KẾT LUẬN
Cho đến nay, đã có một số nghiên cứu về
độc tính của 3-MCPD trên máu đã công bố, và
những nghiên cứu này sử dụng 3-MCPD ở liều
thấp nhất là 30 mg/kg trong 4-14 tuần. Các kết
quả cho thấy 3-MCPD gây thiếu máu, suy tủy
và giảm bạch cầu (Kirton 1970, Marchesini
1989, Cho 2008). Trong nghiên cứu của chúng
tôi, 3-MCPD không gây thiếu máu nhưng gây
giảm nhẹ thể tích hồng cầu và gia tăng nồng
độ huyết sắc tố. Điều này cho thấy sự thay đổi
hình thái hồng cầu quan sát được không liên
quan đến tình trạng tán huyết và sự tạo hồng
cầu.
Hồng cầu gai quan sát được trong nghiên
cứu của chúng tôi, mặc dù chưa xác định được
ý nghĩa bệnh học thật sự của hiện tương này,
nhưng điều này có thể làm thay đổi chức năng
của hồng cầu và có thể gây những biến chứng
bất lợi về huyết động.
Ngoài ra, 3-MCPD ở liều 1 mg/kg đã gây
hiện tượng tạo vi nhân rõ rệt so với nhóm
chứng. Bình thường, hồng cầu trưởng thành
và lưu thông trong máu ngoại vi là những tế
bào không nhân. Sự tạo vi nhân trên hồng cầu
của 3-MCPD cho thấy hóa chất này tác động
lên nhiễm sắc thể của những tế bào tiền hồng
cầu và có thể gồm cả hồng cầu lưới.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 85 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu độc tính của 3-Monochloropropan-1,2-Diol (3-Mcpd) trên hình thái hồng cầu và sự tạo vi nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU ĐỘC TÍNH CỦA 3-MONOCHLOROPROPAN-1,2-DIOL
(3-MCPD) TRÊN HÌNH THÁI HỒNG CẦU VÀ SỰ TẠO VI NHÂN
Ngô Kiến Đức*, Trần Mạnh Hùng*
TÓM TẮT
Mở đầu: 3-MCPD là một dư phẩm được tạo ra trong quá trình thủy phân protein thực vật dưới sự xúc tác
của acid. Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh độc tính của 3-MCPD trên thận, cơ quan sinh dục và tiềm năng
gây ung thư. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành theo dõi độc tính của 3-MCPD trên hình thái hồng cầu
và sự tạo vi nhân.
Mục tiêu: Nghiên cứu này bao gồm 2 mục tiêu sau: 1) Nghiên cứu độc tính của 3-MCPD trên hình thái
của hồng cầu, và 2) Nghiên cứu độc tính của 3-MCPD trên nhiễm sắc thể qua phương pháp quan sát sự hình
thành vi nhân.
Phương pháp: Chuột nhắt trắng được cho uống 3-MCPD trong 6 tháng ở các liều 1 mg/kg, 10 mg/kg và 20
mg/kg. Ở thời điểm kết thúc khảo sát (sau 6 tháng), máu chuột thí nghiệm được thu thập và khảo sát hình thái
hồng cầu và sự tạo vi nhân dựa trên phương pháp nhuộm màu bằng Giemsa.
Kết quả: 3-MCPD gây thay đổi rõ rệt hình thái hồng cầu: gây giảm thể tích hồng cầu, tăng sắc tố và chuyển
sang dạng hồng cầu gai. Bên cạnh đó, sử dụng kéo dài 3-MCPD cũng gây sự gia tăng hình thành các vi nhân
trên hồng cầu (một biểu hiện của tổn thương nhiễm sắc thể). Những tác động này của 3-MCPD tăng rõ hơn khi
sử dụng kèm theo ethanol.
Kết luận: 3-MCPD ở các liều 1 mg/kg, 10 mg/kg và 20 mg/kg sử dụng trong 6 tháng gây thay đổi hình thái
hồng cầu và gây tổn thương nhiễm sắc thể, vì thế có thể tác động đến chức năng hồng cầu và nguy cơ gây ung
thư.
Từ khóa: 3-MCPD, hồng cầu gai, vi nhân, độc tính mạn tính
ABSTRACT
3-MONOCHLOROPROPAN-1,2-DIOL (3-MCPD) AFFECTED ERYTHROCYTE MORPHOLOGY AND
NEUTROPHIL COUNT ON EXPERIMENTAL MICE
Ngo Kien Duc, Tran Manh Hung * Y Hoc TP.Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 1 -2010: 47-51
Background: 3-MCPD is a toxic chemical produced by acid-hydrolyzed protein processes. There are bodies
of evidence showing toxic effects of 3-MCPD on kidney, reproductive organs and carcinogenic property. In this
study, we investigated the subchronic toxicity of 3-MCPD on erythrocyte morphology and blood cell count.
Method: mice were orally administered 3-MCPD at doses of 1 mg/kg, 10 mg/kg or 20 mg/kg for 6 months.
At the end of the study, blood was collected and erythrocyte morphology was examined. The micronucleus test
was also performed on erythrocyte to investigate the ability of 3-MCPD to induce numerical or structural
chromosomal damage.
Results: 3-MCPD induced changes in erythrocyte morphology, including decrease of size, increase of
pigment and transforming to crenated cells. The micronucleus formation in erythrocyte was also increased in 3-
MCPD treated groups. These toxic effects of 3-MCPD appeared to be potentiated by the presence of ethanol.
* Khoa Dược - Đại học Y Dược Tp. HCM
Địa chỉ liên hệ: DS. Ngô Kiến Đức ĐT: 0903 055 357 Email: ngokienduc@gmail.com
Conclusion: 3-MCPD at doses of 1, 10, or 20 mg/kg, administered in 6 months induced significant changes
in erythrocyte morphology and genotoxicity, which may affect the function of erythrocytes in circulation.
Keywords: 3-MCPD, crenated erythrocyte, micronucleus, chronic toxicity
ĐẶT VẤN ĐỀ
3-Monochloropropane-1,2-diol (3-MCPD)
là một sản phẩm phụ trong quá trình sản xuất
nhiều loại thực phẩm. 3-MCPD được hình
thành từ phản ứng giữa chất béo và ion Cl- (ví
dụ NaCl) ở nhiệt độ cao (Food Standards
Agency 2001). Ngoài ra, 3-MCPD cũng được
tạo ra trong quá trình thủy phân protein thực
vật bằng acid hydrochloric (HCl) (Collier
1991). 3-MCPD thường hiện diện ở hàm lượng
rất thấp (<1 mg/kg) nhưng một vài loại sản
phẩm có thể chứa với hàm lượng cao (lên đến
hàng trăm mg/kg).
Các nghiên cứu trên thú vật cho thấy, 3-
MCPD là chất có tiềm năng gây ung thư trên
nhiều cơ quan khác nhau ở chuột cống chủng
F344 (Sunahara 1993, Lynch 1998). Nghiên cứu
in vitro cũng cho thấy 3-MCPD cho kết quả
dương tính trên thử nghiệm gây đột biến gen
(Silhankova 1982, Zeiger 1988; Lynch 1998).
Mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu về độc tính
của 3-MCPD, tuy nhiên các dữ liệu về độc tính
của 3-MCPD trên máu vẫn chưa được đầy đủ.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đặt mục tiêu
khảo sát độc tính của 3-MCPD trên chuột nhắt
sau khi cho uống 3-MCPD trong 6 tháng liên
tục với các chỉ tiêu đánh giá là hình thái hồng
cầu và sự tạo vi nhân.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thú vật thử nghiệm
Thú vật thử nghiệm là chuột nhắt trắng,
chủng Swiss albino, giống đực, có trọng lượng
từ 18-20 g, được phân bố ngẫu nhiên thành
nhiều lô khác nhau, mỗi lô từ 6-20 con. Chuột
được nuôi trong môi trường tiến hành thực
nghiệm từ 3-5 ngày để thích nghi với môi
trường. Hàng tuần, chuột được theo dõi thể
trọng và lượng nước tiêu thụ để điều chỉnh
lượng 3-MCPD thích hợp. Kết thúc giai đoạn
thí nghiệm, chuột được lấy máu để phân tích.
Chuột thí nghiệm được chia thành các
nhóm sau
− Nhóm chứng: uống nước sinh hoạt trong 6
tháng, n = 18
− Nhóm 1: uống 3-MCPD 1 mg/kg/ngày pha
trong nước uống sinh hoạt trong 6 tháng,
n=18
− Nhóm 2: uống 3-MCPD 10 mg/kg/ngày pha
trong nước uống sinh hoạt trong 6 tháng,
n=11
− Nhóm 3: uống 3-MCPD 20 mg/kg/ngày pha
trong nước uống sinh hoạt trong 6 tháng,
n=14
− Nhóm 4: uống ethanol 1% pha trong nước
uống sinh hoạt trong 6 tháng, n = 6
− Nhóm 5: uống ethanol 5% pha trong nước
uống sinh hoạt trong 6 tháng, n = 7
− Nhóm 6: uống ethanol 1% + 3-MCPD 1
mg/kg/ngày trong 6 tháng, n = 6
− Nhóm 7: uống ethanol 5% + 3-MCPD 1
mg/kg/ngày trong 6 tháng, n = 6
− Nhóm 8: uống ethanol 1% + 3-MCPD 10
mg/kg/ngày trong 6 tháng, n = 8
− Nhóm 9: uống ethanol 5% + 3-MCPD 10
mg/kg/ngày trong 6 tháng, n = 7
Phân tích hình thái hồng cầu
Để phân tích hình thái hồng cầu, máu được
phết trên lam kính, cố định bằng methanol, để
khô, rồi sau đó nhuộm màu bằng thuốc thử
Giemsa.
Quan sát sự hình thành vi nhân
Thử nghiệm này được thiết kế nhằm đánh
giá các hóa chất có khả năng gây tổn thương
nhiễm sắc thể. “Vi nhân” là một nhân nhỏ hình
thành và xuất hiện bên cạnh nhân bình thường.
Trong quá trình phân bào, nhiễm sắc thể sẽ nhân
đôi và sau đó phân chia vào 2 tế bào con. Nếu
tiến trình này bị gián đoạn, hoặc nhiễm sắc thể bị
phá vỡ bởi hóa chất hay bức xạ thì sự phân bố
nhiễm sắc thể vào 2 tế bào con bị ảnh hưởng và
một vi nhân sẽ hình thành do không được tích
hợp vào nhân chung. Hiện tượng này có thể
được quan sát dưới kính hiển vi sau khi nhuộm
màu nhân bằng thuốc thử thích hợp (Witt 2008).
Phân tích thống kê
Sử dụng phép phân tích mẫu Bartlett về
tính phân bố của dữ liệu. Nếu dữ liệu phân bố
bình thường, sử dụng phép kiểm ANOVA,
nếu dữ liệu phân bố bất thường, sử dụng phép
kiểm Kruskal–Wallis. So sánh sự khác biệt
giữa 2 nhóm được xem là có ý nghĩa thống kê
khi P < 0,05.
KẾT QU Ả VÀ BÀN LUẬN
Lượng nước tiêu thụ ở nhóm chứng và
nhóm uống 3-MCPD
Trong suốt quá trình thử nghiệm, chúng
tôi theo dõi thể trọng và lượng nước uống
trung bình của chuột (trong những nhóm nhỏ
từ 4-6 chuột) theo từng ngày và từng tuần để
có thể điều chỉnh lượng 3-MCPD đúng theo
liều lượng thiết kế nghiên cứu. Kết quả được
trình bày ở hình 1.
Hình 1. Lượng nước tiêu thụ và thể trọng của chuột
ở các lô thí nghiệm
Hình thái hồng cầu ở nhóm chứng và
nhóm uống 3-MCPD
Sau 6 tháng sử dụng 3-MCPD, hình thái
hồng cầu ở các lô sử dụng 3-MCPD có những
thay đổi đáng kể. Ở nhóm chứng, hình thái
hồng cầu hoàn toàn bình thường với dạng
hình đĩa, sắc tố bình thường. Trong khi ở
nhóm sử dụng 3-MCPD 1 mg/kg, hồng cầu
mất đi dạng hình đĩa và gia tăng sắc tố. Ở
nhóm sử dụng 3-MCPD 10 mg/kg và 20
mg/kg, chúng tôi nhận thấy hồng cầu chuyển
sang dạng hình cầu gai và bắt màu rất đậm
(hình 2).
Hình 2. Hình thái hồng cầu ở nhóm chứng và nhóm
uống 3-MCPD (x 1000)
Sự hình thành vi nhân ở các nhóm uống
3-MCPD
Ở hình 2, chúng tôi quan sát thấy có sự hình
thành vi nhân ở các nhóm uống 3-MCPD (mũi
tên) trong khi ở nhóm chứng, hầu như rất hiếm
gặp hồng cầu có vi nhân. Số lượng vi nhân tăng
cao theo nồng độ 3-MCPD sử dụng, giữa liều 1
mg/kg và liều 10 mg/kg. Sự hình thành vi nhân
chứng tỏ 3-MCPD gây tổn thương nhiễm sắc thể
trên các hồng cầu lưới. Kết quả được trình bày
trong bảng 1.
Bảng 1. Số lượng vi nhân hình thành trên 1 thị
trường quan sát (x 1000 lần)
Nhóm Chứng (n = 6)
3-MCPD
1 mg/kg
(n = 6)
3-MCPD
10 mg/kg
(n = 6)
3-MCPD
20 mg/kg
(n = 6)
Số hồng cầu
có vi
nhân/tổng số
hồng cầu
quan sát
trong 1 thị
trường
0/176
1/254
0/127
0/163
0/181
1/205
3/114
15/177
7/124
13/111
5/119
20/244
126/136
213/216
131/233
86/113
100/207
110/140
176/230
134/192
36/105
49/102
85/110
74/102
% hồng cầu
chứa vi nhân
0,18 ±
0,01
6,81 ±
1,35**
73,30 ±
2,26***
63,32 ±
7,01***
**p < 0,01; ***p < 0,001 so với nhóm chứng
Số lượng hồng cầu và các chỉ số liên quan
ở nhóm chứng và các nhóm sử dụng 3-
MCPD
Mặc dù 3-MCPD gây những thay đổi đáng
kể trên hình thái hồng cầu và sự tạo vi nhân,
tuy nhiên khi xác định tổng lượng hồng cầu
(RBC) giữa nhóm chứng và nhóm sử dụng 3-
MCPD, chúng tôi nhận thấy 3-MCPD không
ảnh hưởng đến tổng lượng hồng cầu và hàm
lượng hemoglobin (Hb). Ở nhóm sử dụng 3-
MCPD 1 mg/kg, có sự giảm nhẹ hàm lượng
hematocrit (Hct) và thể tích trung bình của
hồng cầu (MCV) nhưng điều này không xảy ra
trên các nhóm sử dụng 3-MCPD 10 mg/kg hay
20 mg/kg (hình 3). Trên chỉ số MCHC (nồng
độ huyết sắc tố trong hồng cầu), các nhóm sử
dụng 3-MCPD đều tăng so với nhóm chứng
(hình 4).
Hình 3. Số lượng hồng cầu và các chỉ số liên quan
của các lô thí nghiệm
Hình thái hồng cầu và sự tạo vi nhân ở
chuột được cho uống đồng thời 3-MCPD
và ethanol
Do 3-MCPD được khử độc bằng phản ứng
liên hợp với glutathion để tạo thành S-(2,3-
dihydroxypropyl)cystein và N-acetyl-S-(2,3-
dihydroxypropyl)cystein (Jones 1975). Ngoài
ra, khi sử dụng ethanol kéo dài có thể gây suy
giảm hàm lượng glutathion, vì thế chúng tôi
nghiên cứu trong điều kiện có sự hiện diện của
1 yếu tố nguy cơ (ethanol), liệu độc tính của 3-
MCPD có gia tăng hay không.
Về mặt hình thái, việc sử dụng đồng thời 3-
MCPD (10 mg/kg) và ethanol (1% hay 5%)
cũng gây hiện tượng hồng cầu gai rõ rệt, trong
khi nhóm chứng và nhóm sử dụng ethanol có
hình thái hồng cầu bình thường. Về sự tạo vi
nhân, sử dụng kết hợp 3-MCPD 10 mg/kg +
ethanol 5% làm tăng tỷ lệ hồng cầu có vi nhân
lên đến khoảng 90% (bảng 2).
Bảng 2. Hình thái hồng cầu và tỷ lệ tạo vi nhân ở
các nhóm thí nghiệm
Nhóm Hình thái % hồng cầu
có vi nhân
Chứng (n=15) Bình thường 0,18 ± 0,01
Ethanol 1% (n = 6) Bình thường 0,67 ± 0,31
Ethanol 5% (n = 7) Bình thường 3,39 ± 2,94
Ethanol 1%+3-MCPD
1 mg/kg (n= 6)
Hồng cầu
tăng sắc
8,29 ± 7,9
Ethanol 5%+3-MCPD
1 mg/kg (n= 7)
Hồng cầu
tăng sắc
7,29 ± 3,89
Ethanol 1% + 3-
MCPD 10 mg/kg (n=8)
Hồng cầu gai 41,72 ±
19,87**
Ethanol 5% + 3-
MCPD 10 mg/kg (n=
7)
Hồng cầu gai 86,99 ±
4,45***
**p <0,01; ***p <0,001 so với nhóm chứng
KẾT LUẬN
Cho đến nay, đã có một số nghiên cứu về
độc tính của 3-MCPD trên máu đã công bố, và
những nghiên cứu này sử dụng 3-MCPD ở liều
thấp nhất là 30 mg/kg trong 4-14 tuần. Các kết
quả cho thấy 3-MCPD gây thiếu máu, suy tủy
và giảm bạch cầu (Kirton 1970, Marchesini
1989, Cho 2008). Trong nghiên cứu của chúng
tôi, 3-MCPD không gây thiếu máu nhưng gây
giảm nhẹ thể tích hồng cầu và gia tăng nồng
độ huyết sắc tố. Điều này cho thấy sự thay đổi
hình thái hồng cầu quan sát được không liên
quan đến tình trạng tán huyết và sự tạo hồng
cầu.
Hồng cầu gai quan sát được trong nghiên
cứu của chúng tôi, mặc dù chưa xác định được
ý nghĩa bệnh học thật sự của hiện tương này,
nhưng điều này có thể làm thay đổi chức năng
của hồng cầu và có thể gây những biến chứng
bất lợi về huyết động.
Ngoài ra, 3-MCPD ở liều 1 mg/kg đã gây
hiện tượng tạo vi nhân rõ rệt so với nhóm
chứng. Bình thường, hồng cầu trưởng thành
và lưu thông trong máu ngoại vi là những tế
bào không nhân. Sự tạo vi nhân trên hồng cầu
của 3-MCPD cho thấy hóa chất này tác động
lên nhiễm sắc thể của những tế bào tiền hồng
cầu và có thể gồm cả hồng cầu lưới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cho W-S, Han BS, Lee H, Kim C, Nam KT, Park KD, Choi
M, Kim SJ, Kim SH, Jeong J, Jang DD (2008) Subchronic
toxicity study of 3-monochloropropane-1,2-diol
administered by drinking water to B6C3F1 mice. Food &
Chem. Toxicol. 46: 1666–1673
2. Collier PD, Cromiue DDO, & Davies AP (1991)
Mechanisms of formation of chloropropanols present in
protein hydrolysates. J. Am. Oil Chem. Soc., 68, 785–790.
3. Food Standards Agency (2001). Survey of 3-
monochloropropane-1,2-diol (3-MCPD) in soy sauce and
related products. No: 14/01, Food Standards Agency.
4. Jones AR (1975) The metabolism of 3-chloro-, 3-bromo-
and 3-iodopropan-1,2-diol in rats and mice. Xenobiotica, 5,
155–165.
5. Jones AR, Milton DH & Murcott C (1978) The oxidative
metabolism of alpha-chlorohydrin in the male rat and the
formation of spermatocele. Xenobiotica, 8, 573–582.
6. Lynch BS, Bryant DB, Hook GJ, Nestmann ER & Munro IC
(1998) Carcinogenicity of monochloro-1,2-propanediol
(alpha-chlorohydrin, 3-MCPD). Int. J. Toxicol., 17, 47–76.
7. Marchesini M & Stalder R (1983) Toxicity of 3-chloro-1,2-
propanediol in a 4 weeks gavage study on rats. Part I.
Unpublished report No. LA 70/1082 from the Société
d’Assistance Technique Pour Produits Nestlé SA,
Switzerland.
8. Marchesini M, Stalder R & Perrin I (1989) Subchronic
toxicity of 3-chloro-1,2-propanediol, 90 days
administration in drinking water of Fischer F344 rats.
Unpublished report No. 1264 from Nestec Ltd Research
Centre, Nestlé, Switzerland.
9. Silhankovà L, Smid F, Cernà M, Davidek J & Velisek J
(1982) Mutagenicity of glycerol chlorohydrines and of
their esters with higher fatty acids present in protein
hydrolysate. Mutat. Res., 103, 77–81.
10. Sunahara G, Perrin I & Marchesini M. (1993)
Carcinogenicity study on 3-monochloropropane-1,2-diol
(3-MCPD) administered in drinking water to Fischer 344
rats. Unpublished report No. RE-SR93003 submitted to
WHO by Nestec Ltd, Research & Development,
Switzerland.
11. Zeiger E, Anderson B, Haworth S, Lawlor T & Mortelmans
K (1988) Salmonella mutagenicity tests: IV. Results from
the testing of 300 chemicals. Environ. Mol. Mutag., 11
(Suppl. 12), 1–158.
12. Witt KL, Livanos E, Kissling GE, Torous DK, Caspary W,
Tice RR, Recio L. (2008) Comparison of flow cytometry-
and microscopy-based methods for measuring
micronucleated reticulocyte frequencies in rodents treated
with nongenotoxic and genotoxic chemicals. Mutat Res.
649(1-2):101-13.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_doc_tinh_cua_3_monochloropropan_12_diol_3_mcpd_tr.pdf