Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nâng
xoang kín
Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này, cấy
implant ngay sau ghép xương phụ thuộc nhiều vào
kinh nghiệm của nha sĩ và chiều cao xương còn lại,
mật độ xương của bệnh nhân có đủ lưu giữ implant
để tích hợp xương hay không, phương pháp cấy
implant ngay thường yêu cầu xương còn lại phải có
chiều cao trung bình 6 mm, khi cấy 1 thì chúng ta
sẽ tiết kiệm được thời gian 4 -6 tháng so với cấy
implant ở thì 2 [32], [64]. Khi nâng được niêm mạc
xoang lên, kiểm soát tốt vùng đáy xoang, nha sĩ sẽ
đưa bột xương vào phía sau và phía bên trước rồi
mới cấy implant, sau đó mới lèn tiếp bột xương ở
mặt ngoài, đậy màng xương nhân tạo vào cửa sổ
xương, kiểm tra lại mức độ vững chắc sơ khởi sau
đó đóng vạt phẫu thuật. Ở nghiên cứu này chúng tôi
cấy ghép được 11/47 implant ngay ở thì 1, các bệnh
nhân được cấy ghép ngay có chiều cao xương trung
bình 7,2 mm, cao hơn hẳn so với chiều cao trung
bình của các bệnh nhân nói chung, các implant được
cây ghép ngay đều đạt kết quả tốt
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, phim cắt lớp vi tính hình nón và đánh giá kết quả cấy ghép Implant trên bệnh nhân mất răng có nâng xoang kín, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh viện Trung ương Huế
14 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, PHIM CẮT LỚP VI TÍNH
HÌNH NÓN VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẤY GHÉP IMPLANT TRÊN
BỆNH NHÂN MẤT RĂNG CÓ NÂNG XOANG KÍN
Nguyễn Hồng Lợi1, Cung Văn Vinh1, Trần Xuân Phú1,
Nguyễn Văn Khánh1, Nguyễn Thanh Phong1
DOI: 10.38103/jcmhch.2019.58.3
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong lĩnh vực phục hình răng giả, implant nha khoa càng ngày càng chứng tỏ
tính ưu việt về khả năng phục hồi cả thẩm mỹ cũng như chức năng ăn nhai cho bệnh nhân mất
răng. Ngày nay đã có nhiều nghiên cứu và báo cáo cả trong và ngoài nước về thành công của
implant nha khoa mang lại cho bệnh nhân cũng như các nhược điểm của phương pháp này. Một
trong những nhược điểm lớn của cấy ghép implant là muốn đạt kết quả tốt cần phải có đủ chiều
dài và chiều rộng xương cần thiết, vì vậy vấn đề về ghép xương trong cấy implant được các nhà
nghiên cứu càng ngày càng dành nhiều sự quan tâm hơn, đặc biệt ở vùng răng sau hàm trên do
tính chất tiêu xương bản ngoài nhiều cho nên sống hàm ngày càng có xu hướng di chuyển vào
gần đáy xoang hàm dẫn đến nguy cơ cấy implant vào trong xoang dễ xảy ra.
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, phim cắt lớp vi tính hình nón và đánh
giá kết quả cấy ghép implant trên bệnh nhân mất răng có nâng xoang kín
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu trên 22 bệnh nhân, 22 vị trí răng mất răng có nhu cầu
điều trị ghép xương nâng xoang kín và phục hình bằng kỹ thuật cấy implant tại Trung Tâm Răng
Hàm Mặt Bệnh viện Trung Ương Huế từ tháng 11 năm 2018 đến tháng 10 năm 2019
Kết quả: Ttuổi trung bình cao là 49,7, thường gặp từ 45 – 60 tuổi, nam chiếm tỷ lệ 54,6%, nữ
chiếm tỷ lệ 45,4%. Nguyên nhân mất răng đa dạng: chủ yếu là do sâu răng với tỷ lệ 59,1%, bệnh
lý quanh răng chiếm tỷ lệ 36,3%, chấn thương chiếm 4,6%. Thời gian mất răng kéo dài, thường
trên 2 năm, mất nhiều các răng hàm lớn hàm trên với tỷ lệ 72,3%. Có chiều cao xương có ích rất
thấp, trung bình là 4 ± 1,86 mm, thấp nhất là 1,7 mm, cao nhất là 8 mm. Chiều rộng trung bình
bằng 6,6 mm ± 0,86 mm, hẹp nhất 4,7 mm, rộng nhất là 8,6 mm. kết quả sau phẫu thuật 1 tuần tỷ
lệ bệnh nhân đạt kết quả tốt 81,8%, khá với tỷ lệ 18,2%. Sau 1 tháng sẹo mổ liền tốt tỷ lệ 100%.
Sau 6 tháng xương mới hình thành ở tất cả các bệnh nhân, có nhìn thấy các bè xương trên phim
X quang, các implant tích hợp xương tốt, đạt mức độ vững chắc sẵn sàng làm phục hình
Kết Luận: phương pháp này đặc biệt biệt phù hợp với những bệnh nhân thời gian mất răng
sau hàm trên lâu ngày, dẫn đến thiếu chiều cao xương nghiêm trọng có nhu cầu cấy ghép implant
để phục hình ăn nhai.
Từ Khoá: cấy ghép nha khoa, ghép xương, nang xoang kín.
1. Bệnh viện TW Huế - Ngày nhận bài (Received): 05/11/2019; Ngày phản biện (Revised): 19/11/2019
- Ngày đăng bài (Accepted): 10/12/2019
- Người phản hồi (Corresponding author): Nguyễn Hồng Lợi
- Email: drloivietnam@yahoo.com.vn; ĐT: 0913 498 549
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, phim cắt lớp vi tính hình nón...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019 15
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong lĩnh vực phục hình răng giả, implant nha
khoa càng ngày càng chứng tỏ tính ưu việt về khả năng
phục hồi cả thẩm mỹ cũng như chức năng ăn nhai cho
bệnh nhân mất răng. Một trong những nhược điểm
lớn của cấy ghép implant là muốn đạt kết quả tốt cần
phải có đủ chiều dài và chiều rộng xương cần thiết,
chính vì vậy vấn đề về ghép xương trong cấy implant
được các nhà nghiên cứu càng ngày càng dành nhiều
sự quan tâm hơn, đặc biệt ở vùng răng sau hàm trên
do tính chất tiêu xương bản ngoài nhiều cho nên sống
hàm ngày càng có xu hướng di chuyển vào gần đáy
xoang hàm dẫn đến nguy cơ cấy implant vào trong
xoang dễ xảy ra . Nhận ra điều đó, từ những năm
70, Boyne và đồng sự đã tiến hành nâng xoang qua
lối tiền đình rồi ghép xương sau đó đặt các implant
dạng bản để phục hình lên trên, đến năm 1986 Tatum
lần đầu tiên giới thiệu phương pháp nâng xoang ghép
ABSTRACT
STUDY ON CLINICAL FEATURES, CONE BEAM COMPUTED TOMOGRAPHY AND
TREATMENT OUTCOMES OF DENTAL IMPLANTS WITH CLOSED SINUS FLOOR
ELEVATION PROCEDURE
Nguyen Hong Loi1, Cung Van Vinh1, Tran Xuan Phu1,
Nguyen Van Khanh1, Nguyen Thanh Phong1
Introduction: In the field of prosthodontics, dental implants have been improved to be the most optimal
method in replacing the missing teeth in terms of aesthetic and funtional restoration. Nowadays, there have
been many domestic and international reports about the pros and cons of implants placement. One of the
major demerits of implants is the requirement of quality and quantity of the available bone in the recipient
site. Therefore, bone grafting has become an appealing method for clinicians when it comes to inserting a
dental implant in an excessive bone loss region, especially in the posterior maxillary with the high risk of
implants displacement into the maxillary sinus.
Objectives: The aim of this study was to analyze clinical characteristics, cone beam computed
tomography and treatment outcomes of dental implants with closed sinus floor elevation procedure.
Materials and Methods: Twenty-two patients, who needed one dental implant in posterior maxillary
region to support prosthesis, were selected to be treated with closed sinus floor elevation method with
the use of bone graft in the Odonto-Stomatology Center – Hue Central Hospital from November 2018 to
October 2019.
Results: The age of the patients ranged from 45 to 60 years, with the mean age of 49.7 years. The
gender rates were 54.6% for men and 45.4% for women. The most common reasons of missing teeth were
tooth caries, accounting for 59.1%, followed by periodontal diseases with 36.3% and trauma with 4.6%.
The missing teeth generally had not been replaced for over two years and most commonly in the posterior
maxillary region (72.3%). The mean of bone height before sinus lift was 4 ± 1,86 mm (minium 1.7 mm and
maximum 8 mm). The mean of bone width was 6,6 ± 0,86 mm (minumum 4.7 mm and maximum 8.6 mm).
The results after one week recall were 81.8% good and 18.2% fair. After one month, the healing rate of
soft tissue was 100% successful. After six months, the results had shown new bone formation, sustainable
osseous-integrated implants in all patients, which were ready for prostheses.
Conclusion: This bone grafting is considered to be a suitable method to achieve a predictable long term
success of dental implants in the excessive bone loss region for the rehabilitaion of missing teeth.
Keywords: dental implant, bone grafting, closed sinus floor elevation method
Bệnh viện Trung ương Huế
16 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, phim cắt lớp vi tính hình nón...
xương. Ở Việt Nam gần đây, implant đã trở nên quen
thuộc với các nha sĩ cũng như các bệnh nhân, tuy
nhiên bệnh nhân ở nước ta theo nghiên cứu của Trần
Văn Trường và đồng sự mất răng do nguyên nhân
biến chứng của viêm quanh răng tương đối nhiều,
khoảng 30%, thời gian mất răng đến khi làm răng giả
kéo dài, vì vậy dẫn đến vấn đề thiếu xương khi cấy
ghép implant thường xảy ra, trong khi đó các nghiên
cứu về nâng xoang kín ở nước ta còn ít. Xuất phát từ
những thực tế khó khăn trên, chúng tôi tiến hành làm
đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, phim cắt lớp
vi tính hình nón và đánh giá kết quả cấy ghép implant
trên bệnh nhân mất răng có nâng xoang kín” với các
mục tiêu sau.
1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, phim cắt lớp vi
tính hình nón vùng răng mất
2. Đánh giá kết quả sau cấy ghép implant trên
bệnh nhân mất răng có nâng xoang kín
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân từ 18
tuổi trở lên bị mất răng hàm trên có nhu cầu điều trị
ghép xương nâng xoang kín và phục hình bằng kỹ
thuật cấy implant.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
- Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, mất răng vĩnh
viễn răng hàm hàm trên phía sau, có sức khỏe toàn
thân tốt để phẫu thuật.
- Bệnh nhân có chiều cao xương có ích <10 mm,
chiều rộng xương > 2,5 mm và khoảng mất răng > 7
mm, không có biểu hiện viêm xoang, tình trạng vệ
sinh răng miệng tốt.
- Bệnh nhân có nguyện vọng cấy ghép nha khoa
và tự nguyện tham gia nghiên cứu.
2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân có các bệnh toàn thân chống chỉ
định phẫu thuật ghép xương.
- Ngoài ra các bệnh tại chỗ như: Đang điều trị tia
xạ vùng đầu, mặt, cổ. Khoang miệng đang có viêm
nhiễm. Nghiến răng, giảm tiết nước bọt, ...
2.1.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu:
- Địa điểm: Tại Trung tâm Răng Hàm Mặt, Bệnh
viện Trung Ương Huế
- Thời gian: từ tháng 11/2018 đến tháng 10/2019.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng không đối chứng, theo mô
hình tiến cứu
2.2.1.Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng không đối chứng, theo mô
hình tiến cứu
2.2.2. Phương tiện và dụng cụ nghiên cứu
• Máy ghế chữa răng tổng hợp hoặc bàn mổ.
• Bộ dụng cụ khám răng miệng và bộ dụng cụ
tiểu phẫu thuật trong miệng.
• Các máy chụp X quang cận chóp, Panorama,
CT Conebeam,
• Máy khoan chuyên dụng cấy implant nha khoa
có hệ thống điều chỉnh hướng quay, tốc độ quay, lực
quay,
• Dụng cụ nâng xoang kín.
• Hệ thống mũi khoan, dụng cụ kiểm tra trụ
(guide pin), tay vặn thông thường, dụng cụ vặn có
điều chỉnh lực
• Hệ thống trụ ghép của hảng Kontact – Pháp, trụ
liền thương, trụ phục.
• Bột xương tổng hợp Ossteon và màng xương
collagen
• Máy ảnh, máy vi tính,
• Thước đo chiều dài chuyên dụng, compa nha
khoa,
2.2.3. Các bước điều trị:
- Chuẩn bị bệnh nhân và chuẩn bị dụng cụ
- Điều trị trước phẫu thuật: Lấy cao răng, làm
nhẵn chân răng và điều trị các bệnh nha chu nếu
có. Điều trị các bệnh lý tuỷ răng và cuống răng nếu
có.Điều trị các tình trạng viêm nhiễm trong miệng
nếu có.
- Quy trình phẫu thuật ghép xương và nâng
xoang kín và cấy ghép implant: Rạch niêm mạc,
Khoan xương tạo lỗ nhận implant. Dùng mũi khoan
tròn (round bar) đường kính 2mm để làm phẳng bề
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019 17
mặt sống hàm nếu sống hàm nhọn. Kiểm tra hướng
của lỗ khoan bằng guide pin. Khoan mũi khoan
xoắn (bore twist drill) đường kính 3 mm để mở rộng
xương vỏ. Tuỳ theo kích cỡ của implant định cấy,
khoan thêm các mũi khoan xoắn 3,6 - 4,2 rồi tiếp
đến mũi khoan thuôn xoắn. Sử dụng dụng cụ nong
xương nếu xương xốp (bone compression kit). Lèn
bột xương.Đặt implant. Lắp ốc đậy implant (cover
screw). Đóng vạt
2.2.4 Đánh giá kết quả
- Đánh giá tình trạng vết mổ
- Đánh giá tình trạng rách niêm mạc xoang trong
phẫu thuật:
- Đánh giá mức độ đau sau ghép (chủ quan của
bệnh nhân): Bệnh nhân tự đánh giá mức độ đau của
mình gồm theo bảng tính ngưỡng đau VAS gồm 4
mức độ sau:
Hình 1: Bảng đánh giá mức độ đau
0: không đau; 1-3: đau nhẹ: khó chịu; 3-7: đau
vừa (đau nhưng chịu được); 7-10: đau dữ dội: đau
không chịu được [52]
- Đánh giá tình trạng chảy máu ngay sau phẫu
thuật, sưng nề tại chỗ, viêm nhiễm tại chỗ.
Bảng 2.1: Đánh giá tình trạng vết mổ sau 7 ngày
Mức độ
Thời gian
Tốt Khá Kém
Sau 7 ngày
Không đau, không chảy
máu, không sưng, không
có biểu hiện viêm nhiễm
Không đau, không chảy
máu, hơi nề nhẹ chân chỉ
vết mổ, không có biểu
hiện nhiễm trùng
Đau nhẹ, không chảy
máu, có nhiễm trùng tại
chỗ, miệng vết khâu hở
- Đánh giá kết quả xương ghép:Đánh giá tình trạng viêm nhiễm vùng xương ghép
- Đánh giá biểu hiện viêm xoang hàm
- Đánh giá chiều cao xương trên X quang ngay sau phẫu thuật và sau phẫu thuật 6 tháng
- Đánh giá mật độ xương ghép trên X quang sau phẫu thuật và sau phẫu thuật 6 tháng.
- Đánh giá độ vững chắc của implant: Trước, trong và sau phẫu thuật
III. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm lâm sàng, X quang của đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Một số đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1: Phân loại bệnh nhân theo tuổi và giới
Giới
Tuổi Nam Nữ Tổng số
18 - 44 1 4 5
45 - 60 8 6 14
> 60 3 0 3
Tổng số 12 10 22
Trong tổng số 22 bệnh nhân số bệnh nhân nam chiếm tỷ lệ 54,6%, số bệnh nhân nữ chiếm 45,4%. Sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Bệnh viện Trung ương Huế
18 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, phim cắt lớp vi tính hình nón...
Bảng 3.2: Nguyên nhân mất răng theo tuổi
Nguyên nhân
mất răng
Tuổi
Sâu răng, bệnh lý
tủy răng
Bệnh lý
quanh răng
Sang chấn Tổng cộng
n (%) n (%) n (%) n (%)
18 - 44 3 75 1 25 0 0 4 100
45 - 60 9 69,2 3 30,8 1 4,5 13 100
> 60 1 20 4 80 0 0 5 100
Tổng cộng 13 59,1 8 36,4 1 4,5 22 100
Nguyên nhân mất răng do sâu răng và bệnh lý tủy răng hay gặp nhất chiếm tỷ lệ 59,1%, sau đó là nguyên
nhân do bệnh lý quanh răng với tỷ lệ 36,4%.
3.1.2. Đặc điểm phim cắt lớp vi tính hình nón vùng hàm mặt
Bảng 3.3: Mối liên quan giữa chiều cao của xương hàm vùng mất răng theo tuổi
Chiều cao
Tuổi
< 5 mm 5 – 8 mm Tổng cộng
Số lượng (%) Số lượng (%) Số lượng (%)
18 – 44 0 0 4 100 4 100
45 - 60 12 92,3 1 7,7 13 100
> 60 5 100 0 0 5 100
Tổng cộng 17 77,3 5 22,7 22 100
Độ cao xương 45 tuổi.Ngược lại, số lượng bệnh nhân có chiều cao
xương hàm vùng mất răng từ 5 - 8 mm tập trung phần lớn ở lứa tuổi 18 – 44 tuổi.
Bảng 3.4: Mối liên quan giữa chiều cao của xương hàm mất răng theo thời gian
Chiều cao
Thời gian
mất răng
< 5 mm 5 – 8 mm Tổng cộng
Số
lượng
(%) Số
lượng
(%) Số
lượng
(%)
6 – 12 tháng 0 0 1 100 1 100
12 – 24 tháng 2 33,3 4 66,7 6 100
> 24 tháng 15 100 0 0 15 100
Tổng cộng 17 77,3 5 22,7 22 100
Chiều cao xương hàm < 5mm chủ yếu ở các bệnh nhân có thời gian mất răng lâu hơn 24 tháng với tỷ
lệ 77,3%. Các bệnh nhân có thời gian mất răng từ 6 - 12 tháng đều có chiều cao xương hàm từ 5 – 8 mm.
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019 19
Bảng 3.5: Chiều rộng của xương hàm vùng mất răng theo giới
Chiều rộng
Giới
2,5 – 5 mm 5 – 8 mm > 8 mm Tổng cộng
n % n % n % n %
Nam 1 7,7 11 84,6 1 7,7 13 100
Nữ 1 11,1 6 66,7 2 22,2 9 100
Tổng cộng 2 7,8 17 77,3 3 14,9 22 100
Chiều rộng xương hàm vùng ghép xương thường từ 5 – 8 mm với tỷ lệ cao nhất 77,3%.
3.2. Đánh giá kết quả sau cấy ghép implant có nâng xoang kín
3.2.1 Đánh giá tình trạng xương ghép:
Bảng 3.6: Các biến chứng tại xoang ghép trong và sau phẫu thuật
Biến chứng Số bệnh nhân (%)
Rách niêm mạc xoang 1 4,6
Viêm xoang 0 0
Viêm xương ghép 0 0
Có 1 trường hợp rách niêm mạc xoang với tỷ lệ 4,6%.
Bảng 3.7: So sánh chiều cao trung bình trước và sau khi ghép xương
Tổng số răng cần cấy ghép
implant
Chiều cao trung bình (mm)
Trước khi ghép xương 22 4
Sau khi ghép xương 22 12,4
Chiều cao trung bình của sống hàm sau ghép xương đã tăng lên là h = 12,4 ± 0,76 mm, đủ chiều cao để
cấy implant đạt độ ổn định vững chắc.
Bảng 3.7: Đánh giá sự hình thành xương mới trên hình ảnh X- quang
ngay sau khi ghép xương với sau phẫu thuật 6 tháng
Sự hình thành xương Ngay sau khi làm phẫu thuật / Sau phẫu thuật 6 tháng (%)
Có 22 100
Không 0 0
Tổng cộng 22 22
100% bệnh nhân có sự hình thành xương mới ở đáy xoang sau 6 tháng.
Bảng 3.9: Đánh giá chiều cao của xương sau khi ghép xương
ngay sau phẫu thuật với sau phẫu thuật 6 tháng
Chiều cao xương Ngay sau phẫu thuật/ Sau phẫu thuật 6 tháng (%)
Không giảm 22 100
Giảm 0 0
Tổng cộng 22 100
Không có bệnh nhân nào giảm chiều cao xương 6 tháng chiếm tỷ lệ 100%.
Bệnh viện Trung ương Huế
20 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, phim cắt lớp vi tính hình nón...
3.2.2 Đặc điểm về các implant được cấy:
Bảng 3.10: Đánh giá sự tích hợp xương hình ảnh X - quang ngay và sau khi phẫu thuật 6 tháng
Hình ảnh X- quang
Sau phẫu thuật 6 tháng
Số lượng (%)
Không thấy viền cản quang quanh thân implant 0 0
Có viền cản quang quanh thân implant 22 100
Tổng số 22 100
Tất cả 22 implant đều có hình ảnh đường viền cản quang hơn so với ngay sau khi cấy.
Bảng 3.11: Tỷ lệ đào thải của implant
Tỷ lệ đào thải Số lượng (%)
Đào thải 0 0
Không đào thải 22 100
Tổng cộng 22 100
Tất cả các implant đều tích hợp xương tốt sau 6 tháng, không có implant nào bị đào thải trong quá trình
cấy ghép.
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm lâm sàng, phim cắt lớp vi tính
hình nón
Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 47,95,
không có sự khác biệt giữa nam và nữ với p > 0,05.
Như vậy ở độ tuổi này khả năng mất răng hàm tăng
lên và có thể thời gian mất răng tương đối lâu, bệnh
nhân làm phục hình hàm giả tháo lắp trước đó,
nên thiếu chiều cao xương tương đối nhiều do đó
phải phẫu thuật nâng xoang ghép xương. Trong
nghiên cứu này tỷ lệ bệnh nhân nam là 54,6% cao
hơn một chút so với tỷ lệ bệnh nhân nữ 45,4%.
Nguyên nhân gây mất răng của các bệnh nhân
đến khám và có chỉ định ghép xương và cấy ghép
implant trong nghiên cứu của chúng tôi có 59,1% là
do bệnh lý sâu răng và bệnh lý tủy răng, tỷ lệ này
phù hợp với nghiên cứu của Trịnh Hồng Mỹ với tỷ
lệ 55,1% [Nguyên nhân có thể là do ở vùng răng
hàm phía sau, nhất là răng 6,7 chỉ mọc 1 lần, đặc
biệt là răng 6 mọc sớm ở lứa tuổi 6,7 cùng với ý
thức giữ gìn chưa cao nên các răng này có khả năng
bị sâu, bệnh lý tủy răng nhiều hơn.
Nhìn chung, các đối tượng nghiên cứu có thời
gian mất răng đến khi quyết định cấy implant khá
dài. Tỷ lệ mất răng của nhóm có thời gian mất răng
trên 2 năm chiếm cao nhất là 68,2%, kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Trịnh Hồng Mỹ [10]
điều này có thể do các lý do tài chính, sợ đau, không
có thời gian, đã làm các phục hình trước đó, đặc
biệt là không được bác sĩ giải thích về quá trình tiêu
xương khi bị nhổ răng ... đó cũng là đặc điểm chung
của người dân Việt Nam khi đến khám ở các y tế nói
chung và nha khoa nói riêng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chiều cao phổ
biến nhất nằm trong khoảng < 5 mm, chiếm 68,2%.
Nhóm có chiều cao 5 – 8 mm chiếm tỷ lệ 31,8%.
Không có bệnh nhân nào có chiều cao xương có ích
> 8 mm. Chiều cao xương trung bình của các bệnh
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là 4 ± 1,63
mm. Tỷ lệ trên cho thấy chỉ định ghép xương hở và
cấy implant thường chiều cao xương < 5 mm, kết
quả này phù hợp với lựa chọn III của Misch và một
số nghiên cứu nước ngoài khác như Sánchez-Recio
C và đồng sự cũng như Penarrocha và đồng sự đều
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019 21
là 3,8 mm. Theo nghiên cứu của chúng tôi, lứa tuổi,
nguyên nhân mất răng và thời gian mất răng cho đến
khi làm phục hình ảnh hưởng rất nhiều đến chiều
cao có ích còn lại của xương hàm, điều này cũng
phù hợp với các đặc điểm về ý thức của người dân
Việt Nam trong vấn đề phòng và chữa các bệnh nói
chung và trong nha khoa nói riêng.
Chiều rộng xương hàm vùng mất răng được đo
theo chiều trước - sau ở vị trí giữa của chiều cao có
ích. Trong nghiên cứu của chúng tôi khoảng chiều
rộng hay gặp nhất là 5-8 mm, chiếm tỷ lệ 78,7%,
tiếp theo là chiều rộng 13,6%, chiều rộng > 8 mm
chiếm tỷ lệ 14,9%, chiếm tỷ lệ ít nhất với 6,4%. Số
liệu này cho thấy chiều rộng xương hàm trên khi
chiều cao xương tiêu còn khoảng 5mm chủ yếu từ
5-8 mm, khá đầy đủ để lưu giữ implant.
4.2. Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nâng
xoang kín
Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này, cấy
implant ngay sau ghép xương phụ thuộc nhiều vào
kinh nghiệm của nha sĩ và chiều cao xương còn lại,
mật độ xương của bệnh nhân có đủ lưu giữ implant
để tích hợp xương hay không, phương pháp cấy
implant ngay thường yêu cầu xương còn lại phải có
chiều cao trung bình 6 mm, khi cấy 1 thì chúng ta
sẽ tiết kiệm được thời gian 4 -6 tháng so với cấy
implant ở thì 2 [32], [64]. Khi nâng được niêm mạc
xoang lên, kiểm soát tốt vùng đáy xoang, nha sĩ sẽ
đưa bột xương vào phía sau và phía bên trước rồi
mới cấy implant, sau đó mới lèn tiếp bột xương ở
mặt ngoài, đậy màng xương nhân tạo vào cửa sổ
xương, kiểm tra lại mức độ vững chắc sơ khởi sau
đó đóng vạt phẫu thuật. Ở nghiên cứu này chúng tôi
cấy ghép được 11/47 implant ngay ở thì 1, các bệnh
nhân được cấy ghép ngay có chiều cao xương trung
bình 7,2 mm, cao hơn hẳn so với chiều cao trung
bình của các bệnh nhân nói chung, các implant được
cây ghép ngay đều đạt kết quả tốt
V. KẾT LUẬN
Cũng giống như rất nhiều nghiên cứu về phương
pháp nâng xoang kín có ghép xương của các tác
giả nước ngoài ở nghiên cứu này trên thực tế lâm
sàng chúng tôi thấy phương pháp ghép xương và
nâng xoang kín giúp nha sĩ có thể tăng khả năng
thành công trong việc lưu giữ implant. Mặt khác,
nó đặc biệt phù hợp với những bệnh nhân thời
gian mất răng lâu, dẫn đến thiếu chiều cao xương
nghiêm trọng. Bên cạnh đó, phương pháp này cũng
có những nhược điểm nhất định trước khi tiến hành
phẫu thuật phải tiến hành khám xét tỉ mỉ, cẩn thận
cả trên lâm sàng và X quang để có những chỉ định
toàn thân và tại chỗ an toàn, tăng khả năng thành
công của phẫu thuật ghép xương, ngoài ra phải
phát hiện những trở ngại gây khó khăn trong cuộc
phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Chí Dũng, Trần Bắc Hải (1995), “Mô ghép
xương từ nguyên lý sinh học đến ứng dụng lâm
sàng”, Tài liệu nghiên cứu Trung tâm đào tạo và
Bồi dưỡng cán bộ y tế thành phố Hồ Chí Minh,
tr5- 10.
2. Trịnh Đình Hải (1986), “Một số nhận xét vùng
lợi dính”, Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ nội trú,
Đại học Y Hà Nội, tr.41
3. Nguyễn Văn Khoa (2012) “Phẫu thuật nâng
xoang – ghép xương trong cấy ghép nha khoa:
Đánh giá kết quả tại bệnh viện Răng hàm mặt
Trung ương 2006 – 2012 “bài báo đăng ký Tạp
chí Y học thực hành 2012
4. Trịnh Hồng Mỹ (2012) “Nghiên cứu kỹ thuật cấy
ghép implant trên bệnh nhân mất răng có ghép
xương “Luận văn tiến sỹ Y học, Viện nghiên cứu
khoa học Y dược lâm sàng 108, tr 37 – 57.
5. Hoàng Đạo Bảo Trâm (2006), ” Tổng quan tích
hợp xương” tiểu luận tốt nghiệp Thạc sỹ - trường
Đại học Mediterranee (Marseille) tr 3-5
6. Trần Văn Trường, Trịnh Đình Hải (2002), “Điều
tra sức khoẻ răng miệng toàn quốc ”, Nhà xuất
Bệnh viện Trung ương Huế
22 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 58/2019
bản Y học, tr.62 - 63.
7. Boyne PJ (1993), “The use of bone graft systems
in maxillary implant surgery “Proceedings of the
50th Annual Meeting of the American Institute of
Oral Biology, Palm Springs CA, Oct 29 – Nov 2,
pp 107 - 114.
8. Branemark P, Adell R, Albrektsson T el al
(1984), “An experimental and clinical study of
osseointergrated implants penetrating the nasal
cavity and maxillary sinus “, J Oral Maxillofac
Sur pp 497.
9. Misch C. E (1993, “Contemporary implant
dentistry “, 1st edition pp 419-485.
10. Sánchez-Recio C, Peñarrocha-Diago Maria,
Peñarrocha-Diago Miguel el al (2010),
“Maxillary sinus lift performed using ultrasound.
Evaluation of 21 patients “Med Oral Patol Oral
Cir Bucal. Mar 1;15 (2):pp 371-374.
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, phim cắt lớp vi tính hình nón...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_dac_diem_lam_sang_phim_cat_lop_vi_tinh_hinh_non_v.pdf