Nghiên cứu đặc điểm tầng nguy cơ tim mạch của bệnh nhân tăng huyết áp và không tăng huyết áp bị tai biến mạch máu não tại bệnh viện Đa khoa khu vực Bồng Sơn Bình Định

IV. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 212 bệnh nhân THA bị TBMMN, điều trị tại bệnh viện. Chúng tôi ghi nhận một số đặc điểm về phân tầng NCTM như sau: 1. Một số đặc điểm phân tầng NCTM chung - Tầng thấp: 5,1%. - Tầng trung bình: 34,5 %. - Tầng cao: 25%. - Tầng rất cao: 35,4%. 2. Một số liên quan giữa tầng NCTM với từng thể TBMMN - Tầng thấp: XHN 0,5% và NMN 4,7%. - Tầng trung bình: XHN 6,1% và NMN 28,3%. - Tầng cao: 5,6 XHN % và 19,4 NMN %. - Tầng rất cao: 6,6 XHN % và 28,8 NMN %. 3. Một số liên quan giữa tầng NCTM với tình trạng HA - Tầng thấp: liên quan chủ yếu với HA bình thường, không liên quan THA độ 2 và độ 3. - Tầng trung bình: liên quan chủ yếu với THA độ 1 và không có liên quan với THA độ 3. - Tầng cao: liên quan chủ yếu với THA độ 2 và không liên quan với THA độ 3. - Tầng rất cao: liên quan duy nhất với THA độ 3. - THA độ 1, THA độ 2 và THA độ 3 đều có nguy cơ TBMMN tương đương nhau. V. KIẾN NGHỊ Phân tầng NCTM ở bệnh nhân THA không chỉ để cho điều trị THA, mà nên đưa vào để tiên lượng khả năng bị TBMMN.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm tầng nguy cơ tim mạch của bệnh nhân tăng huyết áp và không tăng huyết áp bị tai biến mạch máu não tại bệnh viện Đa khoa khu vực Bồng Sơn Bình Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nội khoa Việt Nam Số 10 - tháng 12/201314 NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM TẦNG NGUY CƠ TIM MẠCH CỦA BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP VÀ KHÔNG TĂNG HUYẾT ÁP BỊ TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO TẠI BVĐKKV BỒNG SƠN BÌNH ĐỊNH Phan Long Nhơn*, Hoàng Thị Kim Nhung* * BVĐKKV Bồng Sơn Bình Định TÓM TẮT Mục tiêu: đánh giá đặc điểm tầng NCTM của bệnh nhân THA và không THA bị TBMN, và tìm hiểu một số liên quan giữa tầng NCTM với XHN, NMN và tình trạng HA. Đối tượng và phương pháp: một nghiên cứu mô tả cắt ngang gồm 212 bệnh nhân THA và không THA bị TBMMN, điều trị tại BVĐKKV Bồng Sơn Bình Định từ 06/2010-06/2012. Kết quả: 1. Một số đặc điểm phân tầng NCTM chung. - Tầng thấp: 5,1%. - Tầng trung bình: 34,5%. - Tầng cao: 25%. - Tầng rất cao: 35,4%. 2. Một số liên quan giữa tầng NCTM với từng thể TBMMN. - Tầng thấp: XHN 0,5% và NMN 4,7%. - Tầng trung bình: XHN 6,1% và NMN 28,3%. - Tầng cao: 5,6% XHN và 19,4% NMN. - Tầng rất cao: 6,6% XHN và 28,8% NMN. 3. Một số liên quan giữa tầng NCTM với tình trạng HA. - Tầng thấp: liên quan chủ yếu với HA bình thường, không liên quan THA độ 2 và độ 3. - Tầng trung bình: liên quan chủ yếu với THA độ 1 và không có liên quan với THA độ 3. - Tầng cao: liên quan chủ yếu với THA độ 2 và không liên quan với THA độ 3. - Tầng rất cao: liên quan duy nhất với THA độ 3. - THA độ 1, THA độ 2 và THA độ 3 đều có nguy cơ TBMMN tương đương nhau. Kết luận: có 5,1% BN tầng NCTM thấp, 34,5% BN tầng NCTM trung bình, 25% BN tầng NCTM cao và 35,4% BN tầng NCTM rất cao bị TBMMN. Đặc biệt là ở đối tượng BN THA và không THA có tầng NCTM thấp không những vẫn bị TBMMN mà còn bị với tần suất cao. Nên đưa phân tầng NCTM ở BN THA vào việc tiên lượng khả năng bị TBMMN. Người thẩm định: PGS.TS. Huỳnh Văn Minh NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Số 10 - tháng 12/2013 Nội khoa Việt Nam 15 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tăng huyết áp (THA) là một bệnh tim mạch phổ biến nhất hiện nay, tần suất bệnh tăng huyết áp ngày càng tăng trên thế giới, cả các nước phát triển và đang phát triển. Nó đã và đang là một vấn đề hết sức quan trọng, thách thức nền sức khỏe cộng đồng của mọi Quốc gia, được nhiều tổ chức y tế chuyên về bệnh tăng huyết áp-tim mạch cũng như ngành y tế nói chung lưu tâm, đưa ra nhiều chương trình, sách lược để khống chế. Tăng huyết áp đã được mệnh danh là “kẻ giết người thầm lặng” vì nó âm thầm và lặng lẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm cho con người, trong đó có suy tim, suy thận và đặc biệt là tai biến mạch máu não, một biến chứng nặng nề, tỉ lệ tử vong cao, gánh nặng lớn về kinh tế cho gia đình và xã hội. Tăng huyết áp đã được xác định là yếu tố nguy cơ hàng đầu của tai biến mạch máu não. Huyết áp càng cao nguy cơ tai biến càng lớn. Tuy nhiên trên thực tế lâm sàng không phải huyết áp thấp là không bị tai biến mạch máu não mà vẫn bị tai biến và còn chiếm một tỉ lệ cao. Phải chăng vấn đề này là còn phụ thuộc vào phân tầng nguy cơ tim mạch của tăng huyết áp và tầng nguy cơ nào sẽ bị tai biến nhiều hơn, thấp, trung bình, cao hay rất cao? Vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu và tìm đến sự đồng thuận. Để góp phần nghiên cứu vấn đề trên chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm tầng nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân tăng huyết áp và không tăng huyết áp bị tai biến mạch máu não tại Bệnh viện ĐKKV Bồng sơn Bình Định” nhằm 2 mục tiêu: 1. Đánh giá đặc điểm tầng nguy cơ tim mạch của bệnh nhân tăng huyết áp bị tai biến mạch máu não, điều trị tại Bệnh viện ĐKKV Bồng Sơn Bình Định 02 năm 2010-2012. 2. Tìm hiểu một số liên quan giữa tầng nguy cơ tim mạch với tai biến mạch máu não và tình trạng huyết áp. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu - Bệnh nhân THA và không TH có bị TBMMN điều trị tại BVĐKKV Bồng Sơn, Bình Định. - Thời gian từ 06/2010 đến tháng 06/2012. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Theo phương pháp mô tả cắt ngang. Đánh giá tăng huyết áp (THA): THA theo JNC VI. Tiền THA theo JNC VII. Đánh giá các YTNCTM: Theo khuyến cáo của Hội tim mạch Quốc gia Việt Nam. - Mức độ HA tâm thu và tâm trương. - Nam giới > 55 tuổi. - Nữ giới > 65 tuổi. - Hút thuốc lá. - Cholesterone toàn phần > 6,1mmol/l (240mg/dl) hoặc LDL-C >4,0 mml/L (160mg/l). - HDL-C < 1,0mmol/L (< 40mg/dl) ở nam giới, < 1,2 mmol/L (45mg/dl ) ở nữ. - Tiền sử gia đình thế hệ đầu tiên bị bệnh tim mạch trước 50 tuổi. - Béo phì và ít hoạt động thể lực. Đánh giá tầng nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân TH: Theo khuyến cáo của Hội Tim mạch Quốc gia Việt Nam và Chương trình phòng chống THA Quốc gia 2010. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nội khoa Việt Nam Số 10 - tháng 12/201316 Bệnh cảnh HA bình thường Tiền THA THA độ 1 THA độ 2 THA độ 3 HATT 120-129 và HATTr 80-84 mmHg HATT 130-139 và/ hoặc HATTr 85-89 mmHg HATT 140-159 và/ hoặc HATTr 90-99 mmHg HATT 160-179 và/ hoặc HATTr 100-109 mmHg HATT ≥180 và/hoặc HATTr ≥110 mmHg Không có YTNCTM NC thấp NC trung bình NC rất cao Có 1- 2 YTNCTM NC thấp NC thấp NC trung bình NC trung bình NC rất cao Có ≥ 3 YTNCTM, HCCH, tổn thương CQĐ, hoặc ĐTĐ NC trung bình NC cao NC cao NC cao NC rất cao Đã có biến cố, hoặc: bệnh TM, thận mạn NC rất cao NC rất cao NC rất cao NC rất cao NC rất cao - Chẩn đoán TBMMN: dựa vào 3 tiêu chuẩn chính của WHO. + Triệu chứng thần kinh khu trú. + Triệu chứng xảy ra đột ngột, tiến triển nhanh đến nặng, tồn tại trên 24 giờ. + Không có chấn thương sọ não. Chẩn đoán xác định XHN và NMN dựa vào chụp cắt lớp vi tính. - Phương pháp tiến hành: để xác định các YTNCTM và phân tầng NCTM, tất cả bệnh nhân được khai thác tiền sử, bệnh sử và làm các CLS để đánh giá: + Tình trạng huyết áp trước khi tai biến (khai thác tiền sử, bệnh sử). + Tình trạng ĐTĐ (khai thác tiền sử, bệnh sử hoặc XN glucose huyết, HbA1C). + Tình hình hút thuốc lá (khai thác tiền sử). + Rối loạn lipid máu (xét nghiệm bilan lipid). + Thực trạng hoạt động thể lực và béo phì (khai thác tiền sử). + Các biến cố đã có, các bệnh tim mạch, các tổn thương cơ quan đích... (khai thác tiền sử, bệnh sử, hoặc xét nghiệm CLS). Mỗi bệnh nhân đều có 1 bệnh án mẫu, thu thập đầy đủ tất cả dữ liệu nghiên cứu. - Phương pháp xử lý số liệu: xử lý số liệu theo chương trình Epi Info 6.0 và Exell 2003. III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 212 bệnh nhân được thu thập đầy đủ các dữ liệu chọn vào mẫu nghiên cứu với 114 BN nữ, 98 BN nam, tuổi trung bình 71,2 ± 12,1. Có kết quả như sau: 3.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu 3.1. 1 . Đặc điểm về tuổi: Bảng 3.1 Phân bố về tuổi Tuổi n Tỉ lệ % P (1) (2) (3) <40 1 0,5% 40-59 39 18,3% (1) < 0,0560-79 108 51% (2) >=80 64 30,2% (3) Tổng 212 100% NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Số 10 - tháng 12/2013 Nội khoa Việt Nam 17 Nhận xét: nhóm tuổi bị TBMMN chủ yếu là từ 60-79 tuổi (51%), tiếp đến là nhóm ≥ 80 tuổi (30,2%) và thấp hơn là nhóm tuổi 40-59 (18,3%), dưới 40 tuổi chỉ chiếm 0,5% thấp nhất, có sự khác biệt. Kết quả này cũng tương tự nghiên cứu của Vũ Hà Nga Sơn và Quản Thu Thủy ở 320 BN đột quỵ tại Bệnh viện 354, cho thấy lứa tuổi chủ yếu 50 trở lên 83,8%, dưới 40 tuổi chỉ chiếm 0,9%. Và nghiên cứu của nhóm tác giả Phạm Thị Diệu Linh, Trần Văn Huy, ở 100 BN đột quỵ tại Bệnh viện Khánh Hòa cũng ghi nhận dưới 40 tuổi 0%, lứa tuổi 60-79 chiếm 42,3% và từ 80 tuổi trở lên 3,3%. Trong nghiên cứu chúng tôi nếu tính gộp lứa tuổi từ 60 trở lên thì TBMMN chiếm 81,2% rất cao, tỉ lệ này cũng phù hợp với nghiên cứu của Lê Thị Thu Trang, Lê Văn Lâm, Lê Xích Ma, Lê Thanh Sơn, Hồ Công Thăng, Lê Thị Hồng nghiên cứu 109 BN TBMMN tại Quảng Trị, có 85 BN TBMMN là từ 60 tuổi trở lên chiếm 78%. Rõ ràng tuối là yếu tố nguy cơ của TBMMN. 3.1.2. Đặc điểm về giới Bảng 3.2. Phân bố về giới n Tỉ lệ p Nam 98 46,2% >0,05 Nữ 114 53,8% Tổng 212 100% Nhận xét: giới nữ có tỉ lệ TBMMN cao hơn nam, tuy nhiên không có sự khác biệt. Kết quả này có khác với Quảng Trị và Khánh Hòa. Theo nghiên cứu của nhóm tác giả tại Bệnh viện Quảng Trị nam 58,8%, nữ 41,2%. Và tại Khánh Hòa nam 59%, nữ 41%. Nhận xét: về HA tỉ lệ TBMMN có tăng dần từ tiền THA đến THA độ 3 và không có sự khác biệt giữa 3 độ THA. Kết quả nghiên cứu chúng tôi có khác với nghiên cứu của nhóm Lê Thị Thu Trang, Lê Văn Lâm, Lê Xích Ma, Lê Thanh Sơn, Hồ Công Thăng, Lê Thị Hồng ở 109 BN TBMMN tại Quảng Trị là tỉ lệ TBMMN giảm dần theo độ HA, THA độ 1 là 30,38%, độ 2 là 22,85% và độ 3 là 20,25%. Và kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự như nghiên cứu tại Bệnh viện tỉnh Khánh Hòa, THA độ 3 chiếm cao nhất 41%. Đặt biệt trong nghiên cứu này cho thấy có 6,6% BN không THA vẫn bị TBMMN. 3.1.3. Đặc điểm về HA Bảng 3.3. Kết quả về HA HA n Tỉ lệ % p HA bình thường 14 6,6 Tiền THA 6 2,9 THA độ 1 (1) 60 28,3 >0,05THA độ 2 (2) 65 30,6 THA độ 3 (3) 67 31,6 Tổng 212 100% NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nội khoa Việt Nam Số 10 - tháng 12/201318 3.1.4. Đặc điểm về thể TBMMN Bảng 3.4. Kết quả thể TBMMN Thể TBMMN n Tỉ lệ % p XHN 40 18,8 <0,01 NMN 172 81,2 Tổng 212 100% Nhận xét: TBMMN trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi đa phần là thể NMN, chiếm tỉ lệ 81,2%, khác biệt có ý nghĩa đối với XHN. Kết quả này cũng phù hợp với một số nghiên cứu khác như Vũ Hà Nga Sơn và Quản Thu Thủy, nghiên cứu 320 BN đột quỵ tại Bệnh viện 354, thấy NMN chiếm tới 73,8%. Lê Thị Thu Trang, Lê Văn Lâm, Lê Xích Ma, Lê Thanh Sơn, Hồ Công Thăng, Lê Thị Hồng nghiên cứu 109 BN TBMMN tại Quảng Trị, thấy NMN chiếm 72,48%. Đinh Văn Thắng, Tô Văn Hải, Trương Trường Giang, nghiên cứu 7892 BN TBMMN trong 10 năm 1998- 2007 ở Bệnh viện Thanh Nhàn Hà Nội cũng ghi nhận kết quả NMN là 69,7% chiếm tỉ lệ cao hơn XHN là 28,3%. Và đặt biệt kết quả này có khác với nghiên cứu của bệnh viện tỉnh Khánh Hòa ở 100 BN đột quỵ. Kết quả nghiên cứu này của nhóm tác giả Phạm Thị Diệu Linh, Trần Văn Huy cho thấy tỉ lệ NMN và XHN là xấp xỉ ngang nhau, 57% NMN và 43% XHN. 3.2. Kết quả phân tầng NCTM 3.2.1. Kết quả các YTNCTM Bảng 3.5. Kết quả tổng các YTNCTM n Tỉ lệ % P (1)(2)(3)(4) Mức độ HA 132 (1) 29,5 <0,05 Nam > 55T 86 (2) 19,2 Nữ > 65T 87 (3) 19,4 Hút thuốc lá 83 (4) 18,6 Cholesterone-TP/ LDL-C tăng HDL-C giảm 15 3,3 TS gia đình bị TM sớm 31 7,0 Béo phì, ít hoạt động thể lực 13 3,0 Tổng các YTNCTM 447 100% Nhận xét: kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố chỉ số HA cao chiếm 29,5%, là yếu tố nguy cơ cao nhất và có khác biệt đối với các yếu tố khác. Các yếu tố về tuổi, giới và hút thuốc lá chiếm tỉ lệ tương đương nhau 19,2% (nam), 19,4% (nữ) và 18,6% (thuốc lá). Yếu tố tăng cholesterone hoặc tăng LDL-C và giảm HDL-C chỉ chiếm 3,3%, tỉ lệ này có thấp hơn rất nhiều so với rối loạn lipid máu ở BN TBMMN của các nghiên cứu khác như ở Bệnh viện Quảng Trị NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Số 10 - tháng 12/2013 Nội khoa Việt Nam 19 42,2% tăng cholesterone, tăng LDL-C 47,7%. Điều này cũng phù hợp vì trong nghiên cứu chúng tôi xác định tăng cholesterone và tăng LDL-C theo tiêu chuẩn cholesterone toàn phần > 6,1mmol/l (240mg/dl) hoặc LDL-C >4,0 mml/L (160mg/dl), không phải chỉ đánh giá tăng đơn thuần theo nghĩa rối loạn lipid máu chung (tăng hơn chỉ số bình thường). Nhận xét: kết quả có 49,5% BN THA và không THA bị TBMMN có từ 3 YTNMTM trở lên, đây là một tỉ lệ rất cao, cho thấy việc phải đánh giá YTNCTM ở BN THA là rất cần thiết không phải chỉ để quyết định phương thức điều trị HA mà còn để tiên lượng nguy cơ TBMMN. Trong nghiên cứu này cho thấy một nửa bệnh nhân bị TBMMN có ≥3 YTNC. Bảng 3.6. Kết quả số YTNCTM trên từng BN Số YTNCTM n Tỉ lệ % P (1)(2)(3) Không YTNCTM 3 1,4 <0,05 1 YTNCTM (1) 33 15,6 2 YTNCTM (2) 71 33,5 ≥ 3 YTNCTM (3) 105 49,5 Tổng 212 100% 3.2.2. Kết quả đặc điểm phân tầng NCTM chung Bảng 3.7. Kết quả đặc điểm phân tầng NCTM chung Tầng NCTM n Tỉ lệ % P (2)(4) Thấp (1) 11 5,1 Trung bình (2) 73 34,5 > 0,05Cao (3) 53 25,0 Rất cao (4) 75 35,4 Tổng 212 100% Nhận xét: kết quả nghiên cứu về phân tầng NCTM cho thấy tầng thấp có 5,1% BN bị TBMMN, tầng trung bình có 34,5%, tầng cao 25% và tầng NCTM rất cao có 35,4% BN bị TBMMN. Điều này cho thấy ngay cả tầng NCTM thấp bao gồm cả đối tượng THA và HA bình thường vẫn bị TBMMN. Như vậy, vấn đề chỉ định điều trị cho những đối tượng có THA để ngăn ngừa TBMMN là việc cần phải đặt ra và bàn cãi giữa hai lĩnh vực: chỉ tích cực thay đổi lối sống, kiểm soát các YTNC như khuyến cáo là thật sự phù hợp hay cần phải điều trị bằng thuốc? Chắc chắn điều này sẽ cần nhiều nghiên cứu nữa để tìm đến sự đồng thuận. Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi cũng cho thấy khả năng bị TBMMN của BN THA và không THA ở tầng NCTM trung bình (34,5%), cao hơn tầng NCTM cao (25%) và tương đương với nhóm BN ở tầng rất cao (35,4%). Phải chăng đây là đặc điểm riêng của BN THA và không THA bị TBMMN của địa bàn Bắc tỉnh Bình Định hay là đặc điểm chung? Hy vọng sẽ có nhiều nghiên cứu hơn nữa để giúp giải đáp vấn đề này. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nội khoa Việt Nam Số 10 - tháng 12/201320 3.2.3. Kết quả liên quan giữa phân tầng NCTM với thể TBMMN Bảng 3.8. Kết quả phân tầng NCTM theo từng thể TBMMN Thể TB Tầng NCTM XHN NMN Tổng p n % n % Thấp (1) 1 0,5 10 4,7 11 (5,1%) <0,05 Trung bình (2) 13 6,1 60 28,3 73 (34,4%) Cao (3) 12 5,6 41 19,4 53 (25%) <0,05 Rất cao (4) 14 6,6 61 28,8 75 (35,4%) Tổng số 40 18,8% 172 81,2% 212 (100%) Nhận xét: đối với XHN, tầng NCTM thấp chỉ chiếm 0,5%, tầng trung bình chiếm 6,1%, tầng cao chiếm 5,6% và tầng rất cao chiếm 6,6% trong tổng BN THA và không THA bị TBMMN. Không có sự khác biệt giữa tỉ lệ bị TBMMN của 3 tầng nguy cơ trung bình, cao và rất cao. Riêng đối với NMN có sự khác biệt về tỉ lệ BN bị TBMMN giữa các tầng NCTM. Tầng trung bình lại có liên quan nhiều đến bị TBMMN (28,3%) hơn tầng cao (19,4%) và tương đương với tầng NCTM rất cao (28,8%). Và có lẽ đây cũng là một mối liên quan rất riêng cần lưu tâm và cũng cần phải cảnh giác vì không phải tầng nguy cơ trung bình và thậm chí là ở tầng nguy cơ thấp lại bị ít TBMMN hơn BN có tầng nguy cơ cao và rất cao. 3.2.4. Kết quả liên quan giữa phân tầng NCTM với tình trạng HA của BN TBMMN Bảng 3.9. Kết quả liên quan giữa phân tầng NCTM với tình trạng HA HA Tầng NCTM Tình trạng HA Tổng p Bình thường Tiền THA THA Độ 1 THA Độ 2 THA Độ 3 Thấp 7 (3,3%) 3 (1,4%) 1 (0,5%) 0 0 11 (5,1%) Trung bình 6 (2,8%) 0 43 (20,3%) 24 (11,3%) 0 73 (34,5%) Cao 0 2 (0,9%) 14 (6,6%) 37 (17,4%) 0 53 (25,0%) Rất cao 1 (0,5%) 1 (0,5%) 2 (0,9%) 4 (2%) 67 (31,6%) 75 (35,4%) Tổng số 14(6,6%) 6 (2,8%) 60 (28,3%) 65 (30,7%) 67 (31,6%) 212 (100%) Nhận xét: về liên quan tầng NCTM và HA kết quả bảng này cho thấy HA bình thường lại chiếm tỉ lệ cao nhất (3,3%) của tầng NCTM thấp. Tầng trung bình thì THA độ 1 chiếm cao nhất (20,3%), tầng cao THA độ 2 cao nhất (17,4%) và tầng rất cao toàn bộ là THA độ 3 (31,6% tổng mẫu và chiếm 100% của tầng NCTM rất cao). Như vậy tầng thấp có liên quan chủ yếu với HA bình thường, tầng trung bình liên quan chủ yếu với THA độ 1, tầng cao NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Số 10 - tháng 12/2013 Nội khoa Việt Nam 21 liên quan chủ yếu với THA độ 2 và tầng NCTM rất cao có liên quan 100% với THA độ 3. Kết quả bảng này cũng cho thấy nguy cơ bị TBMMN là có liên quan với THA và cả 3 độ THA là có nguy cơ bị TBMMN tương đương nhau: THA độ 1 là 28,3%, THA độ 2 là 30,7% và THA độ 3 là 31,6% bị TBMMN trong tổng số 212 BN THA được nghiên cứu. Và kết quả này cũng cho thấy ngay cả tình trạng HA đang là bình thường vẫn bị TBMMN (chiếm 6,6%). Điều này cũng cho thấy chỉ chú ý vào tình trạng HA của BN là chưa đủ giúp tiên lượng khả năng bị TBMMN, mà cần phải dựa vào phân tầng NCTM cho dù vẫn biết THA là nguy cơ hàng đầu, thế nhưng HA bình thường và tiền THA vẫn chiếm một tỉ lệ bị TBMMN đáng kể. IV. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 212 bệnh nhân THA bị TBMMN, điều trị tại bệnh viện. Chúng tôi ghi nhận một số đặc điểm về phân tầng NCTM như sau: 1. Một số đặc điểm phân tầng NCTM chung - Tầng thấp: 5,1%. - Tầng trung bình: 34,5 %. - Tầng cao: 25%. - Tầng rất cao: 35,4%. 2. Một số liên quan giữa tầng NCTM với từng thể TBMMN - Tầng thấp: XHN 0,5% và NMN 4,7%. - Tầng trung bình: XHN 6,1% và NMN 28,3%. - Tầng cao: 5,6 XHN % và 19,4 NMN %. - Tầng rất cao: 6,6 XHN % và 28,8 NMN %. 3. Một số liên quan giữa tầng NCTM với tình trạng HA - Tầng thấp: liên quan chủ yếu với HA bình thường, không liên quan THA độ 2 và độ 3. - Tầng trung bình: liên quan chủ yếu với THA độ 1 và không có liên quan với THA độ 3. - Tầng cao: liên quan chủ yếu với THA độ 2 và không liên quan với THA độ 3. - Tầng rất cao: liên quan duy nhất với THA độ 3. - THA độ 1, THA độ 2 và THA độ 3 đều có nguy cơ TBMMN tương đương nhau. V. KIẾN NGHỊ Phân tầng NCTM ở bệnh nhân THA không chỉ để cho điều trị THA, mà nên đưa vào để tiên lượng khả năng bị TBMMN. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Đăng (1998), Tai biến mạch máu não, Nxb Y học Hà Nội, tr 76-128. 2. Đoàn Dư Đạt, Đặng Thị Quận và cs (2005), “Nhận xét các yếu tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp và các tổn thương cơ quan đích trong các bệnh nhân tăng huyết áp tại Khoa Tim mạch Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí Quảng Ninh năm 2003-2004”, Kỷ yếu các đề tài nghiên cứu khoa học, Hội nghị tim mạch Miền Trung mở rộng lần III, Tạp chí Tim mạch học (41), tr 514 - 524. 3. Hội tim mạch quốc gia Việt Nam (2008), “Khuyến cáo 2010 của Hội tim mạch học Việt Nam về chẩn đoán, điều trị và dự phòng tăng huyết áp ở người lớn”, Khuyến cáo về các bệnh lý tim mạch và chuyển hóa giai đoạn 2006-2010, tr 1-51 4. Hoàng Khánh (2007), “Các yếu tố nguy cơ gây tai biến mạch máu não”, Kỷ yếu toàn văn các đề tài nghiên cứu khoa học. Đại hội Nội tiết và Đái tháo đường Quốc gia Việt Nam lần thứ 3, Tạp chí Y học thực hành (507-508), tr 72-79. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nội khoa Việt Nam Số 10 - tháng 12/201322 5. Phạm Diệu Linh, Trần Văn Huy (2009), “Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ liên quan đến đột quỵ tại Bệnh viện tỉnh Khánh Hòa”, Tạp chí Nội khoa Việt Nam, (1/2009), tr 518-524. 6. Phan Long Nhơn, Hoàng Thị Kim Nhung, Huỳnh Văn Minh (2007), “Nghiên cứu tình hình tăng huyết áp người lớn ở dân cư Bắc Bình Định - Đánh giá bước đầu qua 1002 bệnh nhân”, Tạp chí Tim mạch học Việt Nam, (47), tr 31-37. 7. Vũ Hà Nga Sơn và Quản Thu Thủy (2009), “Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ tim mạch trên bệnh nhân đột quỵ tại Bệnh viện 354”, Tạp chí nội khoa, (1/2009), tr 482-486. 8. Lê Thị Thu Trang, Lê Văn Lâm, Lê Xích Ma, Lê Thanh Sơn, Hồ Công Thăng, Lê Thị Hồng (2009), “Nghiên cứu vai trò các yếu tố nguy cơ và đặc điểm lâm sàng giai đoạn cấp của bệnh tai biến mạch máu não tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị năm 2009”, Tạp chí Nội khoa Việt Nam, (1/2009), tr 504-511. 9. Đinh Văn Thắng, Tô Văn Hải, Trương Trường Giang (2009), “Tình hình tai biến mạch máu não tại Bệnh viện Thanh Nhàn trong 10 năm 1998-2007”, Tạp chí Nội khoa Việt Nam, (1/2009), tr 512-517. SUMMARY STUDYING CHARACTERICICS OF THE CARDIO-VASCULAR RISK CLASS OF HYPERTENSIVE AND NON-HYPERTENSIVE PATIENTS HAVE BEEN STROKE AT BONG SON GENERAL HOSPITAL BINH ĐINH PROVINCE Objective: To study the prevalance of low class, average class, high class and very high class of cardio-vascular risk class of hypertensive and non-hypertensive patients, have been stroke. To evaluate some relations between cardio-vascular risk class and haemorrhage cerebral stroke (HSC), ischemic cerebral stroke (ICS) and blood pressure. Patients and methods: A cross-sectional study of 212 hypertensive and non-hypertensive patients have been stroke, treatmented at Bong Son general Hospital Binh Đinh province from 06/2010 to 06/2012. Results: The prevalance of low class 5.1%, average class 34.5%, high class 25% and very high class 35.4%. The relations: - Haemorrhage cerebral stroke (HSC), ischemic cerebral stroke (ICS): Low class 0.5% HSC and 4.7% ISC, average class 6.1% HSC and 28.3% ISC, high class HSC 5.6% and 19.4% ISC and very high class 6.6% HSC and 28.8% ISC. - Blood pressure: Low class: Main relation with normal blood pressure, non-relation with hypertension stage 2 and 3. Average class: Main relation with hypertension stage1, non- relation with hypertension stage 3. High class: Main relation with hypertension stage 2, non- relation with hypertension stage 3. Very high class: Only relation with hypertension stage3. Hypertension stage 1, stage 2 and stage 3 there were the same risk of stroke. Conclusions: There were 5.1% low class, 34.5% average class, 25% high class and very high class 35.4%. Special in normal blood pressure patients have low cardio-vascular risk class, they also were been haemorrhage cerebral stroke and ischemic cerebral stroke that were been stroke with high prevalence. Shoud be used the cardio-vascular risk class of hypertensive and non- hypertensive patients for prognostic of stroke.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_dac_diem_tang_nguy_co_tim_mach_cua_benh_nhan_tang.pdf
Tài liệu liên quan