thái học chào mừng 60
năm ngày truyền thống học viện Quân Y), tr.63–66.
2. Nguyễn Vũ Hiệp (2011), Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị chấn
thương cột sống cổ thấp bằng phẫu thuật, Luận văn Thạc
sĩ Y học, Trường Đại Học Y Dược Huế.
3. Nguyễn Thị Bích Nguyệt (2009), Mô tả đặc điểm
hình ảnh và vai trò của cộng hưởng từ trong chẩn đoán
chấn thương cột sống cổ, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ
chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Hà Nội.
4. Awad B.I., Carmod J.D, Margaret A J., et al (2015),
“Adjacent Level Ligamentous Injury Associated with Trau-
matic Cervical Spine Fractures: Indications for Imaging
and Implications for Treatment”, World Neurosurgery,
84(1), pp.69-75.
5. Berlin J.D, Leonard G.C (2003), “CT Versus Radiog-
raphy for Initial Evaluation of Cervical Spine Trauma: What
Is the Standard of Care?”, American Journal of Roentge-
nology, 180(4), pp.911-915.
6. Brown V.R., Foulkrod K.A, et al (2010), “Computed
tomography versus magnetic resonance imaging for
evaluation of the cervical spine: how many slices do you
need?”, The American Surgeon, 76(4), pp.365-368.
7. Holtz A., Levi R (2015), “Lower Cervical Spine
Trauma Imaging: Overview, Radiography, Computed To-
mography”, Spinal cord injury, pp.115-138.
8. Joonho C., Seung H.Y (2006), “Analysis of Factors
Related to Neurological Deficit in Thoracolumbar Frac-
tures”, J Korean Neurosurg Soc, (41), pp.1-6.
9. Kanji H.D., Neitzel A., Sekhon M., et al (2014),
“Sixty-four-slice computed tomographic scanner to clear
traumatic cervical spine injury: systematic review of the
literature”, Journal of Critical Care, 29(2), 314.pp.9-13.
10. Panczykowski D.M., Tomycz N.D., Okonkwo D.O
(2011), “Comparative effectiveness of using computed
tomography alone to exclude cervical spine injuries in
obtunded or intubated patients: meta-analysis of 14,327
patients with blunt trauma”, Journal of Neurosurgery,
115(3), pp.541-549.
11. Platzer P., Hauswirth N., Jaindl M., et al (2006),
“Delayed or missed diagnosis of cervical spine injuries,
The Journal of Trauma”, 61(1), pp.150-155.
12. Richard H.D (2011), Imaging of vertibral trauma
(3rd ed.), Cambridge university press Cambridge, New York.
13. Rybicki F.J, Knoll B., McKenney K., Zou K.H.,
Nuñez D.B (2000), “Imaging of cervical spine trauma: are
the anteroposterior and odontoid radiographs needed
when CT of the entire spine is routine?”, Emeg Radiol,
pp.352-355.
14. Sciubba D.M., McLoughlin G.S., Gokaslan Z.L., et
al (2007), “Are computed tomography scans adequate in
assessing cervical spine pain following blunt trauma?”,
Emergency Medicine Journal EMJ, 24(11), pp.803-804.
15. Theocharopoulos N., Chatzakis G., Damilakis J
(2009), “Is radiography justified for the evaluation of pa-
tients presenting with cervical spine trauma?”, Medical
Physics, 36(10), pp.4461-4470.
Hình 6. Lê Văn H., nam, 41 tuổi. Gãy trật C4 ra trước
độ I, hẹp khe đĩa đệm C4-C5 kèm phù nề mô mềm trước
C4 trên XQ CSC nghiêng. Trên CLVT mặt phẳng sagittal và
axial thấy gãy trật C4 kèm gãy mỏm ngang
Hình 3. Nguyễn Ngọc H., nam, 36 tuổi. Trượt thân
C5 ra trước độ 2, có hình ảnh mấu khớp đôi trên XQ CSC
nghiêng. Ở CLVT mặt phẳng sagittal, thấy rõ trượt thân
C5; không thấy tổn thương thân đốt C5 trên axial
Hình 4. Trần Văn Nh., nam, 28 tuổi. Đường gãy dọc thân C5 trên XQ CSC thẳng, mặt phẳng coronal và axial trên CLVT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_dac_diem_hinh_anh_x_quang_va_cat_lop_vi_tinh_cot.pdf