This paper presents groundwater modeling works for the south downstream Tri An reservoir area to address the
impact of the reservoir on groundwater level regime. Two models have been carried: one for the whole large
downstream area to study the regional groundwater level regime and another for smaller area immediate downstream
the reservoir to study in more details the impact on Pleistocene basalt aquifer. The results have shown that for many
years of the reservoir operation with water level ranging from death level to maximal flood level, the reservoir has impact
only on distance of about 15km downstream. The annual reservoir water level fluctuation has impact only in short
distance from the reservoir about 8km to cause groundwater level fluctuation magnitude of about 0.1m. For the
Pleistocene basalt aquifer in the south, the reservoir has causing water level increase of about 30m (in distance of about
500m from the reservoir) to 1m (in distance of about 8km from the reservoir). With this water level rise and/of aquifer
thickness increase over more than 200km2 in the south downstream, the groundwater exploitation reserve would
dramatically increase.
12 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 582 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của hồ Trị An đến động thái mực nước dưới đất khu vực hạ lưu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
465
34(4), 465-476 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2012
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG
CỦA HỒ TRỊ AN ĐẾN ĐỘNG THÁI
MỰC NƯỚC DƯỚI ĐẤT KHU VỰC HẠ LƯU
NGUYỄN VĂN HOÀNG, ĐINH VĂN THUẬN,
NGUYỄN ĐỨC RỠI, LÊ ĐỨC LƯƠNG
E-mail: N_V_Hoang_VDC@yahoo.com
Viện Địa chất - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 30 - 7 - 2012
1. Mở đầu
Hồ Trị An được xây dựng ở phần cuối trung
lưu sông Đồng Nai, cách thành phố Hồ Chí Minh
50km theo đường chim bay. Hồ Trị An có nhiệm
vụ chính là phát điện và tưới nước theo yêu cầu
nông nghiệp, ngoài ra còn tham gia đẩy mặn ở hạ
lưu, cấp nước cho dân sinh và công nghiệp, kết hợp
nuôi trồng thủy sản trong vùng hồ. Nhà máy thủy
điện Trị An được xây dựng từ năm 1984 và bắt đầu
phát điện từ năm 1987.
Cũng như các hồ khác trên thế giới và ở Việt
Nam, sau khi xây dựng và đi vào hoạt động, hồ Trị
An đã có những tác động đến các yếu tố môi
trường địa chất của lưu vực sông Đồng Nai như:
làm phát sinh các nguy cơ tai biến địa chất như tái
tạo bờ hồ, trượt đất, xói lở, bồi tụ, xâm nhập mặn
nước mặt, động đất kích thích,... Đối với tài
nguyên nước ngầm, hồ có ý nghĩa lớn là bổ cập
nước cho các tầng chứa nước (TCN) và làm gia
tăng đáng kể trữ lượng nước dưới đất (NDĐ) khu
vực lân cận, đặc biệt vào mùa khô ở khu vực hạ
lưu. Mực nước của các TCN có thể tăng lên đến
hàng chục mét phụ thuộc vào mực nước trong hồ
chứa và vị trí tính từ hồ, vì vậy có khả năng cung
cấp nước rất lớn so với khi chưa có hồ chứa. Sự gia
tăng nguồn NDĐ của hồ Trị An được nghiên cứu
đánh giá trong công trình này.
2. Đặc điểm địa chất thủy văn khu vực hạ lưu
hồ Trị An
2.1. Các tầng chứa nước lỗ hổng [2]
2.1.1. Tầng chứa nước lỗ hổng Pleistocen giữa -
trên (qp)
Gồm hai phân vị địa tầng là (i) Hệ tầng Thủ
Đức (Q12-3tđ) và (ii) Hệ tầng Củ Chi (Q13cc). Cả
hai phân vị trên có diện phân bố không liên tục,
chiều dày biến đổi lớn, giữa chúng không có lớp
cách nước hoàn chỉnh. Thành phần thạch học gồm
cát hạt mịn, trung, thô lẫn sét bột, nhiều nơi chứa
sạn cuội sỏi xen kẹp các thấu kính mỏng sét bột,
bột cát mịn. NDĐ trong các trầm tích này có quan
hệ thủy lực, có cùng nguồn cung cấp và hướng vận
động chính, có các đặc trưng địa chất thủy văn
(ĐCTV) khác gần gũi như thành phần hóa học
nước, chiều sâu mực nước,... Vì vậy, chúng được
xếp chung vào một TCN. Tầng có diện phân bố
khoảng 900km2, trong đó diện lộ trên mặt khoảng
499km2, diện tích bị tầng Holocen che phủ khoảng
401km2. Chiều dày thay đổi từ 0,80m ở Tuy Hạ -
Nhơn Trạch đến 37,2m ở Long Thành, chiều dày
trung bình 8,5m.
2.1.2. Tầng chứa nước Pleistocen dưới (qp1)
Tầng chứa nước Pleistocen dưới (qp1) thuộc hệ
tầng Trảng Bom (Q11tb). Diện phân bố khoảng
251km2, trong đó diện lộ khoảng 180km2 và diện
tích bị các thành tạo trẻ hơn che phủ khoảng
466
71km2, tập trung ở các vùng Biên Hoà (Long Bình,
Nam Hố Nai), Thống Nhất (Trảng Bom), Long
Thành và một vài nơi khác. Chiều dày thay đổi từ
l,00m ở Tp. Biên Hoà đến 38m ở Trảng Bom -
Thống Nhất, chiều dày trung bình 13,9m. Thành
phần đất đá chứa nước chủ yếu là cát hạt mịn đến
trung chứa sạn, sỏi, có nơi là sét pha cát lẫn sạn sỏi
hoặc cát, cuội, sỏi gắn kết yếu bằng bột sét. Nguồn
cung cấp chính cho tầng là nước mưa trực tiếp
ngấm và nước mặt. Riêng khu Hố Nai và phần phía
bắc Biên Hòa qua phân tích sự biến đổi về loại
hình hóa học nước, cho thấy có sự cung cấp bổ
sung từ nước khe nứt trong đá trầm tích Jura.
2.1.3. Tầng chứa nước Pliocen n2
Tầng chứa nước Pliocen gồm các thành tạo địa
chất thuộc hệ tầng Bà Miêu (N2bm), phân bố liên
tục từ Long Bình và trải rộng trên toàn bộ phần tây
nam của tỉnh Đồng Nai với diện tích khoảng
890km2. Các trầm tích Pliocen chỉ lộ ra trên mặt với
diện tích khoảng 74km2, ở một số nơi thành các dải
hẹp (Long Bình, Phước Tân, Nhơn Trạch) và một số
núi sót Trây Tanh Phước), còn lại chúng bị phủ bởi
trầm tích trẻ hơn với diện tích khoảng 816km2.
Thành phần đất đá chứa nước gồm bột cát, cát bột
mịn đến thô. Càng xuống dưới hàm lượng hạt thô
trong cát càng tăng lên, ở một số nơi trong cát có lẫn
sạn sỏi thạch anh màu trắng, đôi nơi lẫn ít sét.
Thường có các lớp hoặc thấu kính mỏng sét bột - sét
có khả năng chứa nước yếu xen kẹp. Khu trung tâm
Long Thành tới sông Buông được đánh giá có mức
độ giàu nước từ trung bình đến giàu. Khu bắc sông
Buông tới An Bình, Long Bình TCN Pliocen có
mức độ chứa nước hạn chế và khả năng chứa nước
thuộc loại nghèo đến trung bình.
Nguồn cung cấp chính cho TCN là nước mưa ở
những vùng lộ và gián tiếp ngấm xuống qua các
''cửa sổ ĐCTV'' ở trung tâm khu vực Thành Tuy
Hạ, Thiên Bình, nơi tuy có nền địa hình cao nhưng
bề mặt lõm, hoặc trũng hình lòng chảo, về mùa
mưa được chứa đầy nước (dân địa phương gọi là
bàu), về mùa khô nước trong các bàu này bị cạn kiệt
do bốc hơi, còn phần lớn được ngấm xuống TCN.
Khu đông bắc Long Thành còn được bổ cập từ các
dòng ngầm ngoài biên giới phía đông chảy tới.
2.2. Các tầng chứa nước khe nứt
Các TCN khe nứt bao gồm:
- TCN khe nứt Pleistocen trên (βqp3);
- TCN khe nứt Pleistocen giữa (βqp2);
- TCN khe nứt Pliocen trên - Pleistocen dưới
(βn2-qp1);
- TCN khe nứt Miocen trên (βn23);
- TCN khe nứt các trầm tích và phun trào Kreta
dưới (k1);
- TCN khe nứt các đá trầm tích Jura (j1-2).
2.2.1. Tầng chứa nước khe nứt Pleistocen trên
(βqp3)
Tầng chứa nước khe nứt Pleistocen trên (βqp3)
gồm các hệ tầng Phước Tân (βQ13pt), Sóc Lu
(βQ13sl) và Cây Gáo (βQ13cg). Diện tích phân bố
của TCN khe nứt Pleistocen trên (βqp3) khoảng
676 km2. Các thành tạo phun trào Pleistocen trên lộ
ra trên mặt với diện tích khá lớn khoảng 642km2,
một số nơi chúng bị phủ bởi trầm tích trẻ hơn
(Holocen) với diện tích nhỏ hẹp, khoảng 34km2.
Kết quả nghiên cứu địa tầng cho thấy: lớp trên
cùng là basalt phong hóa triệt để thành bột sét,
không có khả năng chứa nước, dày từ 1,0m (Bàu
Cạn - Long Thành) đến 35m (Phú Bình - Tân Phú),
trung bình 9,76m; Phần dưới là đá basalt phong hoá
dở dang, màu xám đen cấu tạo đặc sít đôi nơi có ít lỗ
hổng, đá nứt nẻ, chứa nước tốt, chiều dày từ 8m
(Thanh Sơn - Định Quán) đến 84,7m (Phú Lợi -
Định Quán), trung bình 32,3m.
2.2.2. Tầng chứa nước khe nứt Pleistocen giữa
(βqp2)
Tầng chứa nước khe nứt Pleistocen giữa (βqp2)
gồm hệ tầng Xuân Lộc (βQ12xl). Diện phân bố khá
rộng, khoảng 1033km2, lộ ra trên mặt khoảng
770km2, bị phủ khoảng 263km2, kéo dài từ nửa
phía đông của huyện Thống Nhất (xã Tây Hòa)
theo quốc lộ 20 tới phía đông xã Gia Kiệm và vùng
đông bắc thị trấn Xuân Lộc. Tiếp tục từ thị trấn
Xuân Lộc về đến phía nam và đông nam tới sông
Ray tiếp sang Bà Rịa - Vũng Tàu.
Đặc điểm của phun trào basalt Xuân Lộc là
gồm nhiều đợt (pha) phun trào, các đợt phun trào
này không liên tục mà bị gián đoạn, trên địa tầng
thường có các gián đoạn được đánh dấu bằng các
lớp basalt phong hóa mềm bở, phong hóa hoàn
toàn tạo tầng bột, sét có lẫn các cục đá basalt mềm
(xã Xuân Bao), phong hóa gồm bột sét, không có
khả năng chứa nước, chiều dày tổng cộng từ 1,5m
(Tây Hoà - Thống Nhất) đến 76m (Xuân Thạnh-
Long Khánh), trung bình 22,18m. Các lớp basalt
467
phong hoá dở dang, đá màu xám đen, cấu tạo lỗ
hổng xen đặc xít, lỗ hổng có kích thước 0,1 - 3cm,
đá nứt nẻ mạnh phân bố không đều có xu hướng
giảm dần theo chiều sâu, chứa nước tốt, chiều dày
tổng cộng từ 0,5m (Xuân Tây - Xuân Lộc) đến
155,6m (Xuân Thanh - Long Khánh), trung bình
44,9m. Các thành tạo phun trào basalt Pleistocen
giữa nằm trên bề mặt phong hoá của trầm tích Jura.
2.2.3. Tầng chứa nước khe nứt Pliocen trên -
Pleistocen (βn2-qp1)
Tầng chứa nước khe nứt các thành tạo phun trào
basalt Pliocen trên-Pleistocen dưới (βn2-qp1) của hệ
tầng Túc Trưng (βN2-Q1). Diện phân bố rộng, tập
trung ở phía đông hồ Trị An, từ xã La Ngà qua xã
Túc Trưng đến suối Nho - suối Tam Bung (Định
Quán), thung lũng xã Suối Cao, xã Xuân Bắc,
Xuân Thọ (Xuân Lộc) và các xã Xuân Đông, Xuân
Tây đến xã Sông Ray, Lâm San (Xuân Lộc). Tổng
cộng diện phân bố khoảng 615km2, trong đó diện
tích lộ trên mặt đất khoảng 339km2 và diện tích bị
các thành tạo trẻ hơn che phủ khoảng 276km2.
Theo số liệu khu vực Gia Huynh, lớp vỏ phong hóa
dày 26m. Basalt chưa phong hóa gồm 7 lớp có cấu
tạo đặc sít và lỗ hổng xen nhau. Tại vùng Túc
Trưng các đá basalt nằm phủ trực tiếp lên các đá
tuổi Mesozoi (trầm tích Jura bị phong hoá). Chiều
dày lớp chứa nước (basalt phong hoá dở dang nứt
nẻ, basalt lỗ rỗng) từ 0,8m (Xuân Tân - Xuân Lộc)
đến 69m (Túc Trưng - Định Quán), trung bình
15,3m.
2.2.4. Tầng chứa nước khe nứt Miocen trên (βn23)
Tầng chứa nước khe nứt các thành tạo phun trào
basalt Pliocen trên (βn13) của hệ tầng Đại Nga
(βn13đn). Diện phân bố rộng khoảng 243km2, tập
trung ở bắc - tây bắc, Lâm trường Vĩnh An. Đây là
các basalt của khối basalt Đắk Nông, Bình Phước
kéo dài xuống, phủ lên các thành tạo Jura trong khu
vực huyện Tân Phú - Vĩnh Cửu và xã Phú Ngọc
(Định Quán). Các đá basalt phổ biến kiểu phun trào
chảy tràn, đá có dạng khối, đặc sít hoặc lỗ rỗng,
hạnh nhân xen kẽ nhau theo kiểu lớp phủ nằm
ngang. Trên bề mặt đá basalt thường gặp phổ biến
tầng đất đỏ, có chiều dày 5,0-15,0m hoặc gặp basalt
phong hóa ''bóc vỏ'' khá rắn chắc. Tầng có mức độ
chứa nước thuộc loại nghèo, diện phân bố tập trung
ở phía bắc khu vực rừng cấm nam Cát Tiên.
2.2.5. Tầng chứa nước khe nứt Kreta (k1)
Tầng chứa nước khe nứt các thành tạo phun trào
Kreta (k1) của hệ tầng Long Bình (k1lb). Trong
phạm vi tỉnh Đồng Nai, các thành tạo hệ tầng Long
Bình có diện phân bố khoảng 408km2, phần lộ trên
bề mặt địa hình rất hạn chế, khoảng 3km2, nhưng
gặp ở dưới sâu trong rất nhiều lỗ khoan. Các thành
tạo phun trào Kreta có độ nứt nẻ không đồng đều.
Chiều dày đới nứt nẻ chứa nước trong trầm tích
thường từ 40 đến 60m, trong trầm tích xen phun
trào trung bình 20 đến 40m, ít nứt nẻ đạt tới 50m.
Nhiều nơi chỉ gặp đá nguyên khối nứt nẻ rất ít. Các
thành tạo Kreta có mức độ chứa nước từ nghèo đến
giàu, tuỳ thuộc vào mức độ nứt nẻ và chiều dày đới
nứt nẻ. Tuy nhiên lượng nước khe nứt không
nhiều, ít tập trung.
2.2.6. Tầng chứa nước khe nứt các trầm tích Jura
(j1-2)
Tầng chứa nước khe nứt các trầm tích Jura (j1-2)
bao gồm hệ tầng Đắk Krông (J1đk), hệ tầng Mã Đà
(J2amđ) và hệ tầng Trà Mỹ (J2a-btm).
Hệ tầng Đắk Krông (J1đk) phân bố ở phía bờ
trái sông Đồng Nai, đoạn từ Thiện Tân qua Tân An
tới Trị An đến suối Linh, suối Bà Hào (Tây Vĩnh
Cửu) và phía tây hồ Trị An. Diện lộ tổng cộng
khoảng 299km2. Thành phần thạch học chủ yếu là
đá phiến sét xen bột kết và cát kết có chứa vôi.
Trong bột kết, đá phiến sét thường có kết hạch
silic. Chiều dày tập trên 100m.
Hệ tầng Mã Đà (J2amđ), Trà Mỹ (J2a-btm)
phân bố khá rộng, chủ yếu ở phía bắc tỉnh (vùng
Vĩnh Cửu - Vểnh An, khoảng 1.000km2). Các vùng
khác diện lộ không nhiều, khoảng vài chục kilômét
vuông (vùng Xuân Hiệp, sông Ray, núi Tràn -
Tam Bung).
Tổng diện tích phân bố của TCN khe nứt các
trầm tích Jura (J1-2) trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
khoảng 4.980km2, trong đó phần lộ ra trên mặt
khoảng 1.299km2, diện bị các thành tạo trẻ hơn che
phủ khoảng 3.681km2.
Thành phần đất đá gồm sét kết, bột kết xen kẹp
các lớp cát kết hạt mịn màu xám tro, xám đen,
phân lớp mỏng, ít nứt nẻ, phía trên bị phong hóa
tạo thành sét dẻo màu xám đen. Đới nứt nẻ trong
trầm tích Jura không đồng đều, chiều dày đới nứt
nẻ từ 2,4m (Long Bình - Biên Hoà) đến 72,0m
(Phú Ngọc - Định Quán). Tầng có mức độ chứa
nước từ nghèo đến giàu, tuỳ thuộc vào mức độ
phong hoá nứt nẻ và chiều dày của đới nứt nẻ, đới
phá hủy kiến tạo.
468
2.3. Các thành tạo địa chất rất nghèo nước
2.3.1. Các thành tạo Đệ tứ không phân chia (Q)
Thành tạo Đệ tứ không phân chia bao gồm các
trầm tích hồ (lQ), sườn tích (dQ), tàn tích (eQ),
diện tích khoảng 326km2. Đây là các thành tạo trẻ
nhất, nằm ở phần trên cùng của mặt cắt. Thành
phần thạch học gồm: cát, bột, sét lẫn sạn laterit
(trầm tích hồ), sét, bột lẫn các vụn hỗn hợp của đá
gốc lăn xuống (sườn tích) là sản phẩm phong hoá
của các thành tạo Jura, nên chúng nằm phủ trên các
trầm tích Jura. Chiều dày thường mỏng từ 0,5m
đến >10,m, trung bình khoảng 8,8m. Chiều dày
trung bình lớn nhất ở khu vực Tân Phú (11,20m),
Thống Nhất (11,5m) và nhỏ nhất ở Vĩnh Cửu
(6,7m). Khả năng chứa nước rất kém và được xếp
vào các thành tạo rất nghèo nước.
Thành tạo Holocen, bao gồm các trầm tích
nhiều nguồn gốc, gồm các tầng Bình Chánh (Q21-
2bc), Cần Giờ (Q22-3cg) và trầm tích hiện đại (Q23)
với diện tích phân bố khoảng 896km2. Thành phần
thạch học chủ yếu là hạt mịn (sét, bột, bùn sét, cát
pha), thành phần hạt thô chỉ ở dạng lớp mỏng xen
kẹp dạng thấu kính hoặc ổ cát mịn. Chiều dày thay
đổi từ l đến 5m ở phần phía bắc và dọc theo thung
lũng sông suối đến 25-30m ở phần địa hình thấp
phía nam và tây nam, chiều dày trung bình khoảng
14,90m. Chiều dày trung bình lớn nhất ở Long
Thành (16,4m), Nhơn Trạch (12,1m), Biên Hoà
(18,7m) và nhỏ nhất ở Định Quán (6m). Đây là
thành tạo rất nghèo nước, chiều dày không lớn.
2.3.2. Thành tạo Pleistocen giữa trên (Q12-3)
Thành tạo Pleistocen giữa trên là các trầm tích
hạt mịn của các hệ tầng Củ Chi (Q13cc) và Thủ
Đức (Q12-3tđ), phân bố chủ yếu ở phía tây nam của
tỉnh, bao gồm các khu vực từ tây nam Vĩnh Cửu
đến Biên Hoà, Long Thành, Nhơn Trạch và phía
tây huyện Thống Nhất. Các trầm tích thành phần
hạt mịn Pleistocen giữa - trên phân bố không liên
tục, nhiều nơi vắng mặt, một số nơi chỉ ở dạng thấu
kính mỏng xen kẹp. Thành phần thạch học bao
gồm sét bột bị laterit hoá, sét pha cát mịn nâu đỏ,
loang lổ vàng. Chiều dày thường 1-5m, có nơi đạt
tới 12m, chiều dày trung bình 7,3m. Chiều dày
trung bình lớn nhất ở Biên Hoà (10,1m), Vĩnh Cửu
(8,4m) và Long Thành (7,7m), nhỏ nhất ở khu vực
Nhơn Trạch (3,6m).
2.3.3. Thành tạo Pleistocen dưới (Q11)
Thành tạo Pleistocen dưới là các trầm tích có
thành phần hạt mịn của hệ tầng Trảng Bom (Q11tb),
phân bố chủ yếu ở phía tây nam của tỉnh, bao gồm
các khu vực từ tây nam Vĩnh Cửu đến Biên Hoà,
phía tây huyện Thống Nhất và Long Thành. Tương
tự như các thành tạo Pleistocen giữa - trên, các
trầm tích hạt mịn Pleistocen dưới phân bố không
liên tục, nhiều nơi vắng mặt, một số nơi chỉ ở dạng
thấu kính mỏng xen kẹp. Thành phần thạch học
gồm sét, sét bột cát mịn lẫn sạn sỏi màu xám vàng,
nâu đỏ loang lổ. Chiều dày thường 1-5m, có nơi
đạt tới 42m (Hố Nai 3 - Thống Nhất), chiều dày
trung bình 14m. Khu vực có chiều dày trung bình
lớn nhất là ở Thống Nhất (16,7m), Biên Hoà
(14,9m) và nhỏ nhất là ở Vĩnh Cửu là (4,4m).
2.3.4. Thành tạo Pliocen trên (N2)
Thành tạo Pliocen trên là các trầm tích có thành
phần hạt mịn của hệ tầng Bà Miêu (N22bm), với
diện lộ hạn chế, rải rác nhưng tập trung nhiều ở
Long Thành - Nhơn Trạch, ở phía tây bắc lộ rải rác
ở Biên Hòa đến Phước Tân, khu công nghiệp Biên
Hòa I. Ở các vùng Long Thành, Nhơn Trạch,
Thành Tuy Hạ và ở vùng Hố Nai, Xuân Lộc gặp
chủ yếu trong các lỗ khoan. Thành phần thạch học
là sét bột, sét pha cát.
Chiều dày thay đổi từ một vài mét đến 10m,
riêng khu Long Bình tới 15 - 20m. Các trầm tích
hạt mịn này phân bố không liên tục, nhiều nơi bị
bào mòn với diện tích khá rộng, tạo thành các “cửa
sổ ĐCTV” đóng vai trò khác nhau: ở Tam An, Lộc
An, Bắc Thành, Tuy Hạ tạo thành các cửa sổ thoát
nước, ngược lại ở An Viễn, trung tâm thành Tuy
Hạ,... là các cửa sổ thu nước.
2.3.5. Các thành tạo xâm nhập Kreta (K2)
Thành tạo xâm nhập Kreta (K2)bao gồm phức
hệ Định Quán (K1đq) và Ankroet (K2ak). Trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai, thành tạo xâm nhập này hầu
như bị phủ kín bởi các trầm tích trẻ hơn với thành
phần thạch học: diorit, diorit thạch anh, diorit
pyroxen - biotit, ít gabro - diorit chứa hai pyroxen,
tonalit, granodiorit, granit biotit, granit sáng màu
hạt nhỏ - trung, không đều, gabro, gabrodiorit,
monzodiorit, kiến trúc hạt nhỏ - vừa. Đá có cấu tạo
khối rắn chắc, nứt nẻ ít, bề mặt khe nứt bị sản phẩm
469
phong hóa tại chỗ của granit gồm cát pha sét, sét
pha cát lấp đầy, nên khả năng chứa nước rất kém.
2.3.6. Các thành tạo trầm tích Trias (T2)
Thành tạo trầm tích Trias chỉ có một hệ tầng
Bửu Long (T2bl), phân bố trong phạm vi tỉnh Đồng
Nai rất hạn chế, chủ yếu là ở vùng núi Bửu Long
(tây bắc thành phố Biên Hòa) và rất ít ở Nhơn
Trạch, các thành tạo này được coi là có tuổi cổ
nhất ở vùng Đồng Nai. Thành phần đất đá gồm
cuội kết, cuội - tảng kết chiếm ưu thế (thuộc phần
dưới của mặt cắt) có xen ít lớp cát kết, cát sạn kết ở
giữa tập cuội kết. Phần trên trầm tích hạt mịn
hơn, đá rắn chắc, ít nứt nẻ, không có khả năng
chứa nước.
Nói tóm lại, trong các TCN nêu trên thì có ý
nghĩa hơn cả là các TCN sau:
- TCN lỗ hổng Pleistocen giữa - trên (qp);
Pleistocen dưới (qp1); Pliocen (n2).
- TCN khe nứt các thành tạo phun trào basalt
Pleistocen giữa (βqp2) và tầng chứa nước khe nứt
các đá trầm tích Jura (j1-2).
Với nước lỗ hổng, các khu vực có mức độ giàu
nước từ trung bình đến giàu, tập trung ở phía tây
nam như khu vực Bắc Biên Hoà, Bắc Long Thành,
Thành Tuy Hạ, phía tây huyện Thống Nhất, với
nước khe nứt tập trung ở khu vực Long Khánh (thị
xã Xuân Lộc), phía tây huyện Thống Nhất, diện
nhỏ Tân Phú, phía tây nam Vĩnh Cửu.
2.4. Về quan hệ giữa nước hồ Trị An và NDĐ
Trong số các công trình quan trắc động thái
NDĐ gần hồ Trị An có cụm quan trắc gồm 8 công
trình nghiên cứu quan hệ thuỷ lực giữa nước mặt
với NDĐ trong basalt Kainozoi [2] cho thấy tương
quan mực nước hồ Trị An với NDĐ trong basalt
Kainozoi, được thể hiện tại 3 công trình quan trắc
Q01007A, Q01007B và Q01007C (Trảng Bom,
Đồng Nai) lần lượt là 0,98; 0,88 và 0,74m. Điều
này cho thấy nước hồ Trị An và NDĐ có mối quan
hệ rất chặt chẽ và có thể tiến hành xây dựng mô
hình số trị nghiên cứu đánh giá biến động mực
NDĐ dưới ảnh hưởng của hồ Trị An.
3. Mô hình số nghiên cứu biến đổi mực nước
ngầm dưới tác động của hồ Trị An
3.1. Miền mô hình và đặc điểm mô hình lựa chọn
Miền mô hình được lựa chọn dựa vào các đặc
điểm điều kiện biên. Hồ Trị An có diện tích mặt
nước rất lớn, có quan hệ thủy lực với các TCN, nên
đóng vai trò cung cấp cho các tầng phía hạ lưu hồ
theo hướng dòng chảy ra phía biển từ bắc xuống
nam. Vì vậy đường theo hướng bắc nam qua giữa
hồ có thể xem là đường phân thủy (lưu lượng qua
biên bằng không). Sông Đồng Nai - Nhà Bè được
xem là biên có mực nước của TCN đã biết bằng
mực nước trên sông. Phía nam giáp với biển và hệ
thống cửa sông bãi triều cũng được xem là biên có
mực nước đã biết bằng mực nước biển.
Để xây dựng mô hình chuyển động NDĐ một
cách đầy đủ đòi hỏi khối lượng kinh phí rất lớn
phục vụ rất nhiều loại công tác điều tra khảo sát
phân tích đánh giá số liệu, các quá trình vật lý liên
quan đến NDĐ, lượng bốc hơi từ NDĐ, lượng mưa
ngấm cung cấp cho NDĐ trên toàn bộ miền mô
hình rộng lớn và theo thời gian trong năm và nhiều
năm. Trong khuôn khổ nghiên cứu này đó là điều
không thể thực hịên được. Hơn nữa để đánh giá
ảnh hưởng của hồ Trị An đến dao động mực NDĐ
một cách tương đối, ta có thể giả thiết rằng mức độ
(đại lượng mực nước dâng cao lên hoặc hạ thấp
xuống) làm thay đổi mực NDĐ do hồ Trị An ở
điều kiện mô hình có tính toán tới các yếu tố bốc
hơi - ngấm và không tính tới bốc hơi - ngấm là
tương đương nhau.
Sẽ tiến hành xây dựng hai mô hình chuyển
động NDĐ nhằm nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng
mực nước hồ Trị An đến NDĐ: (i) Mô hình lớn
(mô hình 1) trên toàn miền (giới hạn bởi bờ hồ Trị
An (phía bắc), sông Đồng Nai - Nhà Bè (phía tây),
cửa sông bãi triều và biển (phía nam) và đường
kinh tuyến 3.835km), và (ii) Mô hình nhỏ (mô hình
2) phía nam hồ (tầng basalt Pleistocen trên và dưới
và diện nhỏ các tầng khác trong miền mô hình
trong hình chữ nhật tọa độ góc trái dưới
(3.832,5km, 1191km) và góc phải trên (3.835,0km,
1.227km)) (hình 1).
Cả hai mô hình có các phần tử hình vuông [4]
(hoặc một số ít phần tử tam giác vuông cân ở phần
biên), lưới ô vuông của mô hình lớn có kích thước
lưới 500m (gồm 9.900 phần tử và 10.070) và lưới ô
vuông của mô hình nhỏ có kích thước lưới 200m
(gồm 8.934 phần tử và 8.934).
470
Hình 1. Phân bố các tầng chứa nước - cách nước, miền mô hình và dạng biên
471
3.2. Phân bố các tầng chứa nước và thông số
ĐCTV
Về thông số địa chất thủy văn của các TCN
Đệ Tứ:
- Phía bắc sông Lòng Tàu thuộc địa bàn tỉnh
Đồng Nai lấy theo kết quả của Đỗ Tiến Hùng,
(2004) [2] đối với tầng Pleistocen lấy hệ số thấm
trung bình KTB=3,28m/ngày là chiều dày trung
bình m=22,2m);
- Phía nam sông Lòng Tàu thuộc địa phận Tp.
Hồ Chí Minh theo kết quả nghiên cứu của Phan
Chu Nam (2011) [3]:
+ Holocen: hầu như vắng mặt;
+ Pleistocen trên: KTB=12,5m/ngày; mTB=15m;
+ Pleistocen giữa - trên: KTB=12,5m/ngày,
mTB=15m;
+ Pleistocen dưới: KTB=15m/ngày, mTB=5m;
+ Pliocen trên: KTB=12,5m/ngày;
+ Pliocen giữa: KTB=17,5m/ngày, mTB=15m;
+ Vắng mặt tầng Pliocen dưới - trên.
Toàn bộ các TCN trên có hệ số thấm trung bình
KTB=14,25, chiều dày mTB=50m, hệ số nhả nước
đàn hồi S*TB=0,004;
- Basalt Q1-2: KTB=1,23m/ngày; mTB=44,9m,
STB=0,05;
- Basalt Q1-3: KTB=1,23m/ngày; mTB=32,3m,
STB=0,05;
- Jura J1: KTB=1,22 m/ngày; mTB=24,7m;
STB=0,01;
- Kreta K: KTB=2,20m/ngày; mTB=15,9m;
STB=0,01;
- Basalt (βn2-qp1): KTB=1,82m/ngày; mTB=15,3m;
STB=0,05;
Trong miền mô hình có hai khoảnh nhỏ phân
bố đất đá Kreta là loại thấm kém. Do không có số
liệu về tính thấm, nên lấy giá trị tham khảo về hệ
số thấm là 0,1m/ngày và chiều dày lấy bằng 20m,
3.3. Mô hình 1
- Biên có mực nước hồ Trị An
Phần mô hình tiếp giáp với hồ Trị An được
xem là biên có mực nước đã biết. Số liệu mực nước
hồ Trị An từ 1/8/1988 đến 12/2010 và dao động
mực nước được thể hiện trên hình 2. Số liệu mực
nước theo thời gian này sẽ được sử dụng trong mô
hình phần tử hữu hạn chuyển động nước dưới đất.
Hình 2. Mực nước hồ Trị An và sông Đồng Nai tại Biên Hoà TB thời kỳ 1988 - 2010
- Biên sông Đồng Nai - Nhà Bè:
Riêng phần sông Đồng Nai từ trạm Tân Định
lên tới nơi nhập lưu sông Bé và tới đập tràn Trị An
lên mép miền mô hình phía đông, mực nước được
nội suy từ quan hệ giữa mực nước tại các điểm:
(i) trạm thủy văn Biên Hòa, Tp. Biên Hòa, (ii) trạm
Tân Định [1] tại xã Thiên Tân - huyện Vĩnh Cửu -
tỉnh Đồng Nai; (iii) cửa xả nước sau máy phát điện
nhà máy Trị An, và địa hình lòng sông - hồ phía
thượng lưu [5].
Phần mô hình phía tây tiếp giáp với sông Đồng
Nai và sông Nhà Bè là biên có mực nước đã biết.
Số liệu mực nước sông được lấy tại trạm quan trắc
thủy văn Biên Hòa và trạm Nhà Bè và được nội
472
suy dọc theo toàn bộ biên. Trạm thủy văn Biên
Hoà có số liệu đo mực nước liên tục trong khoảng
thời gian mô hình 1988-2010.
- Biên phía đông: là đường biên đi ngang qua
giữa hồ và được giả định là gradient thủy lực
vuông góc với biên bằng 0.
Để tiến hành chạy mô hình xác định mực NDĐ
với các điều kiện biên về mực nước theo thời gian
nêu trên, mực nước tại tất cả các nút trên biên phải
được xác định cho từng bước thời gian. Điều này
cực kỳ phức tạp đối với biên sông Đồng Nai - sông
Nhà Bè vì chỉ có hai vị trí có mực nước là trạm
Biên Hoà và trạm Vũng Tàu. Hơn nữa mục đích là
đánh giá tác động của hồ lên dao động mực NDĐ
so với trước khi có hồ. Trong khi mực NDĐ trước
khi có hồ được hình thành trong một thời gian rất
dài tới hàng trăm năm. Vì vậy, đã xác định mực
nước trên biên sông Đồng Nai - Nhà Bè trung bình
trong suốt thời gian 1989 - 2010.
Đối với sự dao động mực nước hồ Trị An, sự
dao động mực nước hồ ảnh hưởng đến mực NDĐ
trên toàn miền mô hình được đánh giá qua mô hình
có sử dụng 3 giá trị mực nước hồ là 50m (mực
nước chết), 62m (mực nước dâng bình thường) và
56m (mực nước trung bình) (hình 3). Kết quả cho
thấy, mực NDĐ trong trường hợp mực nước hồ là
56m bằng giá trị trung bình cộng mực NDĐ ở hai
trường hợp mực nước hồ bằng 50m và 62m. Dưới
đây tiến hành mô hình đánh giá đối với trường hợp
mực nước hồ trung bình là 56m. Để nội suy đánh
giá mực nước ngầm ở điều kiện mực nước hồ thấp
(chẳng hạn 50m) hoặc mực nước hồ cao (chẳng
hạn 62m) có thể dùng kết quả của 3 trường hợp
này để nội suy đánh giá.
38
04
38
05
38
06
38
07
38
08
38
09
38
10
38
11
38
12
38
13
38
14
38
15
38
16
38
17
38
18
38
19
38
20
38
21
38
22
38
23
38
24
38
25
38
26
38
27
38
28
38
29
38
30
38
31
38
32
38
33
38
34
1207
1208
1209
1210
1211
1212
1213
1214
1215
1216
1217
1218
1219
1220
1221
1222
1223
1224
1225
1226
1227
1228
§−êng liÒn: mùc n−íc hå lμ 62m
§−êng chÊm g¹ch: mùc n−íc hå lμ 56m
§−êng g¹ch g¹ch: mùc n−íc hå lμ 50m
Hå TrÞ An
kmk
m
Hình 3. Mực NDĐ trường hợp mực nước hồ bằng 50m, 56m và 62m
Kết quả cho thấy (hình 4) trong thời gian từ khi hồ
Trị An đi vào hoạt động mực NDĐ phần hạ lưu hồ tới
khoảng cách khoảng 15km là bị ảnh hưởng chủ yếu
và rõ nét nhất, xa hơn nữa về phía nam và phía tây
mực NDĐ bị ảnh hưởng chủ yếu bởi mực nước trên
biên sông Đồng Nai - Nhà Bè và mực nước biển.
473
Hình 4. Mực nước dưới đất trước và sau 22 năm hồ Trị An hoạt động
474
3.4. Mô hình 2
Phía nam hồ Trị An là TCN basalt Pleistocen
trên và dưới. Đây là hai TCN có ý nghĩa cấp nước
cho khu vực và được hồ Trị An cung cấp bổ sung
trực tiếp. Chúng ta sẽ đánh giá ảnh hưởng của hồ
theo thời gian đến mực nước của tầng (tức là tới sự
thay đổi khả năng khai thác của tầng). Chọn diện
tích mô hình là hình chữ nhật có chiều rộng theo
phương đông - tây là 10km và chiều dài theo
phương bắc - nam là 35km. Phía bắc lấy biên là hồ
Trị An, phía nam lấy biên lưu lượng nước thoát đi
đã biết (được tính toán dựa theo mực nước ở mô
hình 1 đối với toàn miền nêu trên). Kết quả mô
hình thể hiện trên các hình 5-7.
← Hình 5. Phân bố mực nước trên
mặt cắt bắc nam giữa miền mô hình
→ Hình 6. Mực nước và dâng mực nước dưới
đất trước và sau 21 năm hồ Trị An hoạt động
475
Hình 7. Mực NDĐ mô hình (cách hồ 200m) và mực nước
hồ Trị An hoạt động năm 2010-4/2011
Hệ số tương quan giữa mực nước hồ Trị An và
mực NDĐ năm 2010 - 2011 tại vị trí cách hồ 200m
là 0,888, nhưng nếu tịnh tiến thời gian mực nước
hồ thêm 12 ngày (mực NDĐ trễ hơn mực nước hồ
khoảng 12 ngày) thì hệ số tương quan đạt 0,931.
4. Nhận xét và kết luận
Trước khi hồ Trị An đi vào hoạt động, mực
NDĐ các TCN hạ lưu hồ về phía biển ở điều kiện
không bị khai thác có cốt cao mực nước quyết định
bởi mực nước sông Đồng Nai - sông Bé và mực
nước biển. Mực nước trung bình trong năm đạt chế
độ ổn định do thời gian tồn tại các TCN vô cùng
dài. Mực nước phía thượng lưu phía nam sông
Đồng Nai (hồ Trị An hiện nay) ở cốt cao khoảng
18m, đến giữa miền mô hình phía dưới hạ lưu
khoảng 35km hạ xuống ở cốt cao khoảng 5m và
bằng mực nước biển ở phía đông.
Sau khi hồ Trị An đi vào hoạt động đến đầu
năm 2011 được khoảng trên 21 năm, các kết quả
quan trắc mực nước phía hạ lưu miền mô hình cho
thấy mực NDĐ không thể hiện mối tương quan với
dao động mực nước hồ Trị An. Kết quả mô hình
cũng cho thấy phía hạ lưu mực nước ngầm có dâng
cao hơn, nhưng rất nhỏ. Lý do là với chiều dày các
TCN lớn, hệ số thấm không cao, lại được bao bọc
bởi biên có mực nước đã biết và quyết định bởi
mực nước trên biên sông Đồng Nai - Sông Bé và
biển nên mực nước hồ Trị An có tác động rất yếu
đến sự dao động mực NDĐ ở khu vực hạ lưu xa.
Kết quả mô hình 22 năm (từ 1988 đến 4/2011)
cho thấy sự dao động mực nước hồ Trị An trong
khoảng từ giá trị mực nước chết đến mực nước gia
cường trong suốt 22 năm cùng với điều kiện biên
khác của mô hình tạo nên chế độ mực NDĐ tương
đối ổn định, và làm dâng mực NDĐ chủ yếu trong
phạm vi từ mép nước hồ xuống hạ lưu khoảng
8km, với mức độ dâng mực nước từ 35m (sát hồ)
đến 1m (hạ lưu mép hồ khoảng 8km)
Dao động mực nước ngầm đáng kể trong chu
kỳ năm chỉ diễn ra ở khu vực gần hồ Trị An: dao
động khoảng 0,5m ở cách hồ khoảng 4km và dao
động khoảng 0,1m ở cách hồ khoảng 8km.
Tài liệu quan trắc mực NDĐ từ 1995 đến 2008
cho thấy mối tương quan mực nước giữa hồ Trị An
phía trên đập với NDĐ tại 3 công trình quan trắc
Q01007A, Q01007B và Q01007C (huyện Trảng
Bom, Đồng Nai) lần lượt là 0,98; 0,88 và 0,74 [1].
Theo kết quả mô hình thì hệ số tương quan giữa
mực nước hồ Trị An và NDĐ ở khoảng cách 200m
tính từ hồ là 0,946 xuống tới 0,888. Đây là hai kết
quả rất phù hợp mặc dù được phân tích tính bằng
hai phương pháp khác nhau và độc lập với nhau.
Với diện tích basalt Pleistocen phía nam hạ lưu
hồ Trị An mực NDĐ được dâng cao từ trên 30m
đến 1m là khoảng 200km2, trữ lượng NDĐ của
tầng có thể tăng lên rất nhiều và có vai trò lớn phục
vụ các nhu cầu kinh tế xã hội khu vực. Điều này
đặc biệt có ý nghĩa vào mùa khô khi không có
nguồn nước mưa bổ cập cho NDĐ. Khuyến nghị
tiến hành nghiên cứu đánh giá sự gia tăng trữ
lượng khai thác tiềm năng NDĐ nhờ sự có mặt của
hồ Trị An.
Ghi nhận: Bài báo được hoàn thành trong
khuôn khổ đề tài độc lập cấp Nhà nước: "Nghiên
cứu tác động của hồ Trị An đến môi trường
địa chất lưu vực sông Đồng Nai” mã số:
ĐTĐL.2009T/04.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Hà Quang Hải, 2003: Tai biến xói lở bờ
sông chuỗi cù lao Bình Chánh - Rùa Phố ở hạ lưu
sông Đồng Nai. Tạp chí Địa chất, loạt A, số 278, 9-
10/2003
[2] Đỗ Tiến Hùng, 2004: Nghiên cứu điều tra
bổ sung, biên hội loạt bản đồ địa chất thủy văn tỉnh
Đồng Nai tỷ lệ 1:50.000 và quy hoạch quản lý,
khai thác bảo vệ bền vững tài nguyên nước dưới
đất. UBND tỉnh Đồng Nai - Sở Nông nghiệp và
phát triển nông thôn tỉnh Đồng Nai.
476
[3] Phan Chu Nam, 2011: Sự hình thành trữ
lượng khai thác nước dưới đất vùng thành phố Hồ
Chi Minh và đề xuất các giải pháp khai thác hợp
lý. Luận án tiến sỹ địa chất. Trường Đại học Mỏ -
Địa chất Hà Nội.
[4] O.C. Zienkiewics and K. Morgan, 1983:
Finite Elements and Approximation. John Willey
& Sons.
[5] Tài liệu đo độ sâu hồ Trị An bằng máy
SONAR từ 19 đến 24 tháng 10 năm 2010-Đề tài:
“Nghiên cứu tác động của hồ Trị An đến môi
trường địa chất lưu vực sông Đồng Nai” mã số:
ĐTĐL.2009T/04.
SUMMARY
Study on the impact of the Tri An reservoir on its downstream groundwater level regime
This paper presents groundwater modeling works for the south downstream Tri An reservoir area to address the
impact of the reservoir on groundwater level regime. Two models have been carried: one for the whole large
downstream area to study the regional groundwater level regime and another for smaller area immediate downstream
the reservoir to study in more details the impact on Pleistocene basalt aquifer. The results have shown that for many
years of the reservoir operation with water level ranging from death level to maximal flood level, the reservoir has impact
only on distance of about 15km downstream. The annual reservoir water level fluctuation has impact only in short
distance from the reservoir about 8km to cause groundwater level fluctuation magnitude of about 0.1m. For the
Pleistocene basalt aquifer in the south, the reservoir has causing water level increase of about 30m (in distance of about
500m from the reservoir) to 1m (in distance of about 8km from the reservoir). With this water level rise and/of aquifer
thickness increase over more than 200km2 in the south downstream, the groundwater exploitation reserve would
dramatically increase.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2806_9222_1_pb_6743_2108025.pdf