KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 148 trường hợp ung thư
đường mật tại bệnh viện Chợ Rẫy trong thời
gian ba năm từ 1/2004 đến tháng 12/2006, chúng
tôi có một số kết luận:
Ung thư đường mật có những đặc điểm
Phần lớn bệnh xảy ra ở người trên 60 tuổi.
Bệnh thường xảy ra ở nam nhiều hơn so với nữ.
Đa số bệnh nhân đến khám sau khi khởi
phát triệu chứng từ 1-2 tháng.
Hầu hết bệnh nhân có bệnh cảnh vàng da tăng
dần, đau âm ỉ hạ sườn phải, sụt cân và thiếu máu.
Vị trí thường gặp nhất của ung thư đường
mật là vùng rốn gan (64,2%).
Xét nghiệm chỉ điểm khối u
CA 19-9 có giá trị hơn CEA trong việc chẩn
đoán ung thư đường mật.
CA 19-9 tăng dần theo thời gian mắc bệnh.
Nhóm bệnh nhân mắc bệnh trên 2 tháng có nồng
độ CA 19-9 trung bình cao hơn gần 15 lần so với
nhóm bệnh nhân mắc bệnh trong vòng 1 tháng.
Chẩn đoán hình ảnh
Chụp cắt lớp điện toán xác định được u và vị trí u
đường mật với độ nhạy cao hơn của siêu âm.
Chụp hình đường mật xuyên gan qua da và qua
nội soi mật tụy ngược dòng cho thấy rõ hình ảnh cây
đường mật, xác định chính xác vị trí tắc mật.
Các phương pháp điều trị tạm bợ chỉ có thể
cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân nhưng
không làm kéo dài thời gian sống, đa phần bệnh
tử vong trong vòng chưa đến một năm sau khi
xuất viện.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 170 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của ung thư đường mật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 1
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG
CỦA UNG THƯ ĐƯỜNG MẬT
Nguyễn Đăng Bảo*, Đỗ Đình Công* *
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng để giúp chẩn đoán sớm bệnh ung thư đường mật.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả. Hồi cứu tất cả bệnh nhân được chẩn đoán ra viện là ung thư đường mật tại
bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian từ tháng 01/ 2004 đến 12/2006.
Kết quả: Có 148 bệnh nhân, gồm 87 nam và 61 nữ, tuổi trung bình là 61,7± 14,5. Bệnh cảnh lâm sàng chủ yếu là vàng
da tăng dần, đau âm ỉ hạ sườn P, sụt cân và thiếu máu. Vùng rốn gan là vị trí thường gặp nhất, chiếm tỉ lệ 64,2%.. Chẩn
đoán khó khăn, dựa vào các đặc điểm lâm sàng kết hợp với siêu âm, CT, PTC, ERCP, CA 19-9. Ở ngưỡng 35U/l CA 19-9 có
độ nhạy 79,2%. CA 19-9 tăng dần theo thời gian mắc bệnh. Chụp cắt lớp vi tính có độ nhạy 74%. Chụp hình đường mật
xuyên gan qua da và qua ERCP cho thấy rõ hình ảnh cây đường mật và vị trí tắc mật. Điều trị triệt đễ vẫn là thử thách lớn
đối với các phẫu thuật viên vì bệnh lớn tuổi, đến viện ở giai đoạn trễ, chỉ áp dụng được các phương thức điều trị tạm bợ
không mổ. Tiên lượng bệnh xấu, hầu hết bệnh tử vong trong vòng chưa đến một năm từ khi phát hiện bệnh.
Kết luận: Ung thư đường mật là bệnh khó chẩn đoán và điều trị. Để chẩn đoán sớm và chính xác cần có chiến lược
tầm soát thích hợp, nên làm xét nghiệm chỉ điểm khối u thường qui. Thực hiện nội soi ổ bụng trước mổ đối với những bệnh
nhân còn chỉ định phẫu thuật nhằm có phương thức điều trị thích hợp.
ABSTRACT
THE CLINICAL AND PARACLINICAL FEATURES OF CHOLANGIOCARCINOMA
Nguyen Dang Bao, Do Dinh Cong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 131 -- 137
Objectives: to study clinical and paraclinical factors to help early diagnose in the cholangiocarcinoma.
Methods: A descpriptive retrospective study with all of patients diagnosed cholangiocarcinima, at the moment of
dischargement, at Chôï raãy Hospital from 01/2004 to 12/2006.
Results: there were 148 patients with 87 men and 61 women. The average age was 61.7 ± 14.5. The common clinical
picture was gradual increased jaundice, dullness pain at right subcostal, loss weight and anemia. The most common position
was the liver hilus, taked 64.2%. The diagnose was difficult to base clinical signs combined with abdominal ultrasonography,
CT scanner, PTC, ERCP, CA 19-9. At the level of 35U/l of CA 19-9, its sensitivity was 79.2%. CA 19-9 is gradual increased
according to time of disease. CT Scanner had the sensitivity 74%. PTR and ERCP displayed clearly the bile ducts and the
location of obstruction. The radical treatment is still a chance to surgeons because these patients are old, at terminal illness and
were treated only by the temporary nonoperative methods. The poor pronostic with the death in one month from the moment
of discover disease.
Conclusion: cholangiocarcinoma is difficult to diagnosis and treat. To early and exactly diagnose should have
approriated screening plan, do classic tumor markers. Endoscopy laparostomy should be done for the patients having
operative indication to gagne a convenable treatment plan.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư đường mật có chiều hướng tăng
dần trong ba thập kỷ qua(1,5,6,8,11,13,14,15,20). Theo một
số công trình nghiên cứu ở Việt nam, ung thư
đường mật nói chung chiếm khoảng 6% trong
tổng số các bệnh ngoại khoa gan mật(4).
* ĐH Y Dược Tp. HCM
** BV Đa khoa tỉnh Đăklăk
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 2
Chẩn đoán ung thư đường mật gặp nhiều
khó khăn do các triệu chứng lâm sàng nghèo
nàn, không đặc hiệu. Bệnh nhân đến bệnh viện
thường ở giai đoạn đã muộn. Khi chẩn đoán
được ung thư đường mật, hơn 2/3 trường hợp
không còn chỉ định phẫu thuật(24).
Tiên lượng bệnh rất xấu, phần lớn bệnh tử
vong từ 6 - 12 tháng kể từ khi phát hiện
bệnh(1,6,7,9,12,13,25,26).
Qua nghiên cứu này chúng tôi hy vọng góp
phần nào việc chẩn đoán sớm và chính xác bệnh
ung thư đường mật, để từ đó có những phương
thức điều trị tốt nhất cho bệnh nhân.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Bao gồm tất cả bệnh nhân được chẩn đoán ra
viện là ung thư đường mật tại Bệnh viện Chợ
Rẫy trong thời gian từ 01/2004 – 12/2006. Không
đưa vào nghiên cứu những bệnh nhân: ung thư
túi mật và ung thư bóng Vater.
Dữ liệu thu thập được xử lý theo các thuật
toán thống kê thông dụng như Chi bình phương,
T test và hệ số tương quan r (độ tin cậy 95%) với
chương trình SPSS 11.5.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian 3 năm từ tháng 1 năm 2004
đến tháng 12 năm 2006, bệnh viện Chợ Rẫy
thành phố Hồ Chí Minh đã điều trị 148 trường
hợp ung thư đường mật.
Đặc điểm về tuổi và giới
Tuổi: Nhỏ nhất là 21 và lớn nhất là 90. Tuổi
mắc bệnh trung bình là 61,7± 14,5.
Tỉ lệ ung thư đường mật tăng dần theo
tuổi, nhóm tuổi trên 60 có tỉ lệ cao hơn có ý
nghĩa (p=0,001).
Giới: Tỉ lệ nam/ nữ là 1,4.
Đặc điểm lâm sàng
Đa phần bệnh nhân đến bệnh viện sau khi có
triệu chứng từ 1-2 tháng chiếm tỉ lệ 45,9%.
Vàng da tăng dần là triệu chứng nổi bật, gặp
ở hầu hết bệnh nhân (81,1%). Đau bụng, sụt cân,
chán ăn, sốt chiếm tỉ lệ lần lượt là 71,6%, 54,7%,
43,9%, 17,6%.
Đặc điểm cận lâm sàng
Xét nghiệm sinh hoá
Tăng nồng độ bilirubine toàn phần chiếm
93,9%. Đặc biệt nồng độ >10 mg% chiếm đến 70,3%.
Đây là một trong những yếu tố tiên lượng nặng.
Tăng SGOT chiếm tỉ lệ 85,1%.
Tăng SGPT chiếm tỉ lệ 65,5%.
Xét nghiệm chỉ điểm khối u
Nồng độ CA 19-9 nhỏ nhất là 0, cao nhất là
83.840, trung bình là 15337,25 ± 14548,773.
Nồng độ CEA nhỏ nhất là 0, cao nhất là 202,
trung bình là 8,35± 24,4. Độ nhạy của CA 19-9 ở
ngưỡng 35U/l là 79,2%. Độ nhạy của CEA ở
ngưỡng 5ng/l là 26,4%.
Nồng độ trung bình của CA 19-9 và CEA tăng
dần theo thời gian mắc bệnh p=0,001 và p=0,036.
Nồng độ trung bình của CA 19-9 và thời gian mắc bệnh
N CA 19-9 CEA
< 1 tháng 22 1082,05 3,91
1-2 tháng 31 1446,84 3,97
> 2 tháng 19 16611,84 20,63
Chẩn đoán hình ảnh
Độ nhạy của siêu âm là 35,6% và độ nhạy
của CT là 74%.
Cell block
60 trường hợp được làm cell block, và chỉ
có 8 trường hợp phát hiện có tế bào ung thư
trong dịch mật.
Giải phẫu bệnh
Sinh thiết thực hiện được 10/148 trường hợp
và kết quả đều là ung thư biểu mô tuyến.
Chẩn đoán vị trí u
Vị trí Tần suất Tỷ lệ
Trong gan 8 5,4%
Rốn gan 95 64,2%
OMC 41 27,7%
Lan toả 4 2,7%
TỔNG 148 100%
Phương pháp điều trị
Điều trị Tần suất Tỷ lệ
PTBD 60 40,5%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 3
Đặt stent qua ERCP 46 31,1%
Phẫu thuật 14 9,5%
Điều trị nâng đỡ 28 18,9%
TỔNG 148 100%
Phẫu thuật được thực hiện chỉ 14 trường
hợp, trong đó 10 trường hợp chẩn đoán trước
mổ là sỏi đường mật, trong mổ phát hiện u
đường mật. 10 bệnh nhân này được xử trí nong
và đặt feeding tube qua chỗ hẹp hoặc đặt Kehr
vĩnh viễn.
Trong 4 trường hợp còn lại, một bệnh nhân
được mổ trong tình trạng nhiễm trùng nhiễm
độc nặng và cách xử trí là bơm rửa đường mật
và dẫn lưu Kehr. Hai trường hợp được nối túi
mật hỗng tràng và nối vị tràng. Trường hợp
còn lại được cắt gan hạ phân thuỳ II và nối ống
gan hạ phân thuỳ II – hỗng tràng Roux- en Y.
Bệnh nhân này sau mổ không thoát mê, người
nhà xin về.
Thời gian sống sau khi xuất viện
Qua liên lạc bằng điện thoại với 68/148 thân
nhân bệnh nhân, có 58/68 bệnh nhân tử vong từ
1- 8 tháng sau khi ra viện. 10 bệnh nhân còn
sống chủ yếu xuất viện vào cuối năm 2006.
BÀN LUẬN
Tuổi và giới
Theo các nghiên cứu nước ngoài, ung thư
đường mật có tuổi trung bình từ 50-70, và hiếm
khi xảy ra ở tuổi dưới 40(8,10,15,16,18,21).
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tuổi
trung bình là 61,67± 14,5, tuổi trẻ nhất là 21 và
cao nhất là 90. Nhóm tuổi trên 60 chiếm đến
57,5% trường hợp. Đặc biệt nhóm tuổi trên 70
chiếm tới 31,1%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ
nam/nữ là 1,4.
Thời gian mắc bệnh
Phần lớn bệnh nhân của chúng tôi đến khám
bệnh sau khi khởi phát triệu chứng đầu tiên
trong vòng 1-2 tháng, chiếm tỉ lệ 50%. Đặc biệt
có 18 bệnh nhân đến khám khi đã có biểu hiện
báng bụng, nghĩa là đã quá muộn.
Theo Alexander, thời gian từ khi khởi phát
bệnh đến khi vào viện từ 1-120 tháng(3).
Nhiều tác giả nhận xét thời gian mắc bệnh
trước khi nhập viện là một yếu tố tiên lượng
quan trọng để chọn lựa phương thức điều trị.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy
nồng độ trung bình của CA 19-9 và CEA tăng
có ý nghĩa theo thời gian mắc bệnh p=0,001 và
p =0,036.
Các dấu hiệu lâm sàng
Vàng da
Chúng tôi gặp hầu hết là vàng da tăng dần
và ngày càng nặng, đặc biệt vàng da có mối liên
quan với triệu chứng sốt và sụt cân cũng như
thiếu máu.
Đau bụng, sụt cân và chán ăn
Đau bụng, sụt cân và chán ăn cũng là những
triệu chứng thường gặp của ung thư đường mật
chiếm tỉ lệ theo thứ tự là 71,6%, 54,7% và 43,9%.
Đau bụng trong ung thư đường mật thường
là đau âm ỉ vùng hạ sườn phải, vùng thượng vị
hay ở cả hai vị trí, ít khi đau nhiều như trong
bệnh sỏi mật.
Sốt
Gặp 17,6% trường hợp, thường là sốt nhẹ, do
tình trạng nhiễm trùng đường mật.
Có mối liên quan giữa vàng da với triệu
chứng sụt cân và sốt (p=0,008 và p= 0,005). Như
vậy đặc tính của bệnh ung thư đường mật là
vàng da kèm gầy sút nhưng không sốt trừ
những trường hợp có nhiễm trùng đường mật
kèm theo.
Triệu chứng thực thể
Triệu chứng thực thể trong ung thư đường
mật là rất nghèo nàn, không đặc hiệu và thường
xuất hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn. Túi mật
to chiếm 10,8%, gan to chiếm 15,5%. Sờ được u
chiếm 6,8%. Báng bụng chiếm 12,2%.
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Các xét nghiệm sinh hoá
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 4
Tăng Bilirubin toàn phần chiếm 94,6%.
SGOT tăng chiếm 85,1%. SGPT tăng chiếm
65,5%. 70,3% bệnh nhân có nồng độ bilirubine
toàn phần >10mg%.
Nồng độ của bilirubin toàn phần cũng là một
yếu tố tiên lượng trong ung thư đường mật.
Bệnh nhân có nồng độ bilirubine toàn phần
>10mg% thì tiên lượng rất xấu(8,18).
Xét nghiệm chỉ điểm khối u
CA19-9 và CEA có độ nhạy lần lượt là 79,2%
và 26,4% ở ngưỡng 35U/l và 5ng/l.
Như vậy trong ung thư đường mật thì độ
nhạy của CA 19-9 cao hơn rất nhiều so với CEA.
Trong nghiên cứu của Xing Lei Qin cho thấy
độ nhạy của CA 19-9 và CEA gần tương đương
nhau, lần lượt là 77,14% và 68,57%. Tác giả cho
biết nồng độ của CA 19-9 và CEA tăng cao có ý
nghĩa khi so sánh với nhóm các bệnh mật lành
tính và nhóm người khoẻ mạnh (p<0,001 và
p<0,05). Tuy nhiên không có sự tương quan giữa
nồng độ CA 19-9 và CEA. Theo tác giả CA 19-9
là chất chỉ điểm khối u có giá trị trong chẩn đoán
ung thư đường mật, đánh giá khả năng cắt bỏ u
cũng như theo dõi hiệu quả điều trị(23).
SO SÁNH ĐỘ NHẠY CỦA CA 19-9(23)
Tác giả Độ nhạy của CA19-9
Torzilli et al 97,00%
Hultcrantz et al 76,00%
Kau et al 78,20%
Caturelli 68,00%
Xing Lei Qin 77,14%
Đỗ Mai Dung 76,00%
Chúng tôi 79,20%
Ngoài ra nồng độ CA 19-9 và CEA có liên
quan đến thời gian mắc bệnh của bệnh nhân,
thời gian khởi bệnh càng kéo dài thì nồng độ CA
19-9 và CEA sẽ tăng dần.
Không có sự khác biệt về nồng độ trung bình
của CA 19-9 và CEA giữa hai nhóm có nồng độ
bilirubine toàn phần < 21,4mg% và ≥ 21,4mg%.
Như vậy nồng độ của CA 19-9 và CEA không
phụ thuộc vào tình trạng tắc mật.
Đặc biệt nồng độ trung bình của CA 19-9
trong nghiên cứu của chúng tôi là 15.337,25U/l,
cao hơn nhiều so với các tác giả khác, đây là yếu
tố tiên lượng xấu(22).
Độ nhạy của CEA trong nghiên cứu của chúng tôi
là 26,4%, thấp hơn so với các tác giả khác.
Anderson và cộng sự cho rằng CEA đơn độc
không đặc hiệu trong ung thư đường mật.
Nhưng khi phối hợp cả hai CEA và CA 19-9 thì
độ nhạy và độ đặc hiệu sẽ gia tăng. Với CA 19-9
ở ngưỡng >180 U/l và CEA ở ngưỡng > 5,2 ng/ml
thì độ nhạy và độ đặc hiệu là 100%(8).
Jan và cộng sự nghiên cứu 373 trường hợp
ung thư đường mật trong gan được phẫu
thuật, kết luận rằng nồng độ CA 19-9 và CEA
có ý nghĩa đối với thời gian sống của bệnh
nhân sau mổ(18).
Siêu âm(5,8)
Chúng tôi ghi nhận 117/135 trường hợp
giãn đường mật trên siêu âm (86,7%), chủ yếu
là giãn đường mật trong gan. Tỉ lệ thấy u trên
siêu âm là 48/135, chiếm 35,6%, thấp hơn so
với các tác giả khác.
SO SÁNH KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN U
Tác giả Tỉ lệ phát hiện u %)
Lê Thanh Dũng 56,4%
Đỗ Mạnh Hùng 61,8%
Dương Văn Hải 23%
Trịnh Vĩnh Hùng 58%
Nesbit 47%
Byung In Choi 21%
Chúng tôi 35,6%
CT
Thực hiện được 100/148 trường hợp với tỷ lệ
giãn đường mật là 80/100 trường hợp chiếm 80%
và tỷ lệ thấy u là 74/100 trường hợp chiếm 74%.
SO SÁNH TỈ LỆ PHÁT HIỆN U TRÊN CT
Tác giả Tỉ lệ
Lê Thanh Dũng 76,9%
Đỗ Mạnh Hùng 72%
Trịnh Vĩnh Hùng 79,2%
Nesbit 69%
Chúng tôi 74%
Như vậy tỉ lệ phát hiện u trên CT của chúng tôi
là không khác so với các tác giả trong và ngoài
nước. So với siêu âm, CT có độ nhạy cao hơn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 5
Chụp đường mật xuyên gan qua da
Thực hiện 62/148 bệnh nhân trong đó ung
thư đường mật rốn gan chiếm 75,8%, ung thư
OMC chiếm 17,7% tiếp đến là ung thư đường
mật lan toả và ung thư đường mật trong gan với
tỉ lệ 4,8% và 1,6%.
Chụp hình đường mật qua nội soi mật tuỵ
ngược dòng
Thực hiện 51/148 bệnh nhân trong đó ung
thư đường mật rốn gan chiếm 60,8%, ung thư
OMC chiếm 37,3% và ung thư đường mật lan
toả là 1,9%.
Cell block và giải phẫu bệnh
Trong tổng số 148 bệnh nhân, có 60 bệnh
nhân được làm cell block và chỉ 8 bệnh nhân có
kết quả là có tế bào ung thư trong dịch mật
chiếm tỉ lệ 13,3%.
Chỉ 14/148 bệnh nhân được phẫu thuật và
10/14 bệnh nhân này được làm giải phẫu bệnh
với kết quả đều là ung thư biểu mô tuyến
đường mật.
Dương Văn Hải thực hiện 28/64 trường hợp
làm giải phẫu bệnh và 19 trường hợp cho kết
quả đúng chiếm 68%
Không giống với những loại ung thư khác,
việc chẩn đoán mô học của ung thư đường mật
là hết sức khó khăn vì vị trí, kích thước và đặc
tính tạo mô xơ của chúng, chúng thường định vị
ở vùng rốn gan giữa các cấu trúc mạch máu lớn.
Các phương pháp như tế bào học dịch mật qua
ERCP, chải tế bào và sinh thiết có độ nhạy
thường thấp(23).
Chẩn đoán vị trí
Về vị trí, ung thư đường mật vùng rốn gan
chiếm 64,2%, tiếp đến là ung thư OMC chiếm
27,7%, ung thư đường mật trong gan chiếm 5,4%
và ung thư đường mật lan toả chiếm 2,7%.
Lai và cộng sự nghiên cứu trong 5 năm từ
1998-2002 có 62 trường hợp ung thư đường mật,
trong đó ung thư đường mật rốn gan chiếm
58%, ung thư đường mật trong gan chiếm 21%
và ung thư ống mật chủ chiếm 21%(19).
Chẩn đoán vị trí ung thư đường mật chủ
yếu dựa vào CT, PTC và ERCP.
Điều trị
Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân
được điều trị không mổ chiếm 71,6%.
Trong số 14/148 bệnh nhân có chỉ định phẫu
thuật, chỉ có 1 bệnh nhân ung thư đường mật rốn
gan được phẫu thuật triệt để: cắt u, cắt gan hạ
phân thuỳ II, nối ống gan hạ phân thuỳ II-hỗng
tràng. 13 bệnh nhân còn lại được mổ cấp cứu với
chẩn đoán trước mổ là nhiễm trùng đường mật do
sỏi. Trong mổ phát hiện ung thư đường mật, 10
bệnh nhân được xử trí nong đường mật, đặt ống
qua chỗ hẹp hoặc bơm rửa đường mật và đặt dẫn
lưu Kehr vĩnh viễn. Ba trường hợp được nối túi
mật- hỗng tràng và nối vị tràng.
Điều trị nâng đỡ rồi cho về 28 bệnh nhân
chiếm 18,9%. Tương tự như các tác giả khác,
nghiên cứu của Dương Văn Hải từ 1985-1990 với
37 trường hợp, từ 1994-1996 với 53 trường hợp,
hầu hết cũng đều làm phẫu thuật giảm nhẹ(2).
Nghiên cứu của Nguyễn Tiến Quyết từ 2001-
2005 với 200 bệnh nhân, chỉ 29 bệnh nhân được
làm phẫu thuật triệt để chiếm 14,5%. Đáng lưu ý
là trong 29 bệnh nhân này có 4 bệnh nhân tử
vong trong thời gian nằm viện, 8 bệnh nhân suy
kiệt cho về, tính chung cho cả hai loại là 41,37%(3).
Blumgart (1985) phân tích 1406 trường hợp
ung thư đường mật rốn gan qua 47 công trình
nhận thấy chỉ 254 trường hợp cắt được bướu với
tỉ lệ tử vong của phẫu thuật là 18,3%(2). Tỉ lệ tử
vong vẫn là 18% theo Seiko Hirono nghiên cứu
từ 1986-2004(17).
Lai và cộng sự còn nhấn mạnh đến vai trò
của nội soi ổ bụng trước mổ, giúp đánh giá khả
năng cắt bỏ, giảm thời gian nằm viện và biến
chứng sau mổ(19).
Đối với những bệnh nhân còn khả năng
phẫu thuật triệt để có nồng độ bilirubine toàn
phần >10mg% thì nên được dẫn lưu mật qua
ERCP hoặc PTC, cho đến khi nồng độ bilirubine
toàn phần dưới 3 mg%. Dẫn lưu mật nhằm làm
giảm tình trạng ứ mật, xơ gan ứ mật và suy gan,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 6
là những yếu tố làm gia tăng biến chứng và tử
vong sau mổ(8).
Thời gian sống sau khi xuất viện
Trong số 68 bệnh nhân của chúng tôi, 58
bệnh nhân đã chết trong vòng 1 đến 8 tháng sau
khi xuất viện. Mười bệnh nhân còn sống đền
cuối năm 2006.
Theo các tài liệu nước ngoài, tiên lượng của
ung thư đường mật là rất xấu. Nếu được phẫu
thuật triệt căn, tỉ lệ sống 5 năm đối với ung thư
đường mật rốn gan chỉ từ 5-10%, và 20-30% đối
với ung thư đường mật đoạn xa.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 148 trường hợp ung thư
đường mật tại bệnh viện Chợ Rẫy trong thời
gian ba năm từ 1/2004 đến tháng 12/2006, chúng
tôi có một số kết luận:
Ung thư đường mật có những đặc điểm
Phần lớn bệnh xảy ra ở người trên 60 tuổi.
Bệnh thường xảy ra ở nam nhiều hơn so với nữ.
Đa số bệnh nhân đến khám sau khi khởi
phát triệu chứng từ 1-2 tháng.
Hầu hết bệnh nhân có bệnh cảnh vàng da tăng
dần, đau âm ỉ hạ sườn phải, sụt cân và thiếu máu.
Vị trí thường gặp nhất của ung thư đường
mật là vùng rốn gan (64,2%).
Xét nghiệm chỉ điểm khối u
CA 19-9 có giá trị hơn CEA trong việc chẩn
đoán ung thư đường mật.
CA 19-9 tăng dần theo thời gian mắc bệnh.
Nhóm bệnh nhân mắc bệnh trên 2 tháng có nồng
độ CA 19-9 trung bình cao hơn gần 15 lần so với
nhóm bệnh nhân mắc bệnh trong vòng 1 tháng.
Chẩn đoán hình ảnh
Chụp cắt lớp điện toán xác định được u và vị trí u
đường mật với độ nhạy cao hơn của siêu âm.
Chụp hình đường mật xuyên gan qua da và qua
nội soi mật tụy ngược dòng cho thấy rõ hình ảnh cây
đường mật, xác định chính xác vị trí tắc mật.
Các phương pháp điều trị tạm bợ chỉ có thể
cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân nhưng
không làm kéo dài thời gian sống, đa phần bệnh
tử vong trong vòng chưa đến một năm sau khi
xuất viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tôn Thất Quỳnh Ái, Phạm Hữu Thiện Chí, Nguyễn
Hoàng Định và cộng sự (1996), “Sơ bộ về ung thư
đường dẫn mật tại Khoa Ngoại Tổng quát Bệnh viện
Chợ Rẫy”, Hội thảo chuyên đề bệnh lý tiêu hóa, tr. 15-22.
2. Dương Văn Hải, Văn Tần (1994), “ Điều trị ngoại khoa
ung thư đường mật ngoài gan”, Sinh hoạt khoa học kỹ
thuật- Bệnh viện Bình Dân 2/1994, tr. 81-100.
3. Nguyễn Tiến Quyết (2005), “Kết quả điều trị ung thư
đường mật ngoài gan”, Y học Việt nam, tập 310, tr. 138-
143.
4. Trần Đình Thơ, Nguyễn Tiến Quyết, Đoàn Thanh Tùng,
Nguyễn Hải Nam (2005), “Một số đặc điểm dịch tễ học
của ung thư đường mật”. Y học Việt nam, tập 310, tr. 26-
33.
5. Đoàn Thanh Tùng, Trần Thái Phúc (2005), “ Nghiên cứu
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ung
thư đường mật ngoài gan”, Ngoại khoa, tập 55 (2), tr. 24-
29.
6. Đoàn Thanh Tùng, Đỗ Kim Sơn (2005), “ Ung thư
đường mật”, Y học Việt nam, tập 310, tr. 3-17.
7. Đoàn Thanh Tùng, Nguyễn Quang Nghĩa (2005),
“Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống
sau điều trị phẫu thuật ung thư đường mật trong
gan”, Y học Việt nam, tập 310, tr. 121-130.
8. Ahrendt S A, Pitt H A (2004), “ Biliary tract”, Sabiston
Textbook of Surgery, 17th edition, pp. 1597- 1641.
9. Bloom C M, Langer B, Wilson S R et al (1999),“Role of
US in the Detection, Characterization, and Staging of
Cholangiocarcinoma”, Radio Graphics,19, pp. 1199-
1218.
10. Blumgart L. H, Benjamin I. S (1994), “Cancer of the
bile ducts”. Surgery of the Liver and Biliary Tract,
Churchill Livingstone, second edition, 2, pp. 967- 995.
11. Bortolasi L, Burgart L J, Tsiotos G G et al (2000),
“Adenocarcinoma of the distal Bile Duct”, Dig Surg,17,
pp.36- 41.
12. Byrnes V, Afdhal N (2002), “ Cholangiocarcinoma of the
Hepatic Hilum”, Curr Treat Options Gastroenterol, 5, pp.
87-94.
13. Conner E H, Kiran R P, Pokala N et al (2006), “Bile
Duct Tumor”, eMedicine Journal,7(3).
14. Gerhards M F, Gulik T M, González D G et al (2003),
“Results of Postoperative Radiotherapy for Resectable
Hilar Cholangio carcinoma”, World J Surg, 27, pp. 173-
179.
15. Groen P C, Gores G J, Larusso N F et al (1999), “
Biliary tract cancers”, N Engl J Med, 341, (18), pp. 1368-
1378.
16. He P, Shi J S, Chen W K et al (2002), “ Multivariate
statistical analysis of clinicopathologic factors
influencing survival of patients with bile duct
carcinoma”, World J Gastroenterol, 8 (5), pp. 943-946.
17. Hirono S, Tani M, Kawai M et al (2006), “ Indication of
Hepatopancreatoduodenectomy for Biliary Tract
Cancer” World J Surg, 30, pp. 567-573.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 7
18. Jan Y Y, Yeh C N, Yeh T C (2005), “Prognostic analysis
of surgical treatment of peripheral
cholangiocarcinoma: Two decades of experience at
Chang Gung Memorial Hospital”, Word J Gastroenterol,
11, (12), pp. 1779-1784.
19. Lai E C, Lau W Y (2005), “Aggressive surgical
resection for hilar cholangiocarcinoma”, ANZ
JSurg,75, pp. 981-985.
20. Lazaridis K N, Gores G J (2005), “
Cholangiocarcinoma”, Gastroenterology, 128, pp. 1655-
1667.
21. 28 Leslie H. Blumgart and Michel Morin (1989),
“Tumours of the Gallbladder and Bile Ducts”,
Maingot’s Abdominal Operations, pp. 1533- 1554.
22. Ohtsuka M, Ito H, Kimura F et al (2002), “Results of
surgical treatment for intrahepatic
cholangiocarcinoma and clinico pathological factors
influencing survival”, Br J Surg, 89, pp. 1525-1531.
23. Qin X L, Wang Z R, Shi J S et al (2004), “Utility of serum
CA 19-9 in diagnosis of cholangiocarcinoma: In
comparison with CEA”, World J Gastroenterol, 10 (3), pp.
427-432.
24. Thongprasert S (2005), “ The role of chemotherapy in
cholangio carcinoma”, Ann Oncol, 16, pp. 1193-1196.
25. Todoroki T, Kawamoto T, Koike N et al (2001),
“Treament strategy for patients with middle and
lower third bile duct cancer”, Br J Surg, 88, pp. 364-
370.
26. Zang B H, Cheng Q B, Luo X J et al (2006), “Surgical
therapy for hiliar cholangiocarcinoma: analysis of 198
cases”, Hepatobiliary Pancreat Dis Int, 5, pp. 278-282.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 8
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ngoại Tổng quát 9
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_dac_diem_lam_sang_va_can_lam_sang_cua_ung_thu_duo.pdf