Liên quan giữa kiến thức với thái độ
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến
thức với thái độ về HPQ với p=0,0028. Những
người bệnh HPQ có kiến thức tốt sẽ có khả năng
có thái độ tích cực cao hơn so với những người
bệnh có kiến thức chưa tốt PR=1,38; KTC 95%
(1,11‐ 1,71) (bảng 8).
Liên quan giữa kiến thức với thực hành sử
dụng BXĐL
Chúng tôi tìm thấy có mối liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa kiến thức với thực hành sử
dụng BXĐL (p=0,026), người bệnh HPQ có kiến
thức tốt sẽ có khả năng thực hành đúng BXĐL
cao hơn người bệnh có kiến thức chưa tốt
(PR=1,29; KTC 95% (1,02‐1,63) (bảng 9). Thực
hành chưa đúng có thể do chưa có kiến thức tốt
hoặc do ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như: khả
năng tiếp thu của người bệnh, không được
hướng dẫn cách sử dụng BXĐL hoặc do không
được kiểm tra lại kỹ thuật mỗi khi tái khám hoặc
không có khả năng phối hợp các động tác. Từ
mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức
với thái độ, giữa kiến thức với thực hành sử
dụng BXĐL của người bệnh HPQ, chúng tôi có
thể kết luận là việc nâng cao kiến thức cho người
bệnh về HPQ là cần thiết, nó không chỉ nâng cao
tỷ lệ người bệnh HPQ có kiến thức tốt mà còn
cải thiện được thái độ và thực hành đúng để
điều trị được hiệu quả.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 155 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu điều dưỡng về kiến thức, thái độ và chăm sóc tại nhà của người lớn mắc bệnh hen, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 184
NGHIÊN CỨU ĐIỀU DƯỠNG VỀ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ
VÀ CHĂM SÓC TẠI NHÀ CỦA NGƯỜI LỚN MẮC BỆNH HEN
Ngô Thanh Trúc*, Nguyễn Thị Thu Ba**, Jane Dimmitt Champion***
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức, thái độ và chăm sóc hen tại nhà của người lớn mắc bệnh hen.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
Kết quả: Trong 350 người bệnh hen phế quản (HPQ) gồm có 231 nữ và 119 nam, tỷ lệ kiến thức chung tốt
về HPQ chiếm 47,1%, thái độ tích cực chiếm 49,7%, thực hành sử dụng bình xịt định liều (BXĐL) đúng chiếm
31,7%. Có mối liên quan giữa kiến thức với thái độ về HPQ với p=0,0028 (KTC 95%, PR: 1,11‐ 1,71). Có mối
liên quan giữa kiến thức với thực hành sử dụng BXĐL với p=0,026 (KTC 95%, PR: 1,02‐1,63).
Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức, thái độ chưa cao và thực hành sử dụng BXĐL của người
bệnh HPQ còn thấp. Điều này cho thấy cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục sức khỏe cho người bệnh các kiến
thức về HPQ đồng thời nhân viên y tế phải kiểm tra lại cách sử dụng thuốc và sử dụng BXĐL, hướng dẫn lại
những thông tin liên quan đến HPQ mỗi lần tái khám nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Từ khóa: kiến thức, thái độ, bình xịt định liều, hen phế quản
ABSTRACT
NURSING RESEARCH ON KNOWLEDGE, ATTITUDE
AND HOME CARE OF ASTHMATIC ADULT PATIENTS
Ngo Thanh Truc, Nguyen Thi Thu Ba, Jane Dimmitt Champion
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 5‐ 2014: 184‐ 189
Objective: Survey on knowledge, attitude and home care of asthmatic adult patients
Research methods: descriptive cross‐sectional
Results: In 350 asthmatic patients, including 231 females and 119 males, rate of good general knowledge is
47.1%, rate of positive attitude is 49.7%, and rate of correct practice of using MDI is 31.7%. There is a
significant relationship between good knowledge and positive attitude about asthma with p=0.0028 (CI 95%, PR:
1.11‐ 1.71). There is a significant relationship between knowledge of patients and practice of using MDI with
p=0.026 (CI 95%, PR: 1.02‐1.63).
Conclusions: Results of the study showed that knowledge and attitude are not good enough and correct
practice of using MDI is low. Hence, there is a need to have educational programs to: provide information about
asthma in mass media in order for everyone to approach; Educate health for patients about their disease.
Healthcare workers must recheck on asthmatic patients’ using medicines, using inhalers devices and re‐explain
information related to asthma to the patients in following‐up checks to increase patients’ quality of life.
Key words: knowledge, attitude, asthma, MDI.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hen phế quản là một trong những bệnh mãn
tính ở đường hô hấp, thường gặp nhất trên thế
giới, hiện tại trên thế giới có khoảng 300 triệu
người mắc bệnh hen phế quản với tỷ lệ từ 2%‐
12% dân số(4), dự báo đến năm 2025 sẽ có thêm
100‐150 triệu người mắc bệnh này(10).
Cho đến nay HPQ vẫn là một trong những
căn bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc
sống và sức khoẻ. Chi phí cho bệnh HPQ năm
2007 tại Mỹ là 56 tỉ đô la với 3.300 người chết
mỗi năm(5). Một số nghiên cứu ở nước ngoài cho
* Trường ĐHYK Phạm Ngọc Thạch** ĐH Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh*** University of Texas ‐ USA
Tác giả liên lạc: ThS. Ngô Thanh Trúc ĐT: 0913 626 087 Email: ngotruc1980@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 185
thấy kiến thức và sử dụng BXĐL trên người
bệnh HPQ thấp(8,11).
Việc hiểu biết về HPQ sẽ giúp cho người
bệnh kiểm soát tốt bệnh của mình, hạn chế số
lần tái phát cơn hen, giảm số lần nhập viện, giảm
chi phí y tế, ngăn ngăn xảy ra các biến chứng.
Nghiên cứu của chúng tôi nhằm phát hiện
những kiến thức, thái độ, chăm sóc tại nhà chưa
đúng, từ đó có định hướng tốt hơn trong việc
hướng dẫn những kiến thức cần thiết, phù hợp
cho người bệnh HPQ để nâng cao chất lượng
cuộc sống cho họ.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh được chẩn đoán HPQ từ 18 tuổi
trở lên, đến khám tại phòng khám hô hấp bệnh
viện Đại học Y Dược TP.HCM, từ tháng 02 đến
tháng 05 năm 2013.
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Người bệnh từ 18 tuổi trở lên, được chẩn
đoán HPQ bởi bác sĩ chuyên khoa hô hấp.
Người bệnh có sử dụng BXĐL.
Người bệnh tái khám từ lần thứ 2 trở lên.
Người bệnh tình nguyện tham gia nghiên
cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
‐ Người bệnh bị bệnh nặng, câm, điếc.
‐ Người bệnh HPQ kết hợp với COPD.
Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện không theo nguyên tắc
xác suất. Người bệnh đủ tiêu chí chọn mẫu sẽ
được mời phỏng vấn trực tiếp dựa trên bộ câu
hỏi có sẵn gồm: các thông tin của người bệnh,
kiến thức có liên quan đến HPQ (13 câu), thái độ
(5 câu) và bảng kiểm sử dụng BXĐL (6 bước).
Phân tích số liệu
Số liệu được mã hóa và nhập bằng phần
mềm Epidata 3.1, sử dụng chương trình thống
kê SPSS 11.5 để xử lý số liệu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua khảo sát kiến thức, thái độ và quan sát
sử dụng BXĐL của 350 người bệnh HPQ, chúng
tôi có kết quả nghiên cứu như sau
Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu
Bảng 1‐ Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu
Đặc điểm của đối tượng Tần số Tỷ lệ %
Tuổi
43,7+/- 15,3*
18-40 151 43,1
41-60 153 43,7
> 60 46 13,2
Nơi cư trú Tỉnh 233 66,6
TPHCM 117 33,4
Giới tính Nữ 231 66,0
Nam 119 34,0
Trình độ
học vấn
Mù chữ 5 1,4
Cấp 1 35 10,0
Cấp 2 73 20,9
Cấp 3 97 27,7
Trung cấp/
CĐ/ĐH/SĐH
140 40,0
Nghề
nghiệp
Nhân viên văn phòng 19 5,4
Giáo viên 23 6,6
Nội trợ 59 16,9
Buôn bán 61 17,4
Nông dân 22 6,3
Khác 166 47,4
Tình trạng
hôn nhân
Độc thân 69 19,7
Đã kết hôn 279 79,7
Góa 2 0,6
Gia đình có
người bị
bệnh HPQ
Không 214 61,1
Có 136 38,9
Hút thuốc lá Không 307 87,7
Có 43 12,3
* Trung bình ± độ lệch chuẩn
Kiến thức có liên quan đến HPQ
Bảng 2‐ Kiến thức có liên quan đến HPQ
Nội dung Trả lời Tần suất
Tỷ lệ
%
1. Theo Ông/Bà HPQ là bệnh gì? Bệnh mãn tính
179 51,1
2. Theo Ông/Bà HPQ là bệnh dễ
tái đi tái lại?
Đúng 293 83,7
3. Theo Ông/Bà HPQ có liên quan
đến dị ứng không? Có
254 72,6
4. Theo Ông/Bà HPQ có lây
không?
Không 259 74,0
5. Theo Ông/Bà HPQ trị có dứt
không?
Không 171 48,8
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 186
Nội dung Trả lời Tần suất
Tỷ lệ
%
6. Theo Ông/Bà thời gian điều trị
hen chỉ vài tuần là dứt bệnh? Không đúng
296 84,6
7. Theo Ông/Bà nuốt con thằn lằn
có trị hết bệnh hen không? Không
191 54,6
8. Theo Ông/Bà hút cà độc dược
có trị hết bệnh hen không? Không
188 53,7
9. Theo Ông/Bà cấy chỉ dưới da
có trị hết bệnh hen không? Không
179 51,2
10. Theo Ông/Bà sử dụng thuốc
hàng ngày theo phác đồ điều trị để
làm gì?
Ngăn chặn
xuất hiện
các triệu
chứng hen
135 38,6
11. Tác dụng phụ hay gặp của
thuốc xịt dùng điều trị bệnh hen
hàng ngày là bị nấm miệng?
Đúng
113 32,3
12. Các thuốc điều trị bệnh hen có
gây nghiện không? Không
263 75,2
13. Theo Ông/Bà hen phế quản có
thể phòng ngừa để hạn chế số lần
lên cơn hen không?
Có
265 75,7
Bảng 3‐ Kiến thức chung của người bệnh về HPQ
Kiến thức chung N Tỷ lệ %
Tốt 165 47,1
Chưa tốt 185 52,9
Thái độ của người bệnh về HPQ
Bảng 4‐ Thái độ của người bệnh về HPQ
Nội dung Trả lời Tần suất
Tỷ lệ
%
1.Ông/Bà có đồng ý với ý
kiến cho rằng nuốt con thằn
lằn sẽ hết bệnh hen
Thái độ tích cực 177 50,6
Thái độ chưa tích
cực 173 49,4
2. Ông/Bà có đồng ý với ý
kiến cho rằng hút cà độc
dược sẽ hết bệnh hen
Thái độ tích cực 176 50,3
Thái độ chưa tích
cực 174 49,7
3. Ông/Bà có đồng ý với ý
kiến cho rằng cấy chỉ dưới da
sẽ hết bệnh hen
Thái độ tích cực 166 47,4
Thái độ chưa tích
cực 184 52,6
4. Theo Ông/Bà tái khám
thường xuyên sẽ giúp bệnh
hen ổn định
Thái độ tích cực 342 97,7
Thái độ chưa tích
cực 8 2,3
5. Theo Ông/Bà sử dụng
thuốc theo đúng phác đồ điều
trị giúp kiểm soát được triệu
chứng hen
Thái độ tích cực 342 97,7
Thái độ chưa tích
cực 8 2,3
Thái độ chung
Thái độ tích cực 174 49,7
Thái độ chưa tích
cực 176 50,3
Thực hành sử dụng BXĐL
Bảng 5‐ Sử dụng BXĐL
STT Trình tự các bước Thực hành
Tần
suất
Tỷ lệ
%
STT Trình tự các bước Thực hành
Tần
suất
Tỷ lệ
%
1 Mở nắp bình xịt Đúng 350 100
2 Giữ bình thẳng, lắc kỹ Đúng 340 97,1
3 Thở ra chậm Đúng 197 56,3
4 Ngậm ống kín Đúng 280 80,0
5 Hít vào chậm đồng thời ấn bình và tiếp tục hít vào thật sâu
Đúng 198 56,6
6 Nín thở 10 giây Đúng 204 58,3
Bảng 6‐ Thực hành chung đúng
Thực hành chung n Tỷ lệ %
Đúng 111 31,7
Chưa đúng 239 68,3
Bảng 7‐ Nguồn thông tin về HPQ
Nguồn thông tin về HPQ Tần suất Tỷ lệ %
Bác sĩ 334 95,4
Điều dưỡng 1 0,3
Người thân 51 14,6
Tivi 13 3,7
Radio 7 2
Báo chí 33 9,4
Internet 20 5,7
Khác (bạn bè, tổng đài tư vấn) 4 1,1
Liên quan giữa kiến thức với thái độ về
HPQ
Bảng 8‐ Liên quan giữa kiến thức với thái độ về
HPQ
Kiến
thức
Thái độ (n=350) p PR
KTC 95% Chưa tích cực
(n=176)
Tích cực
(n=174)
Chưa tốt
(n=185)
107 (57,8%) 78 (42,2%) 0,0028 1,38
(1,11- 1,71)
Tốt
(n=165)
69 (41,8%) 96 (58,2%)
Liên quan giữa kiến thức với thực hành sử
dụng BXĐL
Bảng 9‐ Liên quan giữa kiến thức với thực hành sử
dụng BXĐL
Kiến thức Thực hành (n=350) p PR
KTC 95%Chưa đúng
(n=176)
Đúng
(n=174)
Chưa tốt
(n=185)
96 (51,9%) 89 (48,1%) 0,026 1,29
(1,02-1,63)
Tốt (n=165) 66 (40%) 99 (60%)
BÀN LUẬN
Tuổi thấp nhất trong nghiên cứu của chúng
tôi là 18 tuổi, cao nhất là 87 tuổi, đa số đối tượng
ở các tỉnh nhiều hơn ở TP.HCM với tỷ lệ 66,6%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 187
Tỷ lệ nữ là 66% và nam là 34%, nhiều nghiên
cứu cho thấy ở tuổi trưởng thành thì tỷ lệ nữ giới
mắc bệnh HPQ nhiều hơn nam giới(9,13), kết quả
của chúng tôi phù hợp với y văn. Tỷ lệ người
bệnh HPQ có trình độ học vấn từ cấp III trở lên
trong mẫu của chúng tôi chiếm đa số (bảng 1),
đây là một điểm thuận lợi cho việc giáo dục sức
khỏe cho người bệnh. Tỷ lệ người bệnh HPQ
hiện có hút thuốc lá trong nghiên cứu của chúng
tôi là 12,3%, khói thuốc lá gây kích thích đường
hô hấp, làm tăng nguy cơ nhạy cảm với dị
nguyên và làm tăng các triệu chứng hen(6,12).
Kiến thức của người bệnh về HPQ
Kết quả của chúng tôi cho thấy gần một
nửa dân số trong mẫu nghiên cứu không biết
HPQ là một bệnh mãn tính với tỷ lệ 44,6% và
4,3% cho là bệnh nhiễm trùng, điều này cho thấy
người bệnh sẽ không theo dõi cũng như là điều
trị hen lâu dài. Họ chỉ đến khám khi triệu chứng
hen xuất hiện và có khả năng sẽ không sử dụng
thuốc ngừa cơn hàng ngày theo toa khi hết các
triệu chứng hen. Đa số người bệnh cho rằng
HPQ là bệnh dễ tái đi tái lại chiếm 83,7% và
72,6% cho rằng HPQ có liên quan với dị ứng.
Nghiên cứu của Tarig thực hiện tại Sudan cho
thấy có 31% (n=490) người bệnh HPQ cho rằng
dị ứng có liên quan đến HPQ, kết quả này thấp
hơn kết quả của chúng tôi(11). Có 18,3% người
bệnh không biết và 7,7% cho rằng HPQ là bệnh
lây, điều này cho thấy người bệnh chưa thực sự
hiểu biết về HPQ. Về thuốc điều trị HPQ hàng
ngày, có 38,6% trả lời đúng là ngăn chặn xuất
hiện các triệu chứng hen, 10,6% cho rằng để cắt
cơn hen. Sự nhầm lẫn giữa tác dụng của thuốc
ngừa cơn và thuốc cắt cơn dẫn tới HPQ không
được kiểm soát tốt, đưa đến tăng tỷ lệ nhập viện,
tăng chi phí điều trị, chỉ có 32,3% người bệnh
biết được tác dụng phụ thường gặp của thuốc xịt
sử dụng hàng ngày là nấm miệng. Về phòng
ngừa, trong nghiên cứu của chúng tôi có 75,7%
trả lời rằng có thể phòng ngừa để hạn chế lên
cơn hen, kết quả của chúng tôi cao hơn kết quả
nghiên cứu của Anwar (57,3%)(3).
Nhìn chung kiến thức về HPQ của người
bệnh vẫn còn thấp. Để đạt được sự kiểm soát
HPQ hiệu quả, chúng ta cần phải cung cấp cho
người bệnh những kiến thức cơ bản về sinh lý
bệnh của HPQ, về các triệu chứng của cơn hen.
Bên cạnh đó, NVYT phải hướng dẫn cho người
bệnh cách xác định yếu tố nguy cơ gây khởi phát
hen cho họ để phòng tránh hen tái phát song
song với việc cung cấp kiến thức cơ bản về thuốc
điều trị để người bệnh hiểu được vai trò, tác
dụng của thuốc.
Thái độ của người bệnh về HPQ
Chúng tôi nhận thấy đa số người bệnh đồng
ý là tái khám thường xuyên sẽ giúp bệnh hen ổn
định (97,7%) và sử dụng thuốc trị HPQ theo
đúng phác đồ điều trị sẽ kiểm soát được triệu
chứng hen (97,7%). HPQ là một bệnh viêm mãn
tính ở đường hô hấp hay thay đổi, tùy thuộc vào
sự đáp ứng thuốc điều trị, tại mỗi bậc sẽ có phác
đồ điều trị khác nhau. Do đó nếu người bệnh sử
dụng thuốc điều trị hàng ngày theo đúng chỉ
định sẽ làm giảm viêm đường thở, bảo vệ đường
thở chống lại các yếu tố gây cơn hen. Khi HPQ
được kiểm soát tốt sẽ giảm tối thiểu các triệu
chứng hen về đêm, giảm số lần lên cơn hen,
giảm lượng thuốc sử dụng mỗi ngày, giảm sử
dụng thuốc cắt cơn và người bệnh sẽ có cuộc
sống giống như người bình thường. Thái độ của
người bệnh đối với các phương pháp trị HPQ
trong dân gian như nuốt con thằn lằn, hút cà độc
dược, cấy chỉ dưới da chưa cao, điều này có thể
do họ chưa nghe đến các phương pháp này nên
không biết hoặc họ tin vào điều này là đúng. Do
đó, NVYT cần phổ biến những kiến thức về
HPQ để thay đổi nhận thức, niềm tin của người
bệnh về HPQ, để đạt được sự phối hợp tốt trong
điều trị, kiểm soát hen hiệu quả.
Thực hành sử dụng BXĐL
Kết quả người bệnh thực hành sử dụng
BXĐL đúng 6 bước theo bảng kiểm trong nghiên
cứu của chúng tôi là 31,7%, nghiên cứu của
Anjum Hashmi ở Pakistan cũng cho thấy chỉ có
16,3% (n=215) thực hành đúng hoàn toàn các
bước sử dụng BXĐL(2). Chúng tôi ghi nhận đa số
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 188
người bệnh thực hiện sai ở các bước thứ 3, 5, 6,
do đó NVYT cần phải kiểm tra cách sử dụng
bình xịt mỗi khi người bệnh tái khám, huấn
luyện lại cách sử dụng để việc kiểm soát HPQ
được hiệu quả hơn, giảm chi phí y tế, nâng cao
chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Hamdan
đã chứng minh việc sử dụng bình xịt không
đúng có liên quan đến kiểm soát HPQ kém và đi
cấp cứu thường xuyên hơn(1,7).
Nguồn thông tin về HPQ
Các thông tin về HPQ mà người bệnh nhận
được từ Điều dưỡng rất thấp 0,3%, điều này gợi
ý cho các nhà lãnh đạo Điều dưỡng ở các khoa
hô hấp nên có một chiến lược trong việc xây
dựng chương trình giáo dục sức khỏe phù hợp
cho người bệnh HPQ. Bởi vì Điều dưỡng là
người có thời gian tiếp xúc với người bệnh nhiều
nhất trong quá trình chăm sóc, do đó sẽ có cơ hội
để giáo dục sức khỏe cho họ, góp phần vào việc
kiểm soát HPQ được hiệu quả. Ngoài ra, các
thông tin liên quan tới HPQ trên các phương tiện
truyền thông đại chúng còn rất thấp, do đó
chúng ta cần có các chương trình tuyên truyền
về HPQ cho cộng đồng để mọi người có cơ hội
tiếp cận (bảng 7).
Liên quan giữa kiến thức với thái độ
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến
thức với thái độ về HPQ với p=0,0028. Những
người bệnh HPQ có kiến thức tốt sẽ có khả năng
có thái độ tích cực cao hơn so với những người
bệnh có kiến thức chưa tốt PR=1,38; KTC 95%
(1,11‐ 1,71) (bảng 8).
Liên quan giữa kiến thức với thực hành sử
dụng BXĐL
Chúng tôi tìm thấy có mối liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa kiến thức với thực hành sử
dụng BXĐL (p=0,026), người bệnh HPQ có kiến
thức tốt sẽ có khả năng thực hành đúng BXĐL
cao hơn người bệnh có kiến thức chưa tốt
(PR=1,29; KTC 95% (1,02‐1,63) (bảng 9). Thực
hành chưa đúng có thể do chưa có kiến thức tốt
hoặc do ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như: khả
năng tiếp thu của người bệnh, không được
hướng dẫn cách sử dụng BXĐL hoặc do không
được kiểm tra lại kỹ thuật mỗi khi tái khám hoặc
không có khả năng phối hợp các động tác. Từ
mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức
với thái độ, giữa kiến thức với thực hành sử
dụng BXĐL của người bệnh HPQ, chúng tôi có
thể kết luận là việc nâng cao kiến thức cho người
bệnh về HPQ là cần thiết, nó không chỉ nâng cao
tỷ lệ người bệnh HPQ có kiến thức tốt mà còn
cải thiện được thái độ và thực hành đúng để
điều trị được hiệu quả.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ người bệnh có kiến thức tốt về HPQ
chưa cao chiếm 47,1%, thái độ tích cực chiếm
49,7% và sử dụng đúng BXĐL thấp chiếm 31,7%.
Có mối liên quan giữa kiến thức với thái độ về
HPQ với p=0,0028. Có mối liên quan giữa kiến
thức với thực hành sử dụng BXĐL với p=0,026.
Qua nghiên cứu, cần thiết phải tăng cường
giáo dục sức khỏe cho người bệnh các kiến thức
về HPQ. Nhân viên y tế phải kiểm tra lại cách sử
dụng BXĐL, hướng dẫn lại những thông tin liên
quan đến HPQ mỗi lần người bệnh tái khám để
việc kiểm soát hen được hiệu quả, nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người bệnh. Cần có những
chương trình, các thông tin về HPQ trên các
phương tiện truyền thông đại chúng để mọi
người cùng được tiếp cận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Coelho ACC et al (2011). “Use of the inhaler devices and
asthma control in severe asthma patients at a referral center in
the city of Salvador, Brazilʺ. J Bras Pneumol, 37 (6), pp.720‐
728.
2. Hashmi A, Soomro JA et al (2012). “Incorrect inhaler
technique compromising quality of life of asthmatic patients”.
J Medicine, 13 (1), pp.16‐21.
3. Anwar H, Hassan N et al (2008). “Asthma knowledge among
asthmatic school students”. Oman Madical Journal, 23 (2),
pp.90‐95.
4. Beasley R (2004). The global burden of asthma report. In:
Global Initiative for asthma,
accessed on May 2012.
5. CDC (2012) Vital Sign. Asthma in US,
accessed
on May 2012.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 189
6. Đặng Quốc Dũng, Nguyễn Thị Thu Ba (2006). “Xác định tần
xuất và một số yếu tố nguy cơ hen phế quản ở học sinh cấp 1
quận Gò Vấp”. Tạp chí y học TP.HCM, 12 (4), tr.162‐166.
7. Hamdan AL‐Jahdali et al (2013). “Improper inhaler technique
is associated with poor asthma control and frequent
emergency department visits”. Allergy, Asthma, and Clinical
Immunology, 9 (8), pp.1‐7.
8. Laleh S, Zahra P et al (2011). “Asthma knowledge, Attitude
and Self‐efficacy in Iranian asthmatic patients”. Archives of
Iranian Medicine, 14 (5), pp.315‐320.
9. Lê Thị Tuyết Lan, Lê Thị Thu Hương (2004). “Đặc điểm suyễn
dạng ho ở bệnh nhân Việt Nam trưởng thành”. Tạp chí y học
TP.HCM, 8 (1), tr.106‐110.
10. Masoli M, Fabian D et al (2004). “The global burden of
asthma: executive summary of the GINA Dissemination
Committee Report”. Allegy, 59, pp.469‐478.
11. Tarig HA Mahgoob Z et al (2011). “Knowledge, attitude and
behavior of asthmatic patients regarding to asthma in urban
areas in Khartoum State, Sudan”. Khartoum Medical Journal,
4 (1), pp.524‐531.
12. Tan NC, Ngoh SHA et al (2012). “Impact of cigarrette
smoking on symptoms and quality of life of adults with
asthma managed in public primary care clinics in Singapore: a
questionnaire study”. Primary Care Respiratory Journal, 21
(1), pp.90‐93.
13. Vương Mỹ Ngọc, Lê Thị Tuyết Lan (2006). “Đặc điểm lâm
sàng và hô hấp ký ở bệnh nhân hen lớn tuổi”. Tạp chí y học
TP.HCM, 10 (1), tr.6‐13.
Ngày nhận bài báo: 05/9/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/9/2014
Ngày bài báo được đăng: 20/10/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_dieu_duong_ve_kien_thuc_thai_do_va_cham_soc_tai_n.pdf