Hiệu quả vô cảm
Mức tê (bảng 6)
Trong mổ dựa vào cách thử cảm giác tê bì
trên da sau gây tê chúng tôi nhận thấy có 92 BN
(81,41%) có mức tê ngang rốn (T10) và 21 BN
(18,59%) có mức tê ngang hạ sườn (T8) có lẻ do
người bệnh nằm nghiêng bên mổ nên thuốc tê
lan cao hơn nhưng không ảnh hưởng đến sức
thở (bảng 5). Mức tê này hoàn toàn bao phủ
vùng mổ nhất là BN thay khớp háng. Sau khi mổ
xong trung bình 95 phút kiểm tra lại thấy mức tê
chỉ còn T12 trở xuống chân.
Độ liệt vận động (bảng 7)
Thời gian tiềm phục sau gây tê 5,12±0,4 phút
(bảng 4) BN có liệt vận động độ 2 và 3 (p<0,05).
Trong mổ không đánh giá tiếp vì phẫu thuật
viên đã trải săng. Thời gian ức chế cảm giác vận
động hồi phục dần sau mổ trung bình 130,29
±20,44phút (bảng 4) tương tự các nghiên cứu
khác từ 130-150 phút(10). Trong 3 ngày truyền
thuốc tê giảm đau liên tục hầu hết 113 BN đều
không liệt vận động (0%). p>0,05.
Điểm đau VAS (bảng 8)
Trong mổ 100% BN hoàn toàn không đau,
VAS từ 0-1 điểm, không cho thêm bất kỳ thuốc
giảm đau nào. Sau mổ có 4 BN (3,54%) thay
khớp gối có VAS 3-4 điểm, cần cho thêm liều
bolus 6ml trong đó có 2 BN bị điều dưỡng quên
thay thuốc và cài đặt sai liều khi thay bơm tiêm
thuốc mới (bảng 9).
Tác dụng không mong muốn khác trong và
sau mổ (bảng 9):
Rét run sau gây tê tủy sống hay ngoài màng
cứng thường gặp có lẻ do giãn mạch, cơ chế
chính y văn cũng chưa xác định. Nghiên cứu này
gặp 7 BN (6,19%) xuất hiện sau gây tê khoảng 30
phút, chúng tôi xử trí Dolargan 25mg pha loãng
thành 5ml IV sau vài phút khỏi. Các nghiên cứu
khác có tỉ lệ từ 6,4 đến 18%(6).
Rối loạn cơ vòng thường gặp là bí tiểu sau
mổ > 10giờ có 5 BN (4,42%), xử trí chườm ấm
vùng bàng quang không kết quả sau 30 phút thì
đặt thông tiểu ngày hôm sau rút.
Ngoài ra, chưa thấy tác dụng phụ nghiêm
trọng nào khác
24 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 243 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu hiệu qủa của phương pháp an thần Propofol với Fentanyl có kiểm soát nồng độ đích trên bệnh nhân chấn thương sọ não nặng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuy nhiên não bên PT có tổn thương nhiều
thì chỉ định đặt bên đối diện.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 120
Chúng tôi chỉ thực hiện được đặt ống thông
theo dõi ALNS cho những BN được PT tại khoa
GMHS có chỉ định theo dõi ALNS. Những BN
khác có chỉ định theo dõi ALNS trước khi có chỉ
định PT không được nhận vào khoa chúng tôi, vì
vậy chúng tôi không thể thực hiện được.
Theo tác giả Chestnut RM Gha Jar J(7), có
khoảng 70% BN CTSN nặng có hội chứng tăng
ALNS và hơn 1/3 BN đã PT giải áp vẫn tiếp tục
tăng ALNS. Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ
tăng ALNS sau PT nhiều hơn. Tác giả El M. E.
Fiki(9) nhận định, các BN CTSN nặng sau PT giải
áp vẫn có phù não và tăng ALNS vì thế theo dõi
ALNS và chống PN vẫn phải tiếp tục. Từ năm
2009 - 2011, Alali A.S. và cộng sự(3) nghiên cứu
trên 1628 BN, nhóm có theo dõi ALNS tử vong
17,6%, nhóm không theo dõi ALNS tử vong 32%.
Các nội dung trên cho thấy theo dõi ALNS trong
HS sau PT là đúng chỉ định và thật sự cần thiết.
Nghiên cứu của chúng tôi ALNS có tương quan
với sử dụng Mannitol 20%, NaCl 3%, và
ALTMN (p< 0,05), nhưng không tương quan với
liều lượng propofol, fentanyl và PaCO2. Lý do
quá trình an thần giảm đau được thực hiện liên
tục và nhiều BN có GCS thấp nên không thấy rõ
sự tương quan. Ngoài ra chúng tôi cũng không
sử dụng tăng thông khí quá mức nên PaCO2
không tương quan ALNS. Thay đổi ALNS trong
quá trình điều trị trước và sau không có ý nghĩa
thông kê (p>0,05).
Điều trị tăng ALNS
BN được điều trị toàn diện theo phác đồ điều
trị CTSN nặng có PT giải áp(7).
- Ổn định huyết động: chúng tôi duy trì
HATB > 90 mmHg trong suốt các ngày điều trị.
Mặc dù giữ được HATB trong giới hạn bình
thường, có những BN có ALNS cao, làm cho
ALTMN thấp. Theo tác giả Võ Tấn Sơn cần duy
trì ALTMN > 60 mmHg để đảm bảo máu nuôi
não(16). Từ ổn định được huyết động chúng tôi
duy trì được ALTMN trong giới hạn bình
thường (72,3-81,5 mmHg). ALTMN có vai trò
quan trọng, là yếu tố sống còn của BN CTSN
nặng, giảm ALTMN làm chết não.
- Giữ nhiệt độ của BN trong gới hạn bình
thường: trong suốt 8 ngày điều trị BN chúng tôi
giữ được nhiệt độ trung bình < 38,5 oC.
- Cân bằng dịch điện giải cũng là một trong
các yếu tố quan trọng trong hồi sức BN CTSN
nặng: tránh tổn thương não thứ phát, góp phần
ổn định ALNS. Cân bằng điện giải đáng chú ý
nhất là ion natri. Nhờ vào xét nghiệm, điều
chỉnh kịp thời chúng tôi giữ được ion natri trung
bình trong giá trị bình thường. Tương tự ion kali
cũng được theo dõi và điều chỉnh tốt. Không có
trường hợp nào giảm Natri trong Hội chứng bất
tương hợp của Hormon kháng lợi niệu
(Syndrome of inappopriate secretion of
antidiuretic hormon: SIADH) hoặc trong Hội
chứng mất muối do não (Cerebral salt - wasting
syndrome: CSWS). Trong hồi sức BN CTSN
nặng rối loạn natri máu có tỷ lệ tử vong rất cao
và thường gặp(10).
- Cân bằng dịch xuất, dịch nhập được chúng
tôi thực hiện tốt. Cân bằng dịch xuất nhập dựa
vào CVP góp phần ổn định mạch, HATB và ổn
định ALTMN. Điều chỉnh CVP từ ngày 1 đến
ngày 8 duy trì trong giới hạn bình thường 8-12
cmH2O. Tương quan CVP trước và sau có ý
nghĩa thống kê (p<0,05), cho thấy có sự điều
chỉnh đúng.
- Tất cả BN CTSN nặng trong thời gian hồi
sức phải thở máy. Khi ALNS tăng cần tăng
thông khí giảm PaCO2 đến 30-35 mmHg để làm
giảm ALNS. Các BN nghiên cứu của chúng tôi
có PaCO2 trung bình diễn biến qua các ngày điều
trị từ 32-42 mmHg. Kết quả này cho thấy mức độ
tăng thông khí ở các BN của chúng tôi không
nhiều. Khi tăng thông khí PaCO2 giảm làm co
mạch não, giảm ALNS nhưng cũng làm thiếu
máu nuôi não. Do chưa đặt được ống thông vào
hành cảnh lấy máu xét nghiệm SjvO2 để đánh giá
mức độ thiếu máu não. Từ đó chúng tôi lựa chọn
phương pháp tăng thông khí vừa phải và không
kéo dài. Kết quả về SjvO2 của chúng tôi chưa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 121
đáng tin cậy vì thế chúng tôi không bàn luận
thêm và sẽ nghiên cứu về SjvO2 trong CTSN
nặng trong tương lai. Chúng tôi luôn luôn phối
hợp nhiều phương pháp khác nhau để làm giảm
ALNS như an thần giảm đau, dung dịch tăng
thẩm thấu, nằm đầu cao 30o, giữ cổ thẳng.
- Sử dụng dung dịch ưu trương tăng thẩm
thấu để làm giảm ALNS là một phương pháp
hiệu quả. Có 10 BN không sử dụng dung dịch
tăng thẩm thấu do không tăng ALNS. Do được
theo dõi ALNS chúng tôi chọn loại dịch tăng
thẩm thấu và với liều lượng thích hợp. Tỷ lệ sử
dụng Mannitol 20% nhiều hơn NaCl 3% nhưng
lượng NaCl 3% thì được sử dụng nhiều hơn
Mannitol 20%. Sử dụng dung dịch tăng thẩm
thấu cũng dễ gây ra các tác dụng phụ làm cho
tình trang BN nặng hơn, vì thế chúng tôi phải
lựa chọn loại dịch và liều thích hợp theo phác đồ
điều trị(7).
- Thực hiện các xét nghiệm như đường
huyết, Hb cũng được chúng tôi quan tâm điều
chỉnh để có giá trị trong giới hạn bình thường.
Các BN nghiên cứu có 100% được truyền máu
trong PT, trong HS có 19/38 BN được tiếp tục
truyền máu để duy trì Hb trong giới hạn bình
thường.
An thần trong hồi sức BN CTSN nặng
An thần đầy đủ và liên tục để BN không kích
thích, không kháng máy thở tạo điều kiện cho
ALNS giảm, não phục hồi. Tất cả BN nghiên cứu
được thở máy và an thần với thời gian tương đối
kéo dài. Trước khi cai máy thở phải ngưng an
thần. Từ năm 1977, propofol được đưa ra sử
dụng, những năm sau đã hướng tới dùng để an
thần trong hồi sức TK(1). Đặc biệt những năm gần
đây propofol được sử dụng rộng rãi ở BN CTSN
nặng và có rất nhiều nghiên cứu về hiệu quả của
nó. Không có một thuốc nào đáp ứng cả hai mục
tiêu an thần và giảm đau trong hồi sức CTSN
nặng. Cần có sự phối hợp, chỉnh liều lượng để
đạt hiệu quả cuối cùng. Phối hợp hợp thuốc cho
phép giảm liều từng loại, giảm tích lũy thuốc và
các tác dụng bất lợi. Qua nhiều tranh luận
phương pháp truyền liên tục vẫn được ưu tiên
chọn lựa, đặc biệt là phương pháp TCI. Với
propofol TCI liều thức tỉnh là 1mcg/ml. Và phối
hợp với fentanyl là phương pháp được lựa chọn,
liều lượng thấp fenytanyl không làm tăng ALNS,
thời gian tác dụng trung bình, giá cả hợp lý, có
thể sử dụng được nhiều ngày.
- Chọn loại thuốc an thần, liều lượng và cách
cho thuốc có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả an
thần. Liều propofol TCI chúng tôi sử dụng là
0,73 mcg/ml, thấp hơn tác giả Lê Bá Long (3),
McMurray(11) nhưng điểm an thần và điểm đau
thì đạt yêu cầu như nhau (RamSay 4-5, PI 1-3).
Liều trung bình propofol cho 1 BN trong ngày
không quá cao, có thể chấp nhận được. Liều
trung bình cho mỗi BN phụ thuộc số ngày được
an thần. Với liều lượng này BN không bị giảm
HATB, không bị giảm ALTMN, BN không
kháng máy thở nhiều, không kích thích khi hút
NKQ. Bourgoin cho liều propofol trung bình 1
mcg/ml. Liều an toàn của propofol có tác dụng
lên ALNS là 0,26 - 1,78 mcg/ml, sử dụng bất cứ
liều nào trong khoảng này là an toàn. Chúng tôi
không sử dụng ngoài khoảng an toàn này(6,12).
- Để có được điểm an thần, điểm đau phù
hợp với yêu cầu, BN không kháng máy thở,
chúng tôi phải thường xuyên điều chỉnh TCI
tăng hoặc giảm. Đối với BN có GCS thấp 3-4
chúng tôi không cần điều chỉnh TCI hoặc khi
đang ở mức cao thì điều chỉnh về mức thấp nhất.
Có tương quan GCS với liều lượng an thần giảm
đau (p< 0,05).
- Trước khi hút ống NKQ hoặc khi can thiệp
các thủ thuật chúng tôi cho tăng liều propofol và
fentanyl trong 2-5 phút rồi ngưng. Sau hút NKQ,
can thiệp thủ thuật ghi nhận mạch, HATB,
ALNS, ALTMN, so sánh với trước khi hút các
chỉ số trên nhận thấy không có thay đổi nhiều
(p> 0,05). Theo nghiên cứu của Lê Bá Long, các
chỉ số trên khi hút NKQ có thay đổi nhiều hơn
của chúng tôi, cụ thể ALNS tăng, ALTMN giảm.
Kết quả khác nhau là do chúng tôi có phối hợp
fentanyl TCI(12).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 122
Kết quả điều trị
Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ tử vong tại
hồi sức 13,16%. So với nghiên cứu của Sheng- Jen
Huanga và cộng sự tỷ tử vong của nhóm BN
CTSN nặng có sử dụng propofol là 18,2%(15). Tác
giả Nguyễn Ngọc Anh năm 2011, có tỷ lệ tử
vong 22,9%(13). Từ năm 2009- 2011, Alali A. S. và
cộng sự có tỷ lệ tử vong 17,6%(3). Kết quả này cho
thấy tỷ lệ tử vong ở nhóm BN của chúng tôi thấp
hơn. Kết quả còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố trên
các BN nghiên cứu cũng như phương pháp điều
trị của từng tác giả hoặc mốc thời gian cuối cùng
lấy kết quả, BN của chúng tôi vẫn còn tử vong
sau hồi sức. Tương quan ALTMN trong quá
trình điều trị trước và sau khác nhau có ý nghĩa
thống kê (p< 0,05), chứng minh phương pháp
điều trị có kết quả tốt.
KẾT LUẬN
CTSN nặng là một bệnh lý phức tạp, hầu hết
có tiên lượng rất nặng. Nguyên nhân gây ra chủ
yếu là do tai nạn giao thông, có tỷ lệ nam nhiều
hơn nữ, CTSN phức tạp nhiều hơn, ASA III
86,84%, có biểu hiện các dấu hiệu TK khu trú
60,53%, mất phản xạ đồng tử 13,16%, phù não
100%. BN đã được PT giải áp, tăng ALNS chiếm
44,74%. Theo dõi ALNS để có chỉ định điều trị
thích hợp.
Tất cả các biện pháp điều trị để làm giảm
ALNS được thực hiện một cách hợp lý trên các
BN nghiên cứu có tăng ALNS như an thần, tăng
thông khí, truyền dịch tăng thẩm thấu, cân bằng
dịch điện giải. Với các biện pháp điều trị đúng
đắn ALTMN, GCS cải thiện tốt trong quá trình
điều trị, tăng tỷ lệ sống của BN (86,84%).
An thần- giảm đau với phương pháp TCI
liều lượng trung bình propofol 0,73±0,15 mcg/ml
và fentanyl 0,73±0,15 ncg/ml, BN không bị giảm
ALTMN, không tăng đáng kể ALNS khi hút ống
NKQ hoặc khi can thiệp các thủ thuật. Điều
chỉnh liều TCI tăng lên hoặc giảm xuống tùy
thuộc GCS, chúng tôi đạt điểm đau PI 1-3, điểm
an thần Ramsay 4-5, BN rất ít kháng máy thở.
Kết quả này thừa nhận propofol và fentanyl
TCI là phương pháp an toàn có thể thay thế cho
các thuốc và các phương pháp khác để an thần
trong hồi sức BN CTSN nặng.
KIẾN NGHỊ
Kết quả này cần số lượng BN lớn hơn để
đánh giá hiệu quả của propofol và fentanyl TCI
so với các phương pháp an thần khác.
Hướng phát triển của phương pháp này cần
áp dụng rộng hơn để điều trị cho BN CTSN
nặng trước PT hoặc không có chỉ định PT, BN tai
biến mạch máu não.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aaron M., Cook Kyle A. Weant (2007). Pharmacologic
Strategies for the Treatment of Elevated Intracranial Pressure,
Advanced Emergency Nursing Journal, 29(4), pp. 309-318.
2. Abdennour L., L. Puybasset (2008). "Sedation and analgesia
for the brain-injured patient", Ann Fr Anesth Reanim. 27(7-8),
pp. 596-603.
3. Alali A. S., R. A. Fowler, et al (2013). "Intracranial pressure
monitoring in severe traumatic brain injury: results from the
american college of surgeons trauma quality improvement
program", J Neurotrauma. 30(20), pp. 1737-46.
4. Albert, Schweitzer (2007). Analgesia and Sedation, 3rd Edition,
The ICU BOOK, Marino, Paul L. Lippincott Williams &
Wilkins, pp. 938-967.
5. Bao Y. H., Y. M. Liang, G. Y. Gao, et al (2010). "Bilateral
decompressive craniectomy for patients with malignant
diffuse brain swelling after severe traumatic brain injury: a 37-
case study", J Neurotrauma. 27(2), pp. 341-7.
6. Bourgoin Aurélie, et al (2003). "Safety of sedation with
ketamine in severe head injury patients: Comparison with
sufentanil", Crit Care Med. Vol. 31, No. 3, pp. 711-718.
7. Chestnut R. M., Ghajar J. (2007). Guidelines for the
management of severe traumatic brain injury and Intracranial
pressure monitoring technology, J Neurotrauma, pp. 45-54.
8. Egerod I., M. B. Jensen, S. F. Herling, et al (2010). "Effect of an
analgo-sedation protocol for neurointensive patients: a two-
phase interventional non-randomized pilot study", Crit Care.
14(2), pp. R71.
9. El, M. E. Fiki (2013), "Evaluation of the Immediate Role of
Decompressive Craniectomy in the Treatment of Refractory
ICP in Cases of Traumatic Brain Injury. Experience of a
Tertiary Care Trauma Center in Alexandria, Egypt",
Neurosurgery. 60 Suppl 1, pp. 154.
10. Gullero, Bugedo, Luis Castillo (2012). "fluid and electrolyte
management in neurosurgical critical care", trong Jeffrey R.
Kirsch Ansgar M. Brambrink, chủ biên, Essential of
neurosurgical anesthesia and critical care, Springer Science Media,
New York, NY 10013, USA, pp. 785-796.
11. McMurray, T. J., J. R. Johnston, et al (2004). "Propofol sedation
using Diprifusor target-controlled infusion in adult intensive
care unit patients", Anaesthesia. 59(7), tr. 636-41.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 123
12. Lê Bá Long (2012). Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ đích
propofop tại não lên an thần, áp lực nội sọ và áp lực tưới máu não
trong chấn thương sọ não nặng, Luận Văn Thạc Sỹ Y học, Đại
học Y Hà Nội.
13. Nguyễn Ngọc Anh (2011). "Đánh giá hiệu quả chống phù não
trên bệnh nhân chấn thương sọ não nặng được theo dõi áp lực
nội sọ", Tạp chí y học TP. Hồ Chí Minh, tập 15, phụ bản số 3, tr.
57-64.
14. Nguyễn Đình Hưng, Nguyễn Công Tô (2011). Phẫu thuật giải
phóng chèn ép não trong chấn thương sọ não nặng, Y học thực
hành, hội nghị phẫu thuật thần kinh Việt Nam, 779+780, tr. 314-
323.
15. Sheng-Jean Huanga, Jiann-Shing Shieh (2006). "Fuzzy logic
control for intracranial pressure via continuous propofol
sedation in a neurosurgical intensive care unit", Medical
Engineering & Physics 28 (2006) PP. 639–647.
16. Võ Tấn Sơn (2013). Áp lực nội sọ, phẫu thuật thần kinh, NXB Y
học, chủ biên Võ Văn Nho, tr. 43-46.
Ngày nhận bài báo: 08/05/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/05/2014
Ngày bài báo được đăng: 30/6/2014
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 124
HIỆU QUẢ VÔ CẢM CSE BẰNG MARCAINE + FENTANYL
TRONG VÀ SAU MỔ THAY KHỚP CHI DƯỚI
TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG
Nguyễn Thu Chung*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả vô cảm kết hợp gây tê tủy và gây tê ngoài màng cứng (CSE) bằng
Marcaine+Fentanyl liều thấp trong và sau mổ thay khớp háng hay khớp gối.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả cắt ngang, thực hiện lâm sàng.
Đối tượng nghiên cứu: 113 bệnh nhân (BN) có ASA I đến III. Thực hiện kỹ thuật CSE cho các BN mổ
chương trình có chỉ định thay khớp háng hay khớp gối nhân tạo từ tháng 1/2011 đến tháng 8/2012 tại Bệnh viện
Nguyễn Tri Phương.
Kết quả: Vị trí gây tê tủy sống và gây tê ngoài màng cứng (CSE) tại vùng thắt lưng 3-4, luồn catheter ngoài
màng cứng 5cm. Độ sâu khoang trung bình 5,61cm. Lưu catheter 74,20 giờ. Thời gian thực hiện kỹ thuật CSE
7,5 phút. Thời gian tiềm phục 5,12 ± 0,4 phút. VAS từ 0-2 điểm. Phạm vi vô cảm vùng mổ tốt 100%. Mổ không
đau sau 17,25 phút. Thời gian mổ trung bình 95,04 phút (40-250 phút). Thời gian phục hồi vận động 130,29
phút. Tác dụng giảm đau hoàn toàn sau gây tê 220,96 phút. Vết mổ dài trung bình 15,67cm (10-20cm). Tỉ lệ
thành công trong mổ không đau 100% và sau mổ có 96,46%. Đau nhẹ sau mổ 3,54% cần thêm 1 liều bolus. Thời
gian lưu bệnh ở hồi sức 263,81 phút. Ăn uống lại bình thường sau 6 giờ.
Thay đổi mạch, huyết áp, hô hấp, SpO2, ECG trong và sau mổ không đáng kể (p>0,05).
Tỉ lệ biến chứng: mạch chậm <55 lần/phút 6 BN (5,3%). Hạ huyết áp <90/50mmHg 7 BN (6,19%) xuất hiện
sau gây tê khỏang 30 phút, lúc nghiêng tư thế và lúc xả garô đùi. Rét run 7 BN (6,19%). Bí tiểu sau mổ >10 giờ 5
BN (4,42%). Ngoài ra chưa gặp tai biến quan trọng khác.
Kết luận: Gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng (CSE) an toàn, hiệu quả giảm đau vượt trội, ít tai
biến-biến chứng. Chi phí thấp đáng kể.
Từ khóa: gây tê tủy sống, gây tê ngoài màng cứng, gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng, gây tê
ngoài màng cứng liên tục, phẫu thuật thay khớp.
ABSTRACT
EFFECTS OF COMBINED SPINAL-EPIDURAL ANESTHESIA WITH MARCAINE AND
FENTANYL DURING AND AFTER KNEE AND HIP ARTHROPLASTY AT NGUYEN TRI
PHUONG HOSPITAL
Nguyen Thu Chung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 124 - 134
Aim: To evaluate the effects of CSE Anesthesia for knee and hip Arthroplasty
Method: Prospective study, transitive description based on clinical aspects
Objects: 113 patients, ASA I-III. Applying methods of CSE anesthesia on selected patients for knee and hip
Arthroplasty from January 2011 to August 2012 at Nguyễn Tri Phương Hospital.
Results: anesthetic site was spinal and epidural at L3-4, catheter was inserted 5cm into epidural with
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: BS.CKII Nguyễn Thu Chung ĐT: 0908138846 Email: thuchung.nguyen@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 125
average depth about 5.61cm, and held in this position about 74.20 hours. The anesthetic time is 7.5 min. worn off
time is 5.12±0.4 min. VAS from 2 to 0 point, with 100% good blockage extent. Painless operation is performed
after 17.25 min. the average duration for operation is 95.04 min (40-250 min). The duration for motor recovery is
130.29 min. After blockage, complete pain reduction is 220.96 min. The incision is 15.67 cm (10-20cm). Success
rate during and after surgery are 100% and 96.46%. Moderate pain is 3.54% with a bolus. Time for post-
operation is 263.81min. Eating normal after 6 hours. There are some mild changes in pulse blood pressure,
respiration, SpO2, ECG during and after operation (p>0.05).
Frequency of complications: slow pulse 55 beats/min in six patients (5.3%); hypotension <90/50mmHg in 7
patients (6.19%) 30 min after blockage in the lateral recumbent position and at the time of withdrawing
tourniquet thigh, shivering in 7 patients (6.19%); urinary retention >10 hours in 5 patients (4.42%). In addition,
no change in important complications is noticed.
Conclusions: CSE was the safe, efficacious, and excellent painless procedure for knee and hip Arthroplasty.
No important complication. Impressive cost reduction of.
Keyword: Spinal Analgesia, Epidural Analgesia, Combined Spinal and Epidural Anesthesia (CSE),
Continuous epidural blocks, Arthroplasty.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật thay khớp háng hay khớp gối
được thực hiện lần đầu tiên trên thế giới vào
những năm 1930 và tại Việt Nam vào những
năm 1987. Đến nay đã có những bước tiến bộ
không ngừng giúp cho quá trình điều trị những
bệnh nhân bị thoái hóa khớp, hư khớp gối, hoại
tử chỏm xương đùi hay gãy cổ xương đùi tránh
được đau đớn, tàn phế, giúp họ có khả năng tự
đi lại được tạo điều kiện thuận lợi trong sinh
hoạt, giảm đi gánh nặng và sự chăm sóc của
người thân, góp phần không nhỏ trong việc cải
thiện chất lượng cuộc sống.
Đau đớn do bệnh tật luôn là nổi sợ hãi, lo
lắng tột cùng đã ám ảnh người bệnh nhất là khi
họ cần phải chấp nhận cuộc phẫu thuật lớn như
vậy. “Đau là cảm giác không thoải mái, là những
trải nghiệm cảm xúc liên quan tới sự tổn thương
mô thực thụ hoặc tiềm ẩn hoặc những tổn
thương tương tự”.
Tuổi cao là một trong những yếu tố làm
tăng nguy cơ bệnh tật. Tuổi cao không làm
tăng đáng kể nguy cơ phẫu thuật nhưng
những biến đổi sinh lý bệnh trong quá trình
tích tuổi và bệnh lý kèm theo về nội khoa như
tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim, tiểu đường,
tâm phế mạn, suy thận mạn, thiếu máu, suy
dinh dưỡng cơ thể thường làm cho nguy cơ
Gây mê - Phẫu thuật gia tăng đáng kể. Mối
quan tâm hàng đầu của phẫu thuật viên và
Bác sĩ gây mê hồi sức (GMHS) là chọn phương
pháp vô cảm nào thích hợp nhất, an toàn cao
nhất nhằm mục đích giảm đau tuyệt đối trong
và sau mổ cho người bệnh mà không làm gia
tăng nguy cơ bệnh tật kèm theo. Xu hướng
gây mê hiện đại ngày nay là áp dụng mô hình
giảm đau đa phương thức, ưu tiên chọn lựa là
các kỹ thuật gây tê vùng, gây tê tủy sống, gây
tê ngoài màng cứng hay CSE (Combined
Spinal and Epidural Anaesthesia) bằng thuốc
tê phối hợp liều nhỏ thuốc giảm đau opioides
kết hợp các thuốc giảm đau acetaminophene
hay non-steroides cho phẫu thuật chi dưới đặc
biệt là trong chấn thương chỉnh hình vì những
kỹ thuật này đã góp phần giảm thiểu tỉ lệ biến
chứng tắc mạch và tỉ lệ tử vong cho người
bệnh đến 30% so với vô cảm toàn thân(5). Bởi vì
khi gây mê toàn thể phải đối mặt rất nhiều với
những tai biến - biến chứng của việc đặt nội
khí quản, nhiều thuốc dùng trong gây mê, liệt
ruột kéo dài bất lợi cho các bệnh nhân lớn
tuổi. Theo thống kê cho thấy tỉ lệ sốc phản vệ
do thuốc trong gây mê khoảng 1/10.000-
1/20.000 trong đó do thuốc ngủ 7,4%; thuốc
giãn cơ 62%; nhựa 16,5%; chất thay thế huyết
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 126
tương 3,6%; Morphine 1,9% đặc biệt hiếm thấy
phản ứng phản vệ do thuốc tê gây ra(9,8)
Kỹ thuật CSE phát triển từ thập niên 1950,
bao gồm sự kết hợp giữa 2 kỹ thuật gây tê tủy
sống vào vùng thắt lưng để bơm lượng thuốc tê
nhỏ vào khoang dưới nhện làm tê tạm thời các rễ
thần kinh mà nó chi phối cảm giác và vận động
chi dưới đồng thời gây tê ngoài màng cứng có
luồn một catheter vào khoang ngoài màng cứng
cho thuốc tê liên tục làm kéo dài thời gian giảm
đau cho người bệnh trong 3 ngày đầu sau mổ.
Sự kết hợp như trên sẽ giảm được liều thuốc tê
của mỗi kỹ thuật nên tỉ lệ tai biến-biến chứng rất
thấp như nhiều tác giả trong ngoài nước đã
nghiên cứu và công bố(4,10,1,2). Tuy nhiên sử dụng
liều thuốc tê tủy sống bằng Marcaine 0,5%
10mg+Fentanyl 20µg và duy trì bơm điện qua
catheter ngoài màng cứng liều Marcaine 0,125%
(7,5mg/giờ)+Fentanyl 1,25µg/ml (7,5µg/giờ) là
liều rất thấp mà chưa tác giả nào công bố có thực
sự mang lại hiệu quả giảm đau trong và sau mổ
cho các bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật thay
khớp háng hay khớp gối hay không? Chính vì lý
do trên mà chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu
này nhằm các mục tiêu như sau:
-Đánh giá hiệu quả vô cảm CSE bằng
Marcaine + Fentanyl liều thấp trong và sau mổ
thay khớp háng hay khớp gối
-Các thay đổi trên hô hấp, tuần hoàn và các
phiền nạn có thể gặp trong thời điểm nào để có
cách đề phòng, phát hiện, xử lý tình huống
-Xác định tỉ lệ thành công, tỉ lệ tai biến-biến
chứng khi thực hiện vô cảm này
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang, thực
nghiệm lâm sàng.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật thay
khớp háng hay khớp gối nhân tạo tại Bệnh
Viện Nguyễn Tri Phương từ tháng 01/2011
đến tháng 08/2012.
Kỹ thuật chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Không có chống chỉ định với gây tê tủy sống,
gây tê ngoài màng cứng.
Có chỉ định thay khớp gối hay khớp háng
nhân tạo.
Bệnh nhân có yêu cầu làm giảm đau ngoài
màng cứng liên tục trong và sau mổ.
Tiêu chuẩn loại trừ
BN đang nhiễm trùng toàn thân, tình trạng
sốc hay giảm khối lượng tuần hoàn.
Dị dạng cột sống, gù vẹo, viêm nhiễm tại
vùng định gây tê, có bệnh lý thần kinh trung
ương, tăng áp lực nội sọ, dị ứng thuốc tê hay các
thuốc họ Morphine, rối loạn đông máu.
Bệnh nhân kiên quyết từ chối
Thu thập thiếu số liệu.
Phương tiện và trang thiết bị
Tại phòng mổ: Máy gây mê, nguồn dưỡng
khí, Monitoring theo dõi mạch, huyết áp,
SpO2, ECG, Mâm gây tê vô trùng, bộ dụng cụ
gây tê ngoài màng cứng Perifix của hãng
B/Braun, kim gây tê tủy sống 25G, dung dịch
sát trùng da, găng tay vô trùng, máy bơm tiêm
điện, bơm tiêm 60ml, dây nối bơm tiêm điện,
điện cực đo ECG.
Thuốc gây mê và hồi sức: dịch truyền, dây
truyền dịch, dây 3 chạc, kim luồn 18G, thuốc tê
Marcaine for spinal 0,5% 4ml, Marcaine 0,5% lọ
20ml, Fentanyl 100 µg/2ml, Atropine sulfat,
Ephedrine 30mg, Midazolam 5mg, hộp thuốc
chống sốc và các thuốc gây mê hồi sức khác.
Cách thức tiến hành: sau khi có chỉ định
phẫu thuật
Tiếp cận bệnh nhân
Khám tiền mê trước mổ đánh giá tình trạng
sức khỏe bệnh nhân, các bệnh kèm theo cần điều
trị ổn định, các xét nghiệm tiền phẫu cho phép
mổ được, không có chống chỉ định với gây tê tuỷ
sống hay ngoài màng cứng, xếp loại ASA,
Malampati, giải thích cách thức tiến hành kỹ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 127
thuật CSE cho người bệnh biết để yên tâm hợp
tác, ký tên vào bảng cam kết mổ và có yêu cầu
làm giảm đau.
Khi BN vào phòng mổ
Tiếp đón ân cần, trấn an người bệnh và yêu
cầu bệnh nhân hợp tác. Tiến hành lấy ven truyền
dịch Lactate Ringer’s hay NaCl 9 ‰ với kim
luồn 20 G, cố định kim chắc chắn. Gắn
Monitoring và dán điện cực đo ECG, SpO2,
Mạch, huyết áp, nhịp thở, cài đặt tự động theo
dõi mỗi 5phút/lần trong suốt cuộc mổ. Cho bệnh
nhân thở oxy qua mũi 2lít/phút hay qua mask
5lít/phút.
Tiến hành kỹ thuật
Bệnh nhân nằm nghiêng về bên có chi phẫu
thuật, tư thế “cong lưng tôm”, người làm kỹ
thuật rửa tay mang găng vô trùng và sát trùng
da với bétadine sau đó làm sạch da bằng cồn,
xác định vị trí gây tê vùng thắt lưng 3-4,
đường giữa, tê trong da với 1ml Marcaine
0,5%, gây tê tủy sống với kim 25G khi có dịch
não tủy trong chảy ra thì tiêm 10mg/2ml
Marcaine for Spinal 0,5%+Fentanyl 20 µg, tiêm
chậm, sau đó rút kim ra và tiến hành gây tê
ngoài màng cứng cũng tại vị trí này, với kỹ
thuật xác định “mất sức cản” là dung dịch
NaCl 9‰. Khi thấy nhẹ tay thì luồn catheter
vào và đặt trong khoang ngoài màng cứng
khoảng 5cm, cố định ngoài da bằng miếng dán
Askinase 10 x12 cm, cho BN nằm ngữa lại,
kiểm tra sinh hiệu ổn định thì cho Phẫu thuật
viên kê tư thế, tiến hành sát trùng, trải săng và
bắt đầu mổ. Sau gây tê tủy sống 1 giờ, bơm
liều bolus Marcaine 0,125% 10mg+Fentanyl 20
µg qua catheter ngoài màng cứng để duy trì
giảm đau trong mổ. Sau khi mổ xong, cho
thuốc vào bơm tiêm điện duy trì liên tục liều
giảm dần với Marcaine 0,125%+Fentanyl 1,25
µg/ml tốc độ 6ml/giờ ngày 1, ngày 2: 5ml/giờ
và ngày 3: 4ml/giờ. Rút catheter ngoài màng
cứng khi hết thuốc tê. Tổng lượng thuốc tê cho
3 ngày trung bình 4-5 lọ Marcaine 20ml và 4-5
ống Fentanyl 100 µg.
Phối hợp thuốc giảm đau non-steroides
Loại Mobic hay Felden mỗi 12 giờ hoặc loại
Acetaminophene như Perfalgan 1g/mỗi 8giờ.
Hình 1,2,3,4: Minh họa gây tê tủy sống và gây tê
ngoài màng cứng (CSE) có luồn catheter
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 128
Ghi nhận các chỉ số theo dõi
Hô hấp, SpO2, Mạch, huyết áp, mức tê, độ
liệt vận động, mức độ đau theo VAS vào phiếu
nghiên cứu qua các thời điểm:
Trườc gây tê (T1), sau gây tê (T2), Kê tư thế
(T3), rạch da (T4), bỏ chỏm hư (T5), đặt dụng cụ
nhân tạo (T6), đổ xi măng (T7), khâu vết mổ
xong hay có xả garo đùi (T8), Hồi sức giờ đầu
(T9), khi chuyển lại khoa (T10).
Thang điểm Bromage về phong bế vận động có
4 độ
Độ 0: không phong bế, cử động hoàn toàn ở
bàn chân và gối;
Độ 1: phong bế 1 phần. Một ít cử động ở gối,
không nâng chân lên được;
Độ 2: phong bế hầu như hoàn toàn. Chỉ có cử
động được bàn chân;
Độ 3: phong bế hoàn toàn. Không cử động
được bàn chân hoặc gối.
Đánh giá mức tê:mốc phân bố cảm giác
T12: ngang nếp bẹn;
T10: ngang rốn;
T8: ngang hai hạ sườn;
T6: vùng hõm ức.
Ghi nhận các bất thường như hạ huyết áp,
nhịp tim chậm, bí tiểu, yếu cơ, độc tính thuốc
tê xuất hiện tại thời điểm nào, cách xử lý và
kết quả.
Khi BN được chuyển lại khoa: mỗi ngày
thăm lại bệnh để điều chỉnh liều thuốc tê giảm
đau phù hợp, ghi nhận các phiền nạn khác như
bí tiểu, đau đầu, đau lưng.
Tham khảo Bác sĩ phẫu thuật nhận xét kết quả
vô cảm trong và sau mổ
Loại tốt: tê hoàn hoàn, giãn cơ tốt, suốt cuộc
mổ không đau
Loại khá: Tê không hoàn toàn, BN khó chịu,
kêu đau nhẹ, phải thêm thuốc tiền mê.
Loại kém: không tê hay mức tê thấp, mổ khớp
háng gây đau phải đổi vô cảm sang gây mê.
Thu thập và xử lý số liệu
Nam, nữ, tuổi đời, chiều cao, cân nặng, bệnh
kèm, tình trạng sinh hiệu, huyết động trong và
sau mổ, đánh giá vận động, thang điểm đau
VAS, hiệu quả giảm đau CSE của thuốc đang
dùng trong và sau mổ, thuốc giảm đau khác bổ
sung, các tác dụng phụ không mong muốn, các
bất thường có thể gặp. Nhập số liệu trên phần
mềm SPSS 10.0 và xử lý theo phương pháp toán
thống kê. Có ý nghĩa khi p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 01/2011 đến tháng 8/2012, chúng
tôi đã tiến hành kỹ thuật vô cảm CSE có luồn
catheter ngoài màng cứng để giảm đau liên
tục cho 113 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật
thay khớp háng hay thay khớp gối nhân tạo,
thực hiện tại Khoa Phẫu thuật Gây mê - Hồi
sức Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương.
Đặc điểm chung
Tổng số 113 bệnh nhân: Nam 30 (26,5%) và
Nữ 83 (73,5%).
Bảng 1: Tuổi đời, chiều cao, cân nặng
Thấp nhất Cao nhất TB ± SD
TUỔI ĐỜI (Năm) 33 94 67,32 ± 13,23
CÂN NẶNG (Kg) 35 105 56,15 ± 10,83
CHIỀU CAO (cm) 145 180 157,22 ± 7,47
Tuổi đời: từ 50 đến 85 có 104 BN, tỉ lệ 92%
Bệnh mổ và bệnh nội khoa kèm theo:
Bảng 2: Bệnh mổ
Stt Loại thay khớp Số bn Tỉ lệ %
1
KHỚP HÁNG:
Bipolar
Toàn phần
77
50
27
68,1%
44,24%
23,86%
2
KHỚP GỐI:
1 bên
2 bên
36
29
7
31,9%
25,66%
6,24%
3 THAY KHỚP GỐI LẠI 5 4,42%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 129
Bảng 3: Bệnh kèm
STT Tên bệnh Số bệnh nhân Tỉ Lệ % 1 bệnh 2 bệnh 3 bệnh >3 bệnh
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Tăng huyết áp
Bệnh tim TMCB
Bệnh van tim
Tiểu đường
Loãng xương
COPD
Lao phổi cũ
Đã mổ TVDĐTL
Đã mổ KHX đùi
Bệnh khác
80
11
7
27
49
8
5
3
7
43
70,79%
9,73%
6,19%
23,89%
43,36%
7,07%
4,42%
2,65%
6,19%
38,05%
55
48,67%
35
36,49%
15
13,27%
8
7,07%
Trên 90% người bệnh có kèm theo tối thiểu nhất 1 bệnh nội khoa
Đặc điểm về kỹ thuật-theo dõi bệnh nhân trong va sau GM-PT
Bảng 4: thu thập các kết quả
Stt Kết quả Thấp nhất Cao nhất Trung bình
1 Độ sâu khoang NMC (cm) 5 9 5,61
2 Thời gian làm kỹ thuật (phút) 5’ 10’ 7,5
3 Tác dụng giảm đau sau tê 5 ‘ 7’ 5,12 ± 0,4'
4 Mổ được sau gây tê 15’ 35’ 17,25±15,04’
5 Thời gian mổ 40’ 250’ 95,04’±37,84’
6 Thời gian không đau sau tê 140’ 330’ 220,96±40,58’
7 Thời gian phục hồi vận động 80’ 180’ 130,29±20,44’
8 Chiều dài vết mổ (cm) 10 20 15,67±8,21
9 Dịch truyền (ml) 800 1.5 1.185±209,53
10 Thời gian lưu ở hồi sức (phút) 130 600 263,81±58,76
11 Số ngày BN nằm chờ mổ 1 24 7,28±4,79
12 Thời gian lưu catheter (giờ) 60 84 74,20±3,40
Thay đổi sinh hiệu trong và sau mổ
Bảng 5: Thay đổi sinh hiệu
Hô hấp Spo2 Mạch HATĐ HATT HATB
T1 20 97% 83,28 139,71 76,04 98,19
T2 18 99 82,75 128,58 71,32 91,46
T3 18 100 82,52 124,13 69,04 87,71
T4 17 100 80,69 122,46 69,28 87,13
T5 17 100 78,07 123,80 70,57 88,27
T6 18 100 78,28 123,93 70,25 88,67
T7 16 100 77,53 124,71 70,96 89,35
T8 17 100 77,48 125,91 69,80 89,13
T9 16 99 76,69 127,21 72,05 91,01
T10 17 99 75,84 127,31 72,07 91,03
T 1,79 1,86 1,82 1,65 1,54 1,55
P 0,51 0,38 0,32 0,34 0,45 0,33
Kết quả các chỉ số theo dõi thay đổi không
nhiều, không có ý nghĩa thống kê vì p >0,05.
Đánh giá hiệu quả vô cảm
Bảng 6: Mức tê: thử cảm giác trên da
Mức tê T6 T8 T10 T12
Số bệnh nhân 0 21 92 0
Tỉ lệ % 0 18,59 81,41 0
Đa số có mức tê ngang rốn = T10 có 92 BN, tỉ
lệ 81,41%
Trong mổ BN có liệt vận động từ độ 2 đến độ
3 (p<0,05), giai đoạn ra hồi sức đến ngày thứ 3
sau mổ hoàn toàn không liệt vận động khi duy
trì thuốc tê ngoài màng cứng (p>0,05).
Bảng 7: Độ liệt vận động
Theo Bromage 0 1 2 3
Số bệnh nhân:
Trong mổ 0 0 47 66
Tỉ lệ % 0 0 41,6 58,4
Sau mổ ngày 3 113 0 0 0
Tỉ lệ % 100 0 0 0
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 130
Trong mổ tất cả BN đều không đau. Sau mổ
có 109 BN không đau và 4 BN đau nhẹ
Bảng 8: Thang điểm đau VAS (Visual Analog Score):
Thang điểm đau 0-1 >1-3 >3-5 >5-8 >8-10
Số bệnh nhân:
Trong mổ 113 0 0 0 0
Tỉ lệ % 100 0 0 0 0
Sau mổ 109 4 0 0 0
Tỉ lệ 96,46 3,54 0 0 0
Tai biến-Biến chứng trong và sau mổ
Bảng 9: Tai biến-Biến chứng
STT Tai biến BN Tỉ lệ Xuất hiện Xử trí
1
Mạch chậm
<55 l/phút
6 5,3
Sau tê # 30
phút
Atropine 0,25mg
IV
2
Hạ HA<90/50
mmHg
7 6,19
Nghiêng
bệnh hay xả
garo chân
Ephedrine 5-
10mg IV
3
Bí tiểu do RL
cơ vòng
5 4,42
Sau tê >
10giờ
Thông tiểu
4
Lạnh run sau
gây tê
7 6,19
Sau gây tê #
30’
Dolargan 25mg,
IV
5
Y tá quên thay
thuốc
1 0,88
Đêm đầu
tiên
Thay thuốc và
bolus ngay 6ml
6
Cài đặt sai liều
(0,6ml/h thay
vì 6ml/h)
1 0,88
Đêm đầu
tiên
Bolus ngay 6ml
và cài đặt lại liều
bơm tiêm điện
6ml/h
Nhận xét của phẫu thuật viên và mức độ
hài lòng của bệnh nhân
Bảng 10: Nhận xét
Loại Tốt khá kém
Phẫu thuật viên 113 (100%) 0 0
BN trong mổ 113 (100%) 0 0
BN sau mổ 109(96,46%) 4 (3,54%) 0
Phẫu thuật viên và bệnh nhân hài lòng với
kết quả vô cảm giảm đau này
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung (Bảng 1)
113 BN trong nghiên cứu có 30 nam và 83
nữ, tỉ lệ nữ cao hơn nam gấp 3 lần. Tuổi đời
trung bình 67,32 ± 13,23. Tuổi thấp nhất 33 và
cao nhất 94 trong đó độ tuổi 50-85 có 104 BN
(92%). BN cao niên nhiều hơn các nghiên cứu
khác(6). Tuổi cao là một trong những yếu tố
làm tăng nguy cơ bệnh tật. Tuổi cao không
làm tăng đáng kể nguy cơ phẫu thuật nhưng
những biến đổi sinh lý bệnh trong quá trình
tích tuổi và bệnh lý kèm theo thường làm cho
nguy cơ gây mê - phẫu thuật gia tăng đáng kể.
Mặc khác gây khó khăn cho việc thực hiện vô
cảm CSE vì cột sống lưng bị thoái hoá, viêm
dính, xơ hóa cơ cạnh cột sống, đã mổ thoát vị
dĩa đệm lưng, đôi khi ảnh hưởng đến sự
lan truyền của thuốc khi sử dụng.
Cân nặng trung bình 56,15 ± 10,83 kg, thấp
nhất 35 và cao nhất 105 kg. không có khác biệt
nhiều so các nghiên cứu khác(6).
Chiều cao trung bình 157,22 ± 7,47 cm, thấp
nhất 145cm và cao nhất 180cm, phù hợp người
Châu Á.
Bệnh mổ và bệnh nội khoa kèm theo
Bệnh mổ: bảng 2
Theo thống kê cho thấy có khoảng 30%
người trên 30 tuổi, 60% người trên 65 tuổi và
85% người trên 80 tuổi có nguy cơ mắc bệnh
thoái hóa khớp và loãng xương. Việc té ngã nhẹ
cũng có thể gây cho người bệnh dễ gãy xương
đặc biệt là gãy cổ xương đùi.
Trong nghiên cứu của chúng tôi: có 77 BN
thay khớp háng nhân tạo (68,1%) trong đó thay
chỏm Bipolar 50 BN (44,24%) và thay khớp háng
toàn phần 27 BN (23,86%); Thay khớp gối nhân
tạo 36 BN (31,9%) ở 1 bên hoặc 2 bên gối. Trong
số đó có 5 BN phải thay lại khớp gối (4,42%) do
nhiễm trùng sau mổ.
* Nguyên nhân: Gãy cổ xương đùi: 16 BN
(14,15%); Thoái hóa hay hoại tử chỏm xương đùi:
61 BN (53,98%); Thoái hóa khớp gối: 36 BN
(31,87%); Đã có thay khớp: khớp háng 8 BN
(7,07%); Khớp gối 5 BN (4,42%).
Bệnh nội khoa kèm theo: bảng 3
Nhiều nhất là tăng huyết áp 80 BN (70,79%),
thiếu máu cơ tim 11 BN (9,73%), bệnh van tim 7
BN (6,19%) đặc biệt có một BN suy tim độ 3 với
EF = 37%. Kế đến là bệnh nội tiết như tiểu đường
27 BN (23,89%), loãng xương 49 BN (43,36%),
bệnh hô hấp mạn như COPD 8BN (7,07%), lao
phổi cũ 5 BN (4,42%), các bệnh khác như thiếu
máu, suy thận mạn, Tai biến mạch máu não cũ,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 131
viêm đa khớp, Gout, viêm loét dạ dày, Số BN
kèm theo 1 bệnh nội khoa là 55 BN (48,67%), 2
bệnh 35 BN (36,49%), 3 bệnh 15 BN (13,27%), hơn
3 bệnh 8 BN (7,07%). Có 45 BN đánh giá ASA I
(39,82%), còn lại 68 BN đánh giá ASA II-III
(60,18%). Như vậy có trên 90% BN có kèm theo
tối thiểu 1 bệnh nội khoa. Tất cả các BN này
được điều trị bệnh kèm ở giai đoạn tạm ổn định
mới xếp lịch mổ chương trình. Kỹ thuật CSE ít
nhiều có nguy cơ hạ huyết áp, chậm nhịp tim
sau tê do khả năng vận mạch bị giảm sút. Tuy
nhiên kỹ thuật này đã đem lại hiệu quả vô cảm
giảm đau tối ưu, giảm tối thiểu sự mất cân bằng
về huyết động học, giảm tỉ lệ tai biến-biến chứng
chu phẫu một cách có ý nghĩa liên quan đến tắc
mạch đặc biệt là tắc mạch phổi, nhồi máu cơ
timở những BN phẫu thuật có nguy cơ cao,
giảm nguy cơ tử vong đến 30% nhất là trong
phẫu thuật chuyên khoa chấn thương chỉnh
hình. Vì thế nên kỹ thuật gây tê vùng ngày nay
thường được ưu tiên lựa chọn hơn là gây mê
toàn thể(2).
Đặc điểm về kỹ thuật và kết quả theo dõi có
liên quan đến gây mê-phẫu thuật
Đặc điểm về kỹ thuật và liều thuốc tê sử
dụng: kỹ thuật gây tê tủy sống được thực hiện từ
những năm đầu thế kỷ XIX. 1885, John Howard
Corning tiêm cocaine vào tủy sống của chó để
điều trị phát hiện chó bị mất cảm giác và liệt vận
động 2 chi dưới và J. Leonhard Coming lần đầu
tiên thử gây tê ngoài màng cứng. 1898, August
Bier (Đức) mô tả và cho biết kết quả giảm đau tốt
bằng cocaine trong mổ vùng chi dưới. 1937,
Soresi AL lần đầu tiên mô tả kỹ thuật gây tê tủy
sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng có tên gọi
là CSE. 1949, Cubelo (Cuba) thực hiện kỹ thuật
CSE nhằm mục đích giảm đau kéo dài sau mổ.
1977, Stientra gây tê tủy sống bằng Bupivacaine
cho 3.000 trường hợp phẫu thuật chi dưới, niệu,
sản khoa cho kết quả giảm đau mỹ mãn và ít tai
biến được áp dụng rộng rãi cho tới ngày nay.
1979, Curelaru I thử luồn catheter qua kim
Tuohy đặt lại trong khoang ngoài màng cứng.
1982, Coates MB áp dụng thành công CSE trong
phẫu thuật chi dưới không đau kéo dài sau mổ
72 giờ. Các tác giả khác nhau không ngừng
nghiên cứu, cải tiến theo thời gian với nhiều
thuốc tê mới ra đời. Tại Việt Nam áp dụng từ
những năm 1990 để phẫu thuật vùng bụng dưới
và chi dưới trong các chuyên khoa ngoại, sản,
niệu, chấn thương chỉnh hình(1,6,12,16). Bupivacaine
(Marcaine) là thuốc tê có tác dụng kéo dài hơn
Lidocaine gấp 3 lần, thuộc nhóm Amino
Amides. Liều tối đa trong tê ngoài màng cứng
cho phép là 400mg/24giờ, 2,5mg/kg và 2,5mg/ml
thường được áp dụng để gây tê vùng phối hợp
với Morphine hay opioids liều thấp nhằm tăng
hiệu quả giảm đau và kéo dài thời gian tác dụng
mà ít thấy tai biến-biến chứng nghiêm trọng xảy
ra cho người bệnh nhất là tai biến trên tim
mạch(1,12). Trong phẫu thuật thay khớp háng, liều
Marcaine 0,5% 12mg đã được Hội gây mê hồi
sức thế giới khuyến cáo sử dụng ở các nước
Phương Tây(13,14), Ben-David dùng liều thấp
Marcaine 0,5% 4-5mg+Fentanyl 20 µg nhận thấy
có đến 25% trường hợp không đủ giảm đau
trong mổ(14). Phan Anh Tuấn sử dụng liều
Bupivacaine 0,5% 8mg+Fentanyl 50µg trong
phẫu thuật chi dưới cho kết quả giảm đau từ
96,7-100%(6). Bệnh viện ĐHYD TP.HCM sử dụng
liều Marcaine 0,5% 10mg+Fentanyl 25µg trong tê
tủy sống và duy trì bơm điện Marcaine
0,1%+Fentanyl 4µg /ml tốc độ 2-6ml/giờ/3 ngày.
Nghiên cứu của chúng tôi đề xuất gây tê tủy
sống với liều Marcaine 0,5% 10mg+Fentanyl
20µg cho tất cả bệnh nhân thay khớp háng hay
khớp gối đã đem lại hiệu quả giảm đau hữu
hiệu, tỉ lệ thành công 100% (Bảng 8, 10). Sự giảm
liều ở bệnh nhân đặc biệt bệnh nhân lớn tuổi
luôn cần thiết nhưng phải đảm bảo vô cảm
không đau suốt cuộc mổ. Theo chúng tôi liều
trên đây khá phù hợp cho người bệnh lớn tuổi
trong nghiên cứu này. Để duy trì giảm đau ngay
từ trong và sau mổ kéo dài 3 ngày, chúng tôi
phối hợp kỹ thuật gây tê ngoài màng cứng có
luồn catheter để cho thuốc vào máy bơm tiêm
điện liên tục, liều Marcaine+Fentanyl đã giảm
được 50% so với liều khuyến cáo mà kết quả vẫn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 132
đáp ứng được mục tiêu giảm đau cho người
bệnh. Hai kỹ thuật này phối hợp lại với nhau
người ta gọi tắt là kỹ thuật CSE mà ngày nay rất
được các Bác sĩ phẫu thuật đánh giá cao và hài
lòng với thành quả người Bác sĩ Gây mê Hồi sức
đem lại cho người bệnh.
Kết quả theo dõi (Bảng 4) trong nghiên cứu
này, độ sâu khoang ngoài màng cứng trung bình
5,61 cm. Thời gian làm kỹ thuật trung bình 7,5
phút (5-10 phút) là khá nhanh hơn các nghiên
cưú khác, nhanh chậm đều do sự khéo léo-thành
thạo thao tác của mỗi người. Thời gian tiềm phục
sau tê ngắn 5,12 phút. Mổ sau tê trung bình 17,25
phút (15-30 phút). Thời gian mổ 95,04 phút (40-
250 phút), mổ kéo dài trên 200 phút thường gặp
ở các bệnh nhân thay khớp lại do quá trình xử lý
lấy khớp nhân tạo cũ ra, cắt lọc vùng mổ, đặt lại
khớp mới nhưng vô cảm vẫn đáp ứng tốt. Thời
gian phục hồi vận động 130, 29 phút (80-180
phút), thông thường lúc mổ xong bệnh nhân còn
liệt vận động độ 1 nên có thể cử động được cổ
bàn chân và nâng nhẹ khớp gối nên việc di
chuyển qua giường bệnh khá thưận lợi. Các kết
quả trên cũng tương ứng kết quả nhiều tác giả
khác nêu trong luận văn thạc sĩ của Phan Anh
Tuấn đã so sánh(6). Chiều dài vết mổ trung bình
15,67 cm (10-20cm), mổ khớp gối đường mổ dài
hơn, mức độ đau sau mổ nhiều hơn so khớp
háng 4 BN (3,54%). Thời gian điều trị tại hồi sức
trung bình 263,8 giờ, có 4 BN điều trị truyền máu
(3,54%) nên thời gian lưu tại phòng hồi sức đến
6-7 giờ. Thời gian BN nằm điều trị các bệnh kèm
ở các chuyên khoa đến ngày mổ trung bình 7,28
ngày, trong đó có 3 BN điều trị 20-24 ngày tình
trạng sức khỏe mới cho phép gây mê-phẫu thuật
được. Thời gian lưu catheter trung bình 74,20 giờ
(60-84 giờ). Theo khuyến cáo của Hội gây mê
Hồi sức thế giơi khuyên nên lưu 72 giờ. Tuy
nhiên có khoảng 10 BN chúng tôi cho duy trì
giảm đau hơn 80 giờ để giúp người bệnh tập vận
động khớp thuận lợi mà chưa thấy bất lợi gì. Tại
vùng catheter luôn khô sạch, không có sự cố nào
khi rút catheter xảy ra mặc dù y văn có nêu
catheter bị đứt, bị kẹt, bị nhiễm trùng.
Thay đổi sinh hiệu trong và sau mổ:
(bảng 5)
Ảnh hưởng lên huyết động
Mạch: So sánh mạch trong các thời kỳ từ 83 -
75 lần/phút, giảm hơn lúc trước gây tê 5-8
lần/phút khoảng 5-6%, có lẻ do tâm lý lo âu của
người bệnh, do nằm nghiêng ít nhiều gây đau
vùng sang thương bên mổ. Khắc phục điểm này,
chúng tôi thường gây tê tủy sống trước để cho
người bệnh hết đau, tạo niềm tin và sự thoải mái
cho BN rồi sau đó mới gây tê ngoài màng cứng,
luồn catheter hoàn toàn thuận lợi, có thể vì lý do
này mà thời gian làm 2 kỹ thuật của chúng tôi
thực hiện rất nhanh trung bình khoảng 7,5 phút.
Mặc dù mạch thay đổi nhưng không có ý nghĩa
thống kê vì p>0,05. Kết quả này phù hợp với các
nghiên cứu khác(6).
Tỉ lệ mạch chậm < 55lần/phút 6BN (5,3%)
xuất hiện sau gây tê khoảng 30 phút (bảng 9), xử
trí Atropine sulfate 0,25-0,5mg IV sau đó mạch
ổn định >60lần/phút.
Huyết áp động mạch trước tê trung bình
139/76 mmHg, sau tê và trong mổ khá ổn định
trong giới hạn 122/72mmHg đến cuối cuộc mổ,
giảm khoảng 10mmHg, có sự thay đổi nhỏ trong
các thì nhưng không có ý nghĩa thống kê vì p
>0,05. Kết quả này có giảm thấp hơn so nhiều tác
giả khác mà tài liệu [4] đã tổng kết.
Tỉ lệ bệnh nhân tụt huyết áp trong mổ
<90/50 mmHg có 7BN (6,19%) (bảng 9), xuất
hiện lúc nghiêng bệnh kê tư thế trong phẫu
thuật thay khớp háng và trong thì xả garo đùi
lúc mổ xong, máu dồn về phần chi dưới nhiều,
xử trí thuốc vận mạch Ephedrine 5-10mg sau 1
phút huyết áp lên lại, không có trường hợp
nào cần thêm điều trị tích cực khác. Tỉ lệ tụt
huyết áp này thấp hơn các tác giả khác, thay
đổi từ 16-63%(6). Ngoài ra chúng tôi cũng hiểu
rằng thuốc tê Marcaine kết hợp Fentanyl gây
ức chế dây tiền hạch giao cảm dẫn đến giãn
mạch, tụt huyết áp, giảm lượng máu về tim.
Hạ huyết áp vừa phải cũng là một ưu điểm vì
lúc mổ sẽ ít gây mất máu hơn. Chúng tôi
thường truyền dịch tinh thể trước khoảng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 133
500ml để làm đầy mạch trước có thể hạn chế
được sự cố này. Dịch truyền trung bình 1.185 ±
209ml (800-1500ml/BN) trong mổ. (bảng 4),
phù hợp các nghiên cứu khác(6). Ngoài ra ở thì
bỏ chỏm hư, đặt dụng cụ, đổ xi măng (T5, T6,
T7) chưa phát hiện thay đổi nào đáng kể trong
nghiên cứu này.
Anh hưởng trên hô hấp
Tần số hô hấp từ 16-22lần/phút, không gặp
biến chứng về hô hấp nhất là các bệnh nhân có
kèm theo bệnh lý hô hấp mạn như kết quả bảng
3 thống kê.
Chỉ số bão hòa oxy qua theo dõi SpO2 luôn ở
mức ổn định từ 97-100%. (bảng 5). Trong nghiên
cứu có 8 BN kèm bệnh COPD và 5 BN bị lao
phổi cũ (bảng 3) không có diễn biến hay trở ngại
nào trên đường thở và EtCO2 không vượt quá 45
mmHg. Điều này cũng phù hợp với báo cáo của
các tác giả Nhật nghiên cứu năm 1988. CSE tỏ ra
an toàn và rất phù hợp cho các bệnh nhân này(10).
Fentanyl là dẫn chất của opioid nên khi tiêm
vào tủy sống có thể ức chế trung tâm hành tủy
làm mất nhạy cảm của trung tâm này với sự tăng
CO2 có thể suy giảm hô hấp và suy hô hấp là
biến chứng nguy hiểm nhất mà tác giả Công
Quyết Thắng đã thống kê tỉ lệ 0,33± 5,5%(4,10).
Trong nghiên cứu này không gặp trường hợp
nào có biểu hiện suy giảm hô hấp có lẻ do liều
Fentanyl 20µg là liều khá thấp hơn một số báo
cáo khác là 50 µg(10).
Hiệu quả vô cảm
Mức tê (bảng 6)
Trong mổ dựa vào cách thử cảm giác tê bì
trên da sau gây tê chúng tôi nhận thấy có 92 BN
(81,41%) có mức tê ngang rốn (T10) và 21 BN
(18,59%) có mức tê ngang hạ sườn (T8) có lẻ do
người bệnh nằm nghiêng bên mổ nên thuốc tê
lan cao hơn nhưng không ảnh hưởng đến sức
thở (bảng 5). Mức tê này hoàn toàn bao phủ
vùng mổ nhất là BN thay khớp háng. Sau khi mổ
xong trung bình 95 phút kiểm tra lại thấy mức tê
chỉ còn T12 trở xuống chân.
Độ liệt vận động (bảng 7)
Thời gian tiềm phục sau gây tê 5,12±0,4 phút
(bảng 4) BN có liệt vận động độ 2 và 3 (p<0,05).
Trong mổ không đánh giá tiếp vì phẫu thuật
viên đã trải săng. Thời gian ức chế cảm giác vận
động hồi phục dần sau mổ trung bình 130,29
±20,44phút (bảng 4) tương tự các nghiên cứu
khác từ 130-150 phút(10). Trong 3 ngày truyền
thuốc tê giảm đau liên tục hầu hết 113 BN đều
không liệt vận động (0%). p>0,05.
Điểm đau VAS (bảng 8)
Trong mổ 100% BN hoàn toàn không đau,
VAS từ 0-1 điểm, không cho thêm bất kỳ thuốc
giảm đau nào. Sau mổ có 4 BN (3,54%) thay
khớp gối có VAS 3-4 điểm, cần cho thêm liều
bolus 6ml trong đó có 2 BN bị điều dưỡng quên
thay thuốc và cài đặt sai liều khi thay bơm tiêm
thuốc mới (bảng 9).
Tác dụng không mong muốn khác trong và
sau mổ (bảng 9):
Rét run sau gây tê tủy sống hay ngoài màng
cứng thường gặp có lẻ do giãn mạch, cơ chế
chính y văn cũng chưa xác định. Nghiên cứu này
gặp 7 BN (6,19%) xuất hiện sau gây tê khoảng 30
phút, chúng tôi xử trí Dolargan 25mg pha loãng
thành 5ml IV sau vài phút khỏi. Các nghiên cứu
khác có tỉ lệ từ 6,4 đến 18%(6).
Rối loạn cơ vòng thường gặp là bí tiểu sau
mổ > 10giờ có 5 BN (4,42%), xử trí chườm ấm
vùng bàng quang không kết quả sau 30 phút thì
đặt thông tiểu ngày hôm sau rút.
Ngoài ra, chưa thấy tác dụng phụ nghiêm
trọng nào khác.
Nhận xét của phẫu thuật viên: 113 BN phẫu
thuật không đau, mềm cơ tốt, an toàn, tạo điều
kiện thuận lợi cho cuộc mổ thành công 100%.
Sau mổ hài lòng với sự luyện tập cơ-khớp cho
BN vì không gây đau nên người bệnh hợp tác,
giúp ích rất nhiều cho BN trong quá trình tập vật
lý trị liệu mau chóng phục hồi chức năng vận
động khớp sau mổ. Toàn bộ chi phí có lẻ thấp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 134
hơn gấp 3-4 lần so với gây mê toàn thể và dùng
kỹ thuật giảm đau khác.
Nhận xét của BN: 96,46% hoàn toàn hài
lòng với kết quả cuộc mổ, với kỹ thuật giảm
đau mà Bác sĩ gây mê hồi sức đem lại, đã chia
sẻ và giúp họ vượt qua được cảm giác đau
thực thể và tâm lý yên tâm, thoải mái, ăn
ngon, ngủ đủ, đã giúp họ cải thiện tốt hơn
chất lượng cuộc sống từng ngày.
KẾT LUẬN
Vô cảm CSE với giảm đau ngoài màng
cứng liên tục đã đem lại hiệu quả giảm đau
thiết thực trong và sau mổ, nhiều lợi ích vượt
trội hơn vô cảm khác, an toàn cao, ít tai biến
và biến chứng. Bệnh nhân tập vận động phục
hồi cơ khớp sớm và cải thiện sức khỏe nhanh.
Chi phí thấp đáng kể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Auroy Y, Benhamou D, Bargues L et all.(2002), “Major
complications of regional anesthesia in France”
Anesthesiology; 97, pp1274-80.
2. Ben-David B.(2000), “Minidose bupivacaine-fentanyl spinal
anesthesia for surgical repair hip fracture in the aged”
Anesthesiology; 92, pp6-10.
3. Công Quyết Thắng (2002), Các thuốc tê, Bài giãng Gây mê
Hồi sức, tập 1, Nxb Y học, tr. 531-549.
4. Công Quyết Thắng (2002), Gây tê tuỷ sống - tê ngoài màng
cứng, Bài giãng Gây mê Hồi sức, tập 2, Nxb Y học, tr. 44-83.
5. Đỗ Ngọc Lâm (2002), Thuốc giảm đau họ Morphine. Một số
dẫn xuất Morphine sử dụng trong lâm sàng, Bài giãng Gây
mê Hồi sức, tập 1, Nxb Y học, tr. 407-423.
6. Dupré LJ. ((1995), “Blocking of the brachial plexus: which
technique(s) should be chosen?” Cah Anesthesiol. 43 (6), pp:
587-600.
7. Flores JA, Nishibe T, Koyama Mand et al (2002), “Combined
spinal and epidural anesthesia for abdominal aortic
aneurysm surgery with severe chronic pulmonary
obstructive disease” Sep ; 21 (3), pp218-21.
8. Mertes PM, Dewachter P, Mouton-faivre C, Laxenaire
MC.(2003), Choc anaphylactique. Confrences d’actualisation
SFAR
9. Merts PM et al (2003), Choc anaphylactque. Conférences
d’actualisation, Congrès national d’anesthésie et de réanimation;
45e, p-p: 308-323.
10. Phan Anh Tuấn (2008), Đánh giá tác dụng gây tê tủy sống
bằng Bupivacaine kết hợp với Morphine và Bupivacaine kết
hợp với Fentanyl trong mổ chi dưới, Luận văn Thac sĩ y học
chuyên ngành Gây mê Hồi sức, Học viện Quân y, Bộ Quốc
phòng
Ngày nhận bài báo: 04/03/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/04/2014
Ngày bài báo được đăng: 30/6/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_hieu_qua_cua_phuong_phap_an_than_propofol_voi_fen.pdf